Về thực chất cuộc đấu tranh tư tưởng và chính trị giữa những người cộng sản và trotskyist trong thập niên 1930s
Cuối thập niên 1960s, đầu 1970s một bản luận án tiến sĩ được viết và lưu hành tại Canada có nhan đề "Chủ nghĩa cộng sản Việt Nam" của tác giả Huỳnh Kim Khánh, sau đó được in sách năm 1983. Ông ta đã đưa ra những luận điểm rất "mới mẻ" về cuộc xung đột giữa những người cộng sản và trotskyist trong những năm 1930s là "cuộc xung đột giữa nước Việt Nam cũ và nước Việt Nam mới". Ông ta cho rằng nước Việt Nam mới được đại diện bởi những nhà hoạt động mới thấm nhuần văn hóa giáo dục Pháp, tức là các trotskyist; còn nước Việt Nam cũ là những nhà hoạt động cũ là những người cộng sản thuộc Đảng cộng sản Đông Dương. Nếu như trong những năm 1910s và 1920s, thì những người yêu nước Việt Nam phải lựa chọn giữa việc đi sang Đông hoặc đi sang Tây, thì đến giai đoạn 1930s thì phải "lựa chọn giữa Stalin hay Trotsky, cải lương hay cách mạng, giai cấp thỏa hiệp hoặc giai cấp đấu tranh", ông Huỳnh Kim Khánh cho là như thế.
1. Về "nước Việt Nam cũ" và "nước Việt Nam mới".
Trong chương III của cuốn sách "Chủ nghĩa cộng sản Việt Nam", tác giả đã đưa ra một nhận định Đảng cộng sản Đông Dương như thế này: " Đảng cộng sản Đông Dương, năm 1930, có phải là "đảng kiểu mới", leninist không ? Thực ra Đảng cộng sản Đông Dương chỉ là một đảng kiểu mới trong khuôn khổ của hoạt động chống thực dân ở Việt Nam; về khái niệm, nó có một sự lãnh đạo vững chắc, một bộ máy tổ chức rành rọt và một đường hướng tư tưởng rõ ràng, hơn tất cả các nhóm chống thực dân khác lúc bấy giờ. Tuy nhiên, những điều ấy không làm cho nó thành một đảng kiểu mới theo quan điểm của chủ nghĩa Lê-nin. Thật vậy, ở giai đoạn này của lịch sử Đảng cộng sản Đông Dương, nhiều sự việc chỉ làm cho Đảng cộng sản Đông Dương chỉ phân biệt với các đảng chống chủ nghĩa thực dân khác chủ yếu là trên giấy tờ danh nghĩa mà thôi". Tác giả còn đi kết luận trong cao trào 1930-1931, Đảng cộng sản chỉ có tên tuổi mới, tổ chức mới, còn hành động thì "thường không có gì là cộng sản". Tác giả đã cho rằng những người cộng sản chỉ "mới" vẻ bề ngoài, còn thực chất vẫn là cũ - vẫn làm nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Trong chương IV với nhan đề "Các lực lượng mới", tác giả đã cho rằng chính lực lượng từ Pháp trở về đầu thập niên 1930s đã trở thành lực lượng cứu cánh của phong trào cách mạng vô sản ở Đông Dương. Cái mới thì "tây" hơn, cái cũ thì "tàu, nga", cái mới chọi cái cũ, cái mới cứu cái cũ. Cái mới thì chủ trương làm báo công khai, ra tranh cử hội đội đồng thành phố, lợi dụng khả năng hợp pháp ... Còn cái cũ thì làm bí mật, tổ chức ngầm, sử dụng đấu tranh bạo lực, ... Thực ra những cái "mới" mà tác giả đề cập thì trước đó 10 năm, trong thập niên 1920s người ta đã làm rầm rộ rồi, mới ở đây chỉ có là người mới mà thôi. Báo La lutte xuất hiện năm 1933, nhưng La cloche felée, l'Annam đã xuất hiện gần 10 năm trước đó, công khai viết báo chống thực dân, tuyên truyền Tuyên ngôn của Đảng cộng sản,...; còn cụ Huỳnh Thúc Kháng sau khi từ Côn lôn trở về đã ra tranh cử và đắc cử nghị sĩ Trung kỳ, làm nghị trường; giữa 1920s người Sài Gòn nào mà không biết đến các cuộc mít-tinh rầm rộ của Nguyễn An Ninh, của các chí sĩ yêu nước khác cơ chứ ? điển hình là năm 1926 với hơn 30.000 người ở nhà Rồng. Những cái mà tác giả gọi là "mới" thực chất người ta đã xài nát rồi. Ông ta cổ súy cho việc nhóm 19 người trong đó có Thâu và các trotskyist khác bị trục xuất từ Pháp về như một cứu cánh cho phong trào cách mạng Đông Dương nhưng kỳ thực lại không hiểu rõ gì về nó.
Tác giả lập luận những sinh viên bị trục xuất từ Pari về mang theo "giai cấp đấu tranh", còn các nhà cách mạng chuyên nghiệp từ Moskva thì nang theo "chủ nghĩa quốc tế". Kể từ năm 1932, phong trào đã đổi dần sang "tính chất mới", mang tính chất giai cấp tranh đấu và quốc tế. Tách biệt hoàn toàn với những người cũ, tức dân tộc đấu tranh. Điều đó hoàn toàn không đúng, giai cấp đấu tranh không nhất thiết phải là lập chính phủ công nhân, giai cấp đấu tranh có rất nhiều mức độ, và tùy theo điều kiện lịch sử cụ thể mà phát huy nhiệm vụ nào cho thích hợp: đòi giảm tô, giảm thuế, bỏ nợ, chia ruộng đất nếu không gọi là giai cấp đấu tranh thì gọi là gì ? bãi công, tuyên truyền, mít-tinh chống chiến tranh đế quốc, kỷ niệm Quốc tế lao động, Công xã Pari, Cách mạng tháng Mười, đoàn kết với vô sản Pháp thì không gọi chủ nghĩa quốc tế thì là gì ? Và đâu phải mãi đến đầu năm 1930s mới có các nhà cách mạng chuyên nghiệp từ Pháp và Moskva trở về ? họ đã có mặt từ trước đó và không ngừng tổ chức, làm cách mạng đấy thôi. Lại thêm một sự sai lệch.
Cũng trong chương IV này, tác giả viết khá nhiều về trotskyist Việt Nam. Tác giả đã đi đến một kết luận hết sức kỳ cục, khi cho rằng cuộc tranh chấp của trotskyist và "stalinist" là cuộc xung đột giữa "nước Việt Nam mới" và "nước Việt Nam cũ" mà đại diện là những nhà cách mạng trotskyist bị trục xuất từ Pháp về đầu 1930s và những người cộng sản xuất thân từ Đảng thanh niên và phong trào vô sản trước năm 1930. Thật khó mà hiểu nỗi, những người mà tác giả cho rằng họ là "lực lượng mới" thì mới hơn lực lượng cũ chỗ nào ? Họ cũng tranh đấu giai cấp, chủ nghĩa quốc tế, văn hóa Pháp và Tây phương, ... có khác gì "lực lượng cũ" đâu ? Chỉ khác là họ mặc bộ đồ Tây xịn hơn các nhà cách mạng trong nước mà thôi.
2. Cải lương và cách mạng. Giai cấp thỏa hiệp và giai cấp đấu tranh.
Tác giả Huỳnh Kim Khánh đã đi đến nhận định rằng, những người cộng sản là cải lương, còn trotskyist mới thực sự là cách mạng. Những lời ấy là sự "kế tục" những giọng điệu của trotskyist được viết nhan nhản trên báo chí hồi 1936-1939. Đáng ngạc nhiên là luận án tiến sĩ của ông Khánh không phải viết hồi thập niên 1930s, mà hồi cuối 1960s, đầu 1970s, nghĩa là cách mạng tháng Tám đã thành công, kháng chiến chống Pháp đã thành công, cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra. Tất cả đều là do Đảng cộng sản lãnh đạo, vậy mà khi viết luận án tiến sĩ ông ta vẫn cho rằng những người cộng sản là cải lương ?
Lập luận của tác giả có rất nhiều sai sót. Trước hết như đã nói đấu tranh giai cấp có rất nhiều mức độ khác nhau và đấu tranh giai cấp tồn tại trước cả khi "lực lượng mới" từ Pháp trở về nước, và những người cộng sản Đông Dương từ hồi còn Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã không ngừng tranh đấu giai cấp, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Trong thập niên 1930s, trong các cao trào cách mạng đấu tranh giai cấp, cũng đều do Đảng cộng sản Đông Dương lãnh đạo, thực tiễn đó báo Le Peuple đã đề cập còn gì, trong hàng trăm cuộc biểu tình, mít-tinh thì trotskyist chỉ tham gia 10 cuộc. Như vậy quá rõ ràng những người cộng sản Đông Dương vẫn không ngừng thực hiện đấu tranh giai cấp, nhưng chúng ta cần phải nhận thức đầy đủ chiến lược, chiến thuật của cách mạng Đông Dương, đấu tranh giai cấp phải làm nhiệm vụ hỗ trợ và giúp đỡ cho đấu tranh giải phóng dân tộc giành thắng lợi, cốt là để giữ vững đoàn kết của mặt trận nhân dân. Do đó, cách mạng dân tộc giải phóng là ưu tiên hàng đầu của những người cộng sản.
Nhưng không phải chỉ mỗi những người cộng sản mới thực hiện một lối "thỏa hiệp". Ngay cả những người trotskyist cũng thế, đấu tranh nghị trường bản chất nó cũng là một biện pháp có tính chiến thuật có tính thỏa hiệp nhất định trong điều kiện chuyên chính vô sản chưa có điều kiện để phát triển. Làm sao họ, những người trotskyist trong thời điểm năm 1936-1939 lại có thể bảo những người cộng sản là cải lương, là thỏa hiệp trong khi họ tham gia trực tiếp vào các hội đồng, cơ quan thuộc địa và do chính các cử tri là các địa chủ, nhà tư sản, hương hội bầu lên trong khi những người cộng sản vì tổ chức các phong trào đấu tranh giai cấp mà bị các cử tri ghét bỏ cơ chứ ? Chẳng lẽ sự thỏa hiệp của phái trotskyist lại có thể coi là giai cấp đấu tranh, còn sự thỏa hiệp của những người cộng sản lại bị coi là cải lương, giai cấp thỏa hiệp ? Tác giả không nhìn hay không dám nhìn ra sự vô lý trong chính lập luận của bản thân mình ? Kỳ lạ.
3. Sự lựa chọn giữa Stalin và Trotsky.
Có một sự thật phải khẳng định rằng, mặc dù những người trotskyist hết lời vu cáo Stalin khi cho rằng ông ta làm biến đổi và sai lệch chủ nghĩa Lê-nin. Nhưng cho đến nay họ vẫn không thể chỉ ra Stalin khác Lê-nin ở quan điểm gì đối với các quan điểm về chiến lược và chiến thuật của cách mạng vô sản, ngoài những việc gán ghép vô tội vạ hay bỏ lờ các quan điểm của Stalin trong các bài nói, bài viết. Thật kỳ lạ, không biết Stalin bày tỏ quan điểm thái độ như thế nào đối với cách mạng vô sản, thì làm sao có thể phân biệt được sự khác nhau giữa Lê-nin và Stalin về chiến lược và chiến thuật của cách mạng vô sản được chứ ? Rõ ràng, việc lý giải rằng Stalin làm méo mó chủ nghĩa Lê-nin là những luận điệu hết sức thiếu thuyết phục. Ngay chính trong các cuộc tranh luận trong Đảng hồi thập niên 1920s cũng đã cho thấy Trotsky không hiểu và không biết gì về chủ nghĩa Lê-nin, và từng bước Trotsky bị đánh bại bởi sự đối lập của ông ta đối với chủ nghĩa Lê-nin, đối lập với một đảng cách mạng do chính Lê-nin lập ra. Và những người trotskyist dường như tưởng rằng không ai ngoài họ mới hiểu chủ nghĩa Lê-nin, họ quên mất là một đảng có hàng triệu đảng viên, trong đó có hàng trăm nghìn đảng viên đã trãi qua những bão tố thử thách của cách mạng Nga để làm cách mạng tháng Mười lại không biết gì về chủ nghĩa Lê-nin chăng ? Không lẽ ngay thời điểm năm 1925, hơn 700.000 đảng viên của Đảng lại không thể phân biệt nếu Stalin là một kẻ làm méo mó chủ nghĩa Lê-nin chăng ? Và 99% đảng viên lại đuôi mù đến nỗi không thể nhìn thấy một Trotsky marxist - leninist chăng ? Không hề, rõ ràng là hàng vạn đảng viên ưu tú lúc đó, nhiều người đã trãi qua các nhà tù của chế độ Nga hoàng, cùng hoạt động bên cạnh Lê-nin hoàn toàn đủ khả năng nhận ra đâu là chủ nghĩa Lê-nin.
Như vậy, việc ủng hộ Stalin có một ý nghĩa rất lớn, không phải vì ông ta làm méo mó chủ nghĩa Lê-nin, mà thực chất vì ông ta đã giương cao ngọn cờ chủ nghĩa Lê-nin. Mà vì việc giương cao ngọn cờ và giữ đúng ngọn cờ đó cho nên ông ta mới được toàn Đảng ủng hộ.
Nhưng đứng dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Lê-nin do Stalin giương cao không đồng nghĩa là trung thành với cá nhân Stalin, trung thành với lối diễn giải của Stalin. Nếu ông ta sai, hoàn toàn có thể đi đến các cuộc luận chiến để phản bác điều đó. Nhưng đáng tiếc là những người trotskyist và các phái đối lập khác đã thất bại trong hầu hết các cuộc tranh luận đó, ngay cả Trotsky đã liên tục ăn trái đắng khi bị thất bại vào năm 1924, 1925, 1926 và 1927 đến nỗi phải bị khai trừ Đảng vì vi phạm điều lệ Đảng.
Có một sự thật là từ sau khi Lê-nin qua đời cho đến sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Stalin là tiêu biểu cho ngọn cờ của chủ nghĩa Lê-nin, cho Liên Xô, cho Quốc tế Cộng sản. Cho nên những người cộng sản Đông Dương đều ủng hộ Stalin, nghĩa là họ bênh vực chủ nghĩa Lê-nin để chống lại chủ nghĩa Trotsky. Một sự thật khác cũng phải nhìn nhận đúng là chẳng tồn tại cái gọi là Chủ nghĩa Stalin, vì Stalin không sáng tạo và đúc kết bất kỳ hệ thống lý luận cách mạng vô sản nào để thay thế chủ nghĩa Lê-nin, một sự thật đáng buồn cười là "chủ nghĩa Stalin" ra đời từ miệng của những người trotskyist chứ không phải do cá nhân Stalin sáng tạo nên. Thật là buồn cười khi họ phải sáng tạo ra cái thuyết "Stalin bẻ cong chủ nghĩa Lê-nin", "Chủ nghĩa Lê-nin bị Stalin diễn giải méo mó", ... để cho rằng đó là chủ nghĩa Stalin, và còn xem những ai bênh vực Stalin thì là Stalinist - những người theo chủ nghĩa Stalin. Rất nực cười. Những người tự nhận mình là cách mạng, là chân chính nhưng lại không hiểu cái định nghĩa học thuyết, chủ nghĩa là gì và những người theo chủ nghĩa là như thế nào. Họ gán vô tội vạ cho bất kỳ ai đã bịt được cái miệng "cách mạng" của họ.
Những người cộng sản Đông Dương nào có thể đứng ngoài vấn đề đó chứ. Ngay trong thời kỳ ở Liên Xô năm 1934 - 1938, là người chứng kiến các phiên xét xử mở công khai tại Moskva. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là một trong những người kiên định nhất với chủ nghĩa Lê-nin và ra sức chống những quan điểm Trotsky. Ở Trung Quốc, Người đã viết 3 bức thư gửi Ban chấp hành Đảng cộng sản Đông Dương về việc kiên quyết phải vạch trần bộ mặt của phái trotskyist và không thỏa hiệp với phái trotskyist. Chính vì thái độ ấy, mà mặc dù Nguyễn Ái Quốc có quan điểm tương đối khác biệt so với Stalin về chiến lược và sách lược cách mạng thuộc địa, nhưng vẫn bị trotskyist gán Người là Stalinist mặc dù Người chẳng theo "chủ nghĩa Stalin" bao giờ.
Kề từ khi Người trực tiếp về nước lãnh đạo cách mạng 1941, việc ủng hộ Liên Xô, ủng hộ Stalin là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà Đảng cộng sản Đông Dương đã thực hiện xuyên suốt thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ 2, bảo vệ ngọn cờ của chủ nghĩa Lê-nin.
Do đó, lựa chọn Stalin, tức ngọn cờ của chủ nghĩa Lê-nin, là một quyết định có tính nhất quán của những người cộng sản Đông Dương (chứ không phải vấn đề cá nhân Stalin - Trotsky).
(1) Vietnamese communism: the prepower phase (1925-1945), University of Western Ontario, Cananda, 1972.
(2) Vietnamese communism (1925-1945), Cornell University Press, for the Institute of Southeast Asian Studies, Singapore, 1982.
#Gấu
#Gấu