Trotskyist Việt Nam ứng dụng thuyết "cách mạng thường trực" vào cách mạng Đông Dương
Sự phân liệt trong nhóm La lutte hồi năm 1937 là do ảnh hưởng của cả vấn đề quốc tế và trong nước, nhất là vấn đề trong nước. Vấn đề đối lập giữa những người cộng sản và phái trotskyist nằm ở phạm vi chiến lược, chiến thuật, nhiệm vụ, động lực, phương hướng, tổ chức, đấu tranh cách mạng.
1. Về khẩu hiệu trotskyist "Liên bang các nước xã hội chủ nghĩa Á châu" (Les Etats Unis socialisted d' Asie).
Cũng tựa như khẩu hiệu Liên Âu hồi chiến tranh thế giới thứ nhất, trotskyist từ năm 1930s đã đề ra khẩu hiệu Liên Á.
Những khẩu hiệu ấy, từ hồi năm 1915, Lê-nin đã phê phán kịch liệt: nếu là nói trong khuôn khổ chế độ tư bản thì hoặc là nó không thể thực hiện được, hoặc là nó có tính chất phản động; còn nếu là nói trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì tại sao chỉ Liên Âu mà không phải toàn thế giới ? Mà cho dù có đưa ra khẩu hiệu Liên bang thế giới đi nữa thì cái khẩu hiệu đó sẽ không có ý nghĩa gì cả, vì một là nó trùng với chủ nghĩa xã hội, hai là nó có thể dẫn dắt đến những kết luận sai lầm như là cho rằng chủ nghĩa xã hội không thể thành công trong một nước, và dẫn dắt đến một sai lầm nữa là về thái độ của những nước đã thực hiện thành công cách mạng với những nước khác. Lê-nin viết: "Phát triển không đồng đều về kinh tế và chính trị là một quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản. Bởi vậy cho nên chủ nghĩa xã hội có thể thành công lúc đầu trong một nhóm nhỏ các nước tư bản hay chỉ trong một nước riêng lẻ. Giai cấp vô sản chiến thắng của nước ấy, sau khi đã tịch thu tài sản của bọn tư bản và tổ chức nền sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước mình rồi sẽ đứng dậy chống lại thế giới tư bản chủ nghĩa còn lại bằng cách thu hút về phía mình các giai cấp bị bóc lột ở các nước khác, bằng cách kích thích họ nổi lên chống lại bọn tư bản và bằng cách khi nào cần thiết, dùng cả lực lượng quân sự chống lại giai cấp bóc lột và nhà nước của chúng..." (Bài về Khẩu hiệu Liên Âu).
Trotskyist bám vào khẩu hiệu Liên Âu vì nó phù hợp với thuyết "cách mạng thường trực". Theo thuyết ấy, cách mạng hoặc phải thành công ở nhiều nước châu Âu hoặc là thất bại, chứ không thể thắng trong bất kỳ quốc gia nào. Điều này thật kỳ dị, khác nào bảo nhân dân các ở các nước này phải chờ đợi nhân dân nước kia để cùng làm cách mạng ? Hay mượn cớ "vì cách mạng" mà phát động những cuộc chiến tranh vô tiền khoáng hậu để thúc đẩy chiến tranh cách mạng bất chấp những nước khác chưa có điều kiện và thời cơ cách mạng ? Khẩu hiệu nghe có vẻ cách mạng, nhưng kỳ thực là thủ tiêu cách mạng.
Ngược lại Lê-nin nhấn mạnh đến những khả năng nội tại của mỗi dân tộc, mỗi dân tộc phải tự phát huy hết khả năng của mình mà không phải chờ các dân tộc khác, và sau khi giành thắng lợi thì có thể giúp đỡ các dân tộc khác; nhưng đồng thời nhân dân các nước chưa làm cách mạng thành công thì phải ủng hộ các nước đã giành chính quyền cách mạng. Những lời tiên đoán năm 1915 của Lê-nin vào năm 1917 đã trở thành một hiện thực lịch sử khi Liên Xô là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất từ năm 1917-1945, một mình đứng vững giữa vòng vay chủ nghĩa tư bản. Liên Xô là thành trì của cách mạng, ủng hộ nhân dân các nước thuộc địa làm cách mạng thành công, đồng thời các nước thuộc địa và trên thế giới cũng ủng hộ và bảo vệ Liên Xô.
Đầu thập niên 1930s những người trotskyist Việt Nam đã bắt chước khẩu hiệu Liên Âu mà đề ra khẩu hiệu Liên Á. Những người cộng sản và trotskyist đã liên tục tranh luận với nhau. Lập luận của những người cộng sản cho rằng nhân dân Đông Dương không thể ngồi chờ nhân dân một số nước hoặc toàn châu Á làm cách mạng; hoặc không phải nôn nóng "đốt cháy giai đoạn" mà làm cách mạng trong khi không có khả năng, không có điều kiện phù hợp. Mỗi dân tộc, hễ có điều kiện chín mùi thì cứ làm cách mạng giành chính quyền trước, những nước sau ủng hộ, rồi khi điều kiện chính mùi cũng làm cách mạng và gia nhập vào hệ thống xã hội chủ nghĩa. Chiến thắng chiến tranh Vệ quốc vĩ đại năm 1945 đã mở ra những điều kiện hết sức thuận lợi, một loạt các nước dân chủ nhân dân ra đời và đi theo chế độ xã hội chủ nghĩa.
2. Về tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Đông Dương, chủ trương của trotskyist về "cách mạng vô sản" và "chính phủ công nhân"
Ở Việt Nam những người trotskyist đã chủ trương rằng giai cấp vô sản Đông Dương "không phải làm nhiệm vụ lịch sử của các giai cấp xã hội khác" (báo La lutte số 137), nghĩa là không cần phải thực hiện nhiệm vụ dân chủ tư sản. Trotskyist Việt Nam đã không hề nói đến cách mạng ruộng đất, trong bài "Về bản tuyên bố của các đồng chí Đông Dương đối lập tả phái", chính Trotsky cũng chú ý đến điều đó. Trong lúc những người cộng sản chủ trương làm cách mạng dân chủ tư sản nhằm đánh đổ đế quốc và phong kiến, xem đó là giai đoạn thứ nhất của cách mạng để tạo điều kiện tiến lên giai đoạn thứ hai là cách mạng xã hội chủ nghĩa; còn những người trotskyist chủ trương rằng xã hội Đông Dương sau cuộc xâm lược của đế quốc Pháp nghĩa là "đã hoàn thành cách mạng tư sản" rồi đã làm sụp đổ chế độ phong kiến rồi, đã có sự phát triển của chủ nghĩa tư bản rồi, cho nên cách mạng Đông Dương ngay từ đầu chỉ có thể là cách mạng vô sản để thành lập chính phủ công nhân. Báo "Đuốc vô sản" ngày 28/5/1932, trong bài viết "Cách mạng Đông Dương" những người trotskyist cho rằng: "Chúng ta phải bỏ khẩu hiệu chính phủ công nông, phải chỉ cho các đảng viên thấy rằng sức mạnh công nhân là to lớn hơn sức mạnh nông dân, cứ xem sức mạnh chiến đấu của công xã Quảng Châu thì rõ. Chỉ có công nhân mới nhận thức được học thuyết Mác".
Để dễ dàng hình dung, tôi sẽ khái quát về chiến lược và sách lược của những người cộng sản và trotskyist trong thời điểm này để chúng ta có thể nhận thức đúng vấn đề. Chúng ta đều biết rằng, nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Đông Dương phải là một cuộc dân tộc giải phóng, và đó là đường lối duy nhất đúng cho tiến trình cách mạng Việt Nam.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt đã chủ trương rằng cách mạng Đông Dương sẽ là một cuộc cách mạng dân chủ tư sản, tuy nhiên điểm đặc biệt là cuộc cách mạng dân chủ tư sản đó là chỉ thực hiện một nội dung duy nhất là chống đế quốc. Hay nói cách khác, đó là cách mạng dân tộc giải phóng, do đó nội dung của chiến lược và sách lược của Nguyễn Ái Quốc đó là chuyên chính dân chủ nhân dân, tức là giải quyết vấn đề mâu thuẫn nhất ở Đông Dương - mâu thuẫn giữa nhân dân Đông Dương và đế quốc Pháp xâm lược, cho nên nội dung tập hợp lực lượng bao gồm liên minh công - nông, tư sản, địa chủ và mọi tầng lớp nhân dân có tinh thần yêu nước chống quân xâm lược.
Còn Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu là Trần Phú quán triệt tinh thần của Đại hội VI (1928) của Quốc tế Cộng sản, đã chủ trương cách mạng Đông Dương là cách mạng dân chủ tư sản, nhưng làm đủ hai nội dung của nó đó là chống đế quốc và chống phong kiến, cho nên khi đề ra chủ trương Trần Phú nhấn mạnh vừa đánh đổ đế quốc Pháp giành độc lập dân tộc, đồng thời cũng đánh đổ chế độ phong kiến, làm cách mạng ruộng đất để xóa bỏ hoàn toàn chế độ địa chủ, do đó nội dung tập hợp lực lượng hạn hẹp hơn so với quan điểm của Nguyễn Ái Quốc khi chủ trương chỉ tập hợp: liên minh công - nông, tư sản và một số tầng lớp trung gian có tinh thần cách mạng (song cũng có thái độ không tốt với giai cấp tư sản vì cho rằng đó là giai cấp dao động, có thể phản bội cách mạng), nhất quán chủ trương làm cách mạng ruộng đất để thủ tiêu về mặt giai cấp của địa chủ phong kiến. Như vậy, chủ trương của Trần Phú và Ban chấp hành Trung ương Đảng có phần đặt nặng vấn đề giai cấp (nhưng không phải là tuyệt đối hóa), cho nên làm hạn hẹp lại mặt trận đoàn kết để đấu tranh giành độc lập dân tộc. Tuy nhiên, sau Đại hội VII (1935) của Quốc tế Cộng sản, chủ trương này dần được tháo gỡ, qua các Hội nghị TW 6,7,8 Đảng ta từng bước quay lại quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về chiến lược và sách lược của cách mạng Đông Dương.
Còn quan điểm của trotskyist Việt Nam thì họ không đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu, họ đặt hẳn vấn đề đấu tranh giai cấp lên một mức tuyệt đối, không làm cách mạng dân chủ tư sản mà làm cách mạng vô sản, thực hiện chuyên chính vô sản (nội dung là công nhân), cho nên giai cấp tư sản ngay từ đầu là đối tượng mà họ nhắm tới để đánh đổ và nội dung tập hợp giai cấp của họ là vô cùng hạn hẹp khi chỉ nhắm đến giai cấp công nhân, họ lại còn cho rằng giai cấp nông dân sẽ là kẻ thù tiếp theo của chính phủ cách mạng, không là bạn đường của cách mạng mặc dù giai cấp nông dân chiếm hơn 90% dân số Dông Dương. Có thể nói, việc chỉ dựa vào giai cấp công nhân, đối tượng chiếm rất ít trong xã hội để làm cách mạng vô sản là một quan điểm hết sức ngớ ngẫn.
Tác giả Thanh Hương đã viết trong cuốn "Trotskyist và phản cách mạng" xuất bản ở Sài Gòn năm 1938 đã viết: "Đông Dương là một xứ thuộc địa: kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương không phải là tư bản bản xứ mà là đế quốc chủ nghĩa và bọn đồng minh của chúng là bọn phong kiến bản xứ. Đối với vô sản thì tư bản bản xứ là giai cấp bóc lột; nhưng về phương diện dân tộc thì tư bản bản xứ cũng mất một bộ phận quyền lợi, bị đế quốc ngăn trở con đường phát triển của họ".
Chính khẩu hiệu "chính phủ công nhân" nghĩa là tự cô lập giai cấp công nhân đối với đại đa số quần chúng nhân dân, đối lập công nhân với nông dân, thì sách lược đó quả thực sự là có tính chất thủ tiêu cách mạng, làm cách mạng không những không thể thắng lợi mà còn khiến người ta kinh sợ cách mạng và xa rời cách mạng. Chính vì công xã Quảng Châu không có mối liên kết đông đảo với quần chúng nông dân Quảng Đông cho nên mới thất bại. Ai đời lại xem thất bại là cái gương để hướng tới cơ chứ ? Kỳ lạ.
3. Trotskyist chủ trương mặt trận phải là "mặt trận vô sản"
Báo La lutte ngày 23/3/1937 Tạ Thu Thâu đã trả lời Nguyễn An Ninh như sau: "Vậy tôi kết luận rằng mặt trận nhân dân Đông Dương chỉ có thể là mặt trận vô sản".
Như chúng ta đã biết, Đông Dương là một khu vực nghèo nàn, lạc hậu chủ yếu là nông nghiệp với nông dân chiếm hơn 90% dân số. Vô sản rất ít ỏi, vậy thì lập mặt trận vô sản thì được bao nhiêu người theo cơ chứ, mà lại không được quần chúng ủng hộ thì có thể làm cách mạng kiểu gì ?
Năm 1937, trong các cuộc tranh luận giữa Nguyễn An Ninh và Tạ Thu Thâu, còn có cả Hà Huy Tập, đã vạch trần rõ ràng bộ mặt của các nhà trotskyist Việt Nam. Ninh là một nhà yêu nước có khuynh hướng tả, có cảm tình với cộng sản. Còn Hà Huy tập là một trong những lãnh tụ của Đảng cộng sản. Cuộc tranh luận của họ xoay quanh vấn đề mặt trận nhân dân Đông Dương và cuộc đấu tranh chống bọn phản động thuộc địa trong điều kiện mặt trận nhân dân đang nắm quyền ở Pháp.
Ngày 15/3/1937, Nguyễn An Ninh cho đăng trên báo La lutte bài "Tôi sẽ bằng lòng im lặng đi". Trong bài đó Ninh đưa ra một quan điểm lý luận và thực tiễn trái hẳn với trotskyist, mà gần với của cộng sản về vấn đề mặt trận. Nhắc lại sự khủng bố và những đảng phản động trong bản tuyên bố của quan Toàn quyền Brévié khi ông ta mới tới Sài Gòn. Ninh nhận định rằng chính phủ Đông Dương không phải là chính phủ mặt trận nhân dân, nó vẫn là phản động như trước. Chính vì vậy mà cần phải thành lập mặt trận nhân dân Đông Dương và đấu tranh chống sự phản động đó. Nên tách biệt chính phủ thuộc địa và chính phủ mặt trận nhân dân Pháp, tách biệt giữa chính phủ mặt trận nhân dân Pháp và mặt trận nhân dân.
Ý kiến của Ninh về sự cần thiết phải lập mặt trận nhân dân ở Đông Dương rất đúng. Thâu hỏi: "Ninh muốn lập mặt trận nhân dân với ai?". Thì ngày 23/3/1937, trong bài "Trả lời cho ông bạn Tạ Thu Thâu", Ninh đã khẳng định một lần nữa sự cần thiết phải đoàn kết rộng rãi nhằm cô lập các lực lượng phản động. Ninh viết: "Chắc Thâu đã đoán được trước câu trả lời của tôi. Hẳn là làm mặt trận với đại biểu của các đảng vô sản, với đại biểu của các giai cấp trung gian, với những người trí thức tự do, với tất cả những ai có tham gia hay tỏ ý có cảm tình với cuộc vận động Đông Dương đại hội, với các nhóm người Pháp phái tả nào đã tỏ ra đồng tình với sự thành lập mặt trận nhân dân Đông Dương... Tôi biết rằng nhiều phần tử xã hội kể trên không có tinh thần chiến đấu cần thiết để chống phản động. Tuy vậy họ vẫn tiêu biểu cho một ý thức phản kháng mà bọn phản động không thể không đếm xỉa đến. Một mặt trận nhân dân Đông Dương có thể sẽ khác với mặt trận nhân dân Pháp về thành phần tập hợp".
Nguyễn An Ninh đã đi đến kết luận: "Tôi không phủ nhận công lao của La lutte đối với xứ sở, nhất là đối với quần chúng lao khổ. Nhưng, để có sự tiến bộ nhanh hơn thì, ở Đông Dương, không phải chỉ nên lo tổ chức những lực lượng vô sản không là đủ, mà còn phải lo tổ chức và khuyến khích tổ chức những lực lượng khác nữa. Chỉ biết có phong trào công nhân, đó chưa phải là cách hay nhất để phục vụ phong trào công nhân. Cũng như thế, nếu những sự lo lắng về mặt quốc tế mà quá mức cho đến đỗi làm cho người ta xem nhẹ những lo lắng về mặt dân tộc, thì điều ấy sẽ không phục vụ được chủ nghĩa quốc tế đâu". Tư tưởng của Ninh là như thế.
Thâu đã phản biện Ninh một cách yếu ớt khi vẫn quả quyết trên tờ báo La lutte 23/3/1937 rằng: "Vậy tôi kết luận rằng mặt trận nhân dân Đông Dương chỉ có thể là mặt trận vô sản". Thâu khẳng định: "Giai cấp vô sản không cần làm nhiệm vụ lịch sử của giai cấp khác". Ninh đã phản biện rằng: "Lê-nin khuyên các người cộng sản phương đông phải tập hợp các lực lượng phản đế thành một liên minh. Còn Mác thì khuyến khích, ủng hộ các phong trào giải phóng ở các thuộc địa dẫu rằng các phong trào ấy là phong trào quốc gia, làm như thế, có phải rằng Mác và Lê-nin làm nhiệm vụ lịch sử của các giai cấp khác chăng ?" (La lutte số 138).
Thâu bảo rằng chủ trương của Ninh lập mặt trận nhân dân Đông Dương là một chủ trương "lù mù" hướng về chủ nghĩa dân tộc, thì Ninh đập lại: "Không phải chỉ có chủ nghĩa dân tộc mới sinh ra lù mù. Còn một thứ lù mù khác sinh ra bởi sự hiểu học thuyết giai cấp tranh đấu một cách hẹp hòi". Ninh tiếp tục trả lời: "Bởi vậy cho nên tôi nghĩ rằng, ở Đông Dương, ta có thể và cần phải thực hiện một mặt trận rộng hơn là mặt trận vô sản. Mặt trận nhân dân Đông Dương phải tùy theo điều kiện cụ thể của địa phương mà thành lập. Mặt trận ấy mạnh hay yếu là tùy theo cái lõi vô sản của nó mạnh hay yếu. Nhưng tôi chỉ chịu để cho mặt trận nhân dân thu hẹp lại thành mặt trận vô sản khi nào ta đã làm hết sức rồi, đầy đủ rồi, mà cứ thất bại mãi. Và ngay trong trường hợp đó đi nữa, tôi cứ tin rằng khi có những điều kiện chính trị thuận lợi hơn thì vấn đề liên minh sẽ được đặt ra nữa".
Rõ ràng Ninh còn marxist - leninist còn hơn Thâu, Ninh hiểu thuyết giai cấp tranh đấu của Mác - Lê-nin còn hơn Thâu. Và rõ ràng nhất Thâu cũng như những trotskyist khác càng tranh luận càng tỏ ra biệt phái và cực đoan.
Đại diện những người cộng sản tham gia tranh luận với Thâu chính là Hà Huy Tập, Tập đứng cùng phe với Ninh trong các cuộc tranh luận phản bác Thâu. Các cuộc tranh luận của Tập với Thâu xoay quanh vấn đề chiến lược và sách lược của cách mạng Đông Dương. Thâu và trotskyist không ngừng phê phán đảng cộng sản đã từ bỏ học thuyết giai cấp đấu tranh, từ bỏ đường lối cách mạng, cải lương chủ nghĩa, "chủ nghĩa tân lập hiến", ... Hà Huy Tập phản bác rằng vấn đề chủ yếu không phải là nói cách mạng cho sướng mồm, sướng miệng, mà phải làm cho cách mạng đi đến chỗ thành công. Dù tỏ vẻ cho cách mạng, phê phán cho lắm nhưng không thể làm cách mạng thành công thì hoàn toàn là vô nghĩa. Tập cho rằng giai cấp vô sản đơn độc làm cách mạng thôi thì cách mạng nhất định không thể thành công, vô sản cần phải có nhiều đồng minh thì mới mong có khả năng làm cách mạng. Tập viết: "Dĩ nhiên rằng các tầng lớp xã hội khác cũng có sáng kiến tự tổ chức hay là họ cũng có thể được các đảng tư sản tổ chức họ lại. Nhưng với giai cấp vô sản. Thâu không thấy rằng sở dĩ những người Bolshevik Nga chiếm được chính quyền là vì họ biết tổ chức nông dân và các giai cấp trung gian khác. Còn như, nếu Mussolini và Hitler đã tạo ra được những phong trào quần chúng theo chủ nghĩa phát xít, nhờ đó chúng cướp được chính quyền, nếu giai cấp vô sản Ý và Đức lâm thời bị đánh bại, ấy là một phần cũng là vì giai cấp vô sản ở những nước ấy không kịp thời lôi kéo về mình và tổ chức lại những tầng lớp không phải vô sản ...".
Ninh và Tập đều nhắm trúng vào những điểm yếu cốt tử của những người trotskyist.
Lý luận "mặt trận nhân dân Đông Dương chỉ có thể là mặt trận vô sản" của Thâu là một loại chủ nghĩa biệt phái, cực đoan, vừa không tin vào khả năng cách mạng của các giai tầng khác trong xã hội, vừa không tin vào khả năng cải tạo vĩ đại của chính giai cấp vô sản: sự cảm hóa, sự đoàn kết của giai cấp vô sản đối với quảng đại quần chúng. Xét cho đến cùng, những lập luận đó là sự thủ tiêu lý luận cách mạng do kém hiểu biết về chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
4. "Chủ nghĩa hư vô về dân tộc" của trotskyist Việt Nam
Trong báo La lutte ngày 13/5/1937, Hà Huy Tập với bút danh Hồng Qui Vi nhận xét: "Chính vì thái độ biệt phái đó của Thâu hoàn toàn không nói gì đến những nhiệm vụ giải phóng dân tộc của các dân tộc Đông Dương. Xóa bỏ các quyền lợi dân tộc, là làm cho giai cấp vô sản bị cô lập, mà cũng là phản bội chủ nghĩa quốc tế". Ninh cũng phản ứng như thế trên báo La lutte trước đó vào ngày 15/3/1937: "Nếu những sự lo lắng về quốc tế quá mức cho đến đỗi làm cho người ta xem nhẹ những lo lắng về dân tộc, thì điều đó sẽ không phục vụ được cho chủ nghĩa quốc tế đâu".
Như vậy chủ nghĩa quốc tế của phái trotskyist tách bạch hoàn toàn với chủ nghĩa yêu nước.
Trên báo La lutte ngày 13/4/1935, chính những người trotskyist đã công khai thế này: "Đã lâu rồi, sợi dây yêu nước trong tâm hồn của chúng tôi không còn rung động nữa".
Nhà sử học Pháp D. Hémery từng viết: "Trong các văn kiện của La lutte, người ta lấy làm lạ mà thấy rằng họ giành một chỗ rất nhỏ cho thực tế dân tộc. Dưới ngòi bút của một Trần Văn Thạch hay một Tạ Thu Thâu, không còn thấy nhắc nhở đến lịch sử dân tộc mà người ta thường được đọc trên báo chí hồi 1925-1927 nữa. Những từ ngữ chủ yếu của một bài văn yêu nước như "tổ quốc", "độc lập" hầu như không còn được dùng đến nữa. La lutte được biên tập bằng ngôn ngữ giai cấp đấu tranh . Về chủ nghĩa yêu nước thì văn chương Pháp rất nhiều từ ngữ, nhưng không thấy La lutte sử dụng đến. Chỉ có một lần thôi, ấy là vào ngày 8/5/1935, La lutte dùng chữ "Vietnam" và ngày 13/4/1935, La lutte đi tới mức viết rằng: "Đã lâu rồi, sợi dây yêu nước trong tâm hồn của chúng tôi không còn rung động nữa".
Những người trotskyist còn đi tới chỗ khẳng định chủ nghĩa yêu nước mang tính chất phản động. Bản "Tuyên ngôn" của họ còn viết: "Chủ nghĩa dân tộc lúc nào cũng là một ý thức hệ phản động, nó chỉ có thể rèn đúc ra sợi dây xiềng mới tròng vào cổ giai cấp vô sản".
Ngược lại, những người cộng sản thì lại hô hào về đoàn kết tất cả lực lượng trong nhân dân để đánh thực dân Pháp giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do. Không có độc lập tự do thì không thể có chủ nghĩa xã hội hội, không thể có chính phủ cách mạng. Thật là hồ đồ khi đánh đồng tất cả chủ nghĩa dân tộc đều là phản động, mà quên đi rằng chủ nghĩa dân tộc cũng có những mặt tiêu cực lẫn mặt tích cực, và những người cộng sản phải nắm lấy mặt tích cực đó để phát huy, nhìn thấy mặt tiêu cực để hạn chế, cốt là làm lợi cho cách mạng.
Trotskyist Việt Nam thời điểm đấy là những người theo chủ nghĩa hư vô về dân tộc.
#Gấu