Nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh vì Độc lập và Dân chủ
Nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh
vì Độc lập và Dân chủ
V.Y. Vasilieva
Cử nhân khoa học Lịch sử
Báo cáo tại Viện hàn lâm khoa học Viễn Đông Liên Xô 1949.
Nữ đồng chí Vera Vasilieva, một người bạn, một người đồng chí, một người đồng nghiệp thân mến của đồng chí Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Đồng chí Vasilieva là một cán bộ Quốc tế Cộng sản trực thuộc Ban Phương Đông, chịu trách nhiệm quản lý các nhóm học sinh tại Trường Đại học Phương Đông, đồng chí còn là giảng viên giảng dạy tại Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Nói cách khác, nữ đồng chí Vera Vasilieva từng là cấp trên của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Trong những năm tháng ở thủ đô Moskva giai đoạn 1934-1938, do một số khuynh hướng tả khuynh trong Bộ chỉ huy Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương, đồng chí Nguyễn Ái Quốc từng bị các đồng chí trong Đảng ta gửi thư tố cáo cho Quốc tế Cộng sản. Chính đồng chí Vera Vasilieva là người đứng ra biện hộ và bảo vệ cho đồng chí Nguyễn Ái Quốc trong Ban thẩm tra vụ án Nguyễn Ái Quốc tại Moskva vào năm 1936. Sau khi Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô năm 1938, đồng chí Vera Vasilieva đã hoàn toàn mất liên lạc với Người. Mãi đến năm 1950, trong chuyến đi thăm bí mật đến Liên Xô, lúc này đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã là chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Hồ Chí Minh, mới có dịp gặp mặt lại người bạn cũ này. Vera Vasilieva là một trong những nhà nghiên cứu tiên phong về Việt Nam và Đông Nam Á trong thế kỷ trước, đồng chí là thầy, là bạn, của hơn 60 học sinh Việt Nam từng học tập tại Trường Đại học Phương Đông mang tên đồng chí Stalin và Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Bà là một trong những người đã có ảnh hưởng quan trọng trong việc định hình về ngành nghiên cứu Việt Nam học tại Liên Xô.
⏪⏪⏩⏩
Lấy cảm hứng từ cuộc đấu tranh anh dũng và công cuộc xây dựng thắng lợi của nước Trung Hoa dân chủ, nhân dân Đông Nam Á đang vùng lên, chung tay bảo vệ nền độc lập tự do và quyền lợi của mình. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đang đứng trên tuyến đầu đấu tranh của nhân dân Đông Nam Á. Ba năm tồn tại của nền cộng hòa là những năm đầy thử thách và khó khăn đối với nhân dân Việt Nam, nhưng đồng thời cũng là những năm tháng huy hoàng khi đạt được nhiều thắng lợi to lớn trên con đường đấu tranh vì độc lập của dân tộc. Trong điều kiện của cách mạng thuộc địa, nhân dân Việt Nam đang tiến hành một cuộc chiến tranh nhằm giành lấy độc lập tự do cho mình và xây dựng nước Cộng hòa dân chủ nhân dân. Trong hoàn cảnh khó khăn và phức tạp ấy, trong điều kiện chiến sự triền miên, Việt Nam đang bước những bước tiến đầu tiên trên con đường xây dựng nền dân chủ.
Sau khi Liên Xô đánh bại đế quốc Nhật, ngày 17/8/1945 (sai lệch -TG), nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập do mặt trận thống nhất dân tộc và Chính phủ lâm thời đứng đầu. Chủ tịch của nước cộng hòa, giữ cương vị ấy là ông Hồ Chí Minh. Nước cộng hòa này bao gồm những phần lãnh thổ Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, nơi sinh sống của tất thảy người An Nam (Việt Nam). Lãnh thổ của nước cộng hòa này vào lúc thành lập bao gồm 328.000 km2 trên tổng diện tịch 750.000 km2 lãnh thổ Đông Dương thuộc Pháp, tức là ít hơn một nửa phần lãnh thổ ấy. Các khu vực còn lại bao gồm của Lào và Cam-pu-chia với dân số ít hơn, trên thực tế Đông Dương không phải là liên bang của các nước cộng hòa.
Hai mươi triệu người, trong tổng số hai mươi sáu triệu người Đông Dương, đang sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam.
Nền độc lập của nhân dân Việt Nam đã không được đế quốc Pháp thừa nhận, mà ngược lại chúng còn đang tổ chức các cuộc hành binh chống lại những người giải phóng Việt Nam. Nhưng cuộc chiến kéo dài ba năm đã cho thấy rằng vị thế của những người kháng chiến đang ngày càng được củng cố, những người Việt Nam vẫn đứng vững trước những cuộc tiến công dữ dội của bọn can thiệp Anh - Pháp, những kẻ đang dựa vào vũ khí của Mỹ. Cuộc đấu tranh ngoan cường của họ chống những kẻ xâm lược đã gặt hái được nhiều thành công. Sau ba năm kháng chiến, toàn bộ nông thôn nằm trong tay những người kháng chiến. Người Pháp nắm hầu hết các thành thị lớn, các trung tâm đường sắt và những vùng giàu tài nguyên khoáng sản để khai thác. Mặc dù thế, nhưng rõ ràng là bè lũ đế quốc không cảm thấy yên lòng được trước tình hình đó.
Trong lời kêu gọi toàn dân và toàn quân nhân nhân dịp Quốc khánh lần thứ ba, ông Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng lãnh thổ do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiểm soát lên đến 95% với dân số gần hai mươi triệu người. Và 5% còn lại đang nằm trong tay bọn đế quốc. Chúng đang hứng chịu những tổn thất nặng nề. Quân đội của Việt Nam được hình thành trong cuộc đấu tranh chống quân Nhật xâm lược, trãi qua nhiều trận chiến ác liệt, giờ đây họ đang từng bước trở thành một đội quân lớn mạnh về cả chất lượng lẫn số lượng.
Quân đội Việt Nam bao gồm 150.000 quân. Khi bắt đầu kháng chiến chống Anh - Pháp, họ sử dụng đến cả những vũ khí thô sơ nhất, chủ yếu là dao và vông tre. Nhưng hiện tại, quân đội Việt Nam đã được trang bị các vũ khí hiện đại. Một phần là từ chính vũ khí của kẻ thù sau các trận chiến; một phần là họ tự sản xuất vũ khí và vật tư quân sự. Trong các nhà máy và nhiều phân xưởng, đã sản xuất ra các loại súng trường, mìn, lựu đạn, mìn chống tăng. Quân đội được tổ chức thành mười quân khu bao trùm lên toàn bộ lãnh thổ. Đại diện quân đội và đại diện chính quyền thường xuyên trao đổi thường kỳ để trao đổi với nhau về kinh nghiệm và hoạch định kế hoạch tiếp theo cho cuộc kháng chiến.
Họ không những từng bước trở thành một đội quân lớn, có năng lực chiến đấu tốt và tự cung cấp vật tư chiến tranh mà còn phát triển về mặt tư duy quân sự, phát triển về các kế hoạch chiến thuật chiến tranh. Họ kết hợp giữa tác chiến chính quy và du kích quân, một đội quân có thể phân thành nhiều đội du kích, đồng thời các đội du kích đó có thể hợp lại thành một đội quân cho các trận đánh lớn. Chiến thuật này dựa trên khả năng cơ động và khả năng điều động cho các chiến dịch mà lực lượng kháng chiến muốn phân bổ, điều này hoàn toàn phù hợp với điều kiện khí hậu và sự hiểu biết địa phương của chính bản thân họ.
Lực lượng quân sự của họ không chỉ bao gồm quân chính quy. Các đội dân quân du kích địa phương, những người cũng đã tích lũy kinh nghiệm kha khá trong chiến đấu, họ rõ ràng là một lực lượng hùng hậu lên đến 300.000 người.
Quân đội và các đảng chính trị của họ đều dựa vào quần chúng nhân dân. Điều này ngay chính cả quân Pháp cũng phải ghi nhận về tinh thần đấu tranh anh dũng của nhân dân Việt Nam. Chính vì thế, chúng ra sức khủng bố nhân dân trên các vùng tạm chiếm. Đốt và phá bất cứ ngôi nhà nào mà chúng tình nghi là có liên hệ với những người kháng chiến. Chúng tra tấn và giết hại những người kháng chiến bị bắt. Người Pháp càng ngày càng sử dụng nhiều thủ đoạn để phá hoại nền kinh tế Việt Nam. Ví dụ, tại tỉnh Nam Định gần Hà Nội, những chiếc xe bọc thép của Pháp "Ambhibion" đã cày nát ruộng lúa của dân trong nhiều tuần lễ; ở Hải Dương và các tỉnh Tây Nguyên, quân Pháp đã đốt phá hàng nghìn kho thóc và thiêu hủy hàng trăm đàn gia súc. Tại Vinh, máy bay Pháp đã bắn vào những người nông dân đang đắp đê gần một con sông.
Từ mua xuân 1947, chiến tranh ngày càng leo thang. Người đứng đầu Bộ Tổng tham mưu quân đội Pháp được phái sang Đông Dương với mục đích tái tổ chức và xây dựng lại lực lượng quân đội thuộc địa, những kẻ đang chống lại nhân dân Việt Nam.
Sự leo thang chiến tranh không thể không gắn với những chiến thắng của quân giải phóng nhân dân Trung Quốc ở phía bên kia biên giới. Phần phía Bắc Việt Nam giáp với các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông Trung Quốc. Chiến thắng của quân giải phóng nhân dân Trung Quốc ở miền Nam đã làm các lực lượng đế quốc vô cùng lo lắng. Đế quốc Pháp và đế quốc Mỹ đang nghĩ rằng, chúng không còn thời gian và đang tăng cường các nỗ lực quân sự hòng đập tan sự kháng cự của những người kháng chiến.
Cần phải nhìn rõ là Việt Nam và Đông Dương đều đang nằm trong tầm ngắm của đế quốc Mỹ. Ngay từ sớm, Mỹ đã coi nơi đây là một vị trí quan trọng cho mưu đồ bành trướng của mình tại Đông Nam Á và Trung Quốc, Mỹ xem Đông Dương và Việt Nam là những lợi ích cốt yếu của mình, và xem cuộc xâm lược của Pháp đối với Việt Nam là một biện pháp nhằm chống lại phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân các nước Châu Á và Viễn Đông.
Vì lẽ đó, đế quốc Mỹ không chỉ chăm chú theo dõi tình hình ở Việt Nam mà còn dần dà trực tiếp tham dự một cách tích cực vào cuộc xâm lược đó.
Các tờ báo phản động Pháp công khai viết bài nói về sự can thiệp của Mỹ. Ví dụ, tờ "Tranh đấu" của Pháp viết: "Đại diện Bộ Ngoại giao Mỹ đã khẳng định Chính phủ Mỹ đã nhiều lần tiến hành đàm phán với Chính phủ Pháp về các vấn đề Đông Dương". Tờ báo cũng báo cáo về sự tham gia tích cực của Mỹ trong việc thành lập Chính phủ bù nhìn của tướng Nguyễn Văn Xuân ở Nam Kỳ và trong việc khôi phục nước An Nam quân chủ do Bảo Đại đứng đầu, mà hiện nay đang được Pháp cố gắng thành lập ở Đông Dương.
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đang tồn tại và phát triển trong điều kiện bị đế quốc xâm lược, trong điều kiện kháng chiến không ngừng. Vì thế mà nền kinh tế hiện tại của nước cộng hòa còn nhiều khó khăn và cho đến hiện nay, những tàn tích của sự chiếm đóng và cướp bóc nhân dân Đông Dương của quân Nhật vẫn chưa thể xóa bỏ. Đông Dương đã từng chịu sự áp bức hai tròng - Chủ nghĩa đế quốc Pháp và chủ nghĩa phát xít Nhật. Nền kinh tế Đông Dương từ lâu đã rơi vào tình trạng suy sụp. Đồng thời cuộc chiến đã mang lại sự tàn phá thêm cho hệ thống giao thông vận tải, cảng biển và sân bay. Rất nhiều phương tiện vận tải, phương tiện khai thác dầu mỏ đã bị phá hủy, bom mìn khắp nơi, nhiều thành thị và các đồn điền bị phá hủy. Khi bọn đế quốc tiến hành xâm lược Đông Dương, cuộc chiến tranh mà chúng mang lại đã đặt nền kinh tế nước Việt Nam non trẻ này trên bờ vực của một cuộc thảm họa.
Pháp bị suy yếu nặng nề sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, tầm ảnh hưởng tại Đông Dương dần bị phai nhạt. Trước Chiến tranh, Đông Dương là nơi cung cấp các nguyên liệu thô và lương thực đến Pháp cũng như là thế giới. Việc xuất khẩu nguyên liệu và lương thực từ Đông Dương là một nguồn siêu lợi nhuận cho các công ty xuất nhập khẩu từ thuộc địa của người Pháp, vốn là những kẻ chiếm toàn quyền trong lĩnh vực này. Trong Đại chiến thế giới thứ hai và sau đó, việc xuất nhập khẩu này đã giảm đáng kể. Trước đây, Đông Dương xuất khẩu gần 7 triệu tấn gạo hàng năm, trung bình hàng năm của cả thời kỳ thuộc địa là 1triệu 8 tấn hàng năm. Hiện nay, điều đó chỉ còn phân nửa. Đông Dương đã từng xuất 70.000 tấn cao su hàng năm và hiện nay, năm 1947 chỉ còn 15-20.000 tấn.
Việc giải phóng một phần đáng kể lãnh thổ Đông Dương khỏi tay đế quốc Pháp, những chính sách đúng đắn của Chính phủ cách mạng ngay từ những ngày đầu tiên, đã giáng những đòn nặng nề vào âm mưu của quân xâm lược, một bước tiến mới cho các dân tộc đang bị nô dịch đang trên con đường tìm kiếm cách thức giải phóng dân tộc mình. Điều đó càng minh chứng cho một sự thật về một cuộc khủng hoảng đang xảy ra trong hệ thống thuộc địa của các nước đế quốc.
Chính phủ Việt Nam đương phải tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ và xây dựng nó trong điều kiện của cuộc chiến tranh thuộc địa chống bọn đế quốc. Chính phủ và nhân dân Việt Nam kiên quyết đập tan quân xâm lược, chính chúng là nguyên nhân gây nên những đau khổ và khó khăn nền cộng hòa non trẻ này. Chỉ khi và khi giành thắng lợi trong cuộc chiến giải phóng dân tộc thì Chính phủ Việt Nam mới có thể đi đến chỗ tập trung giải quyết những nhiệm vụ cấp bách của nền kinh tế quốc dân, ví dụ: phục hồi hệ thống giao thông vận tải đã bị phá hủy - điều kiện quan trọng nhất để đảm bảo Việt Nam có thể khôi phục kinh tế. Chính phủ cần thực hiện các biện pháp cấp bách để củng cố nền tài chính quốc gia đương cực kỳ vô tổ chức, rồi cải cách tiền tệ, tổ chức lại hệ thống thuế, và trước nhất là thuế khoán - một thứ gánh nặng của nhân dân cần phải bị loại bỏ.
Chính phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm đến việc cải thiện nông nghiệp - nền tảng kinh tế đất nước. Nhờ một số biện pháp của chính phủ, kỹ thuật canh tác đã ít nhiều được cải thiện. Trong Bộ Canh nông, một ban thể hỗ trợ nông dân đã được thành lập, họ cung cấp các khoản vay cho nông dân. Chính phủ cũng hỗ trợ trong việc chăn nuôi gia súc.
Chính phủ Việt Nam cũng đã bắt đầu tiến hành cải cách ruộng đất. Tình hình ruộng đất ở ba miền đất nước không đồng nhất. Bắc kỳ là vùng có quy mô thửa ruộng nhỏ rất phổ biến, mức độ phân tán cao. Tư hữu ruộng đất phổ biến, số người chiếm hữu 1 mẩu hay từ 1-5 mẩu đất chiếm 91,5%. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, quá trình nông dân bị tước đất đai ngày càng diễn ra phổ biến và dưới áp lực của sự suy tàn kinh tế, nhiều người đã bị bần cùng hóa đến nỗi đã bị tước đi những mẩu đất cuối cùng của mình.
Tại Bắc Kỳ và phía bắc Trung Kỳ, những người nông dân có sở hữu một mảnh đất nhỏ, nhưng nó không đủ để nuôi sống bản thân và gia đình. Phần lớn ruộng đất thì tập trung vào tay đế quốc Pháp, bọn địa chủ và trong tay bọn phú nông. Tình hình ruộng đất phía Nam Trung kỳ cũng giống như Nam kỳ. Tại đây, quá trình tước đoạt ruộng đất đã xảy ra sớm hơn, tập trung vào trong tay các điền trang tư sản của người Pháp hoặc người Việt bản xứ. Ở Nam kỳ, phần lớn đất đai tập trung vào trong tay người Pháp, họ đã chiếm lấy 25% trong tổng số đất đai có thể canh tác được của toàn cõi Đông Dương.
Ở Nam kỳ cũng có những người bần nông không ruộng đất. Trung nông có ruộng đất nhỏ thì chiếm một số lượng không đáng kể. Và 2,5% người sở hữu ruộng đất trong tổng số người có ruộng đất ở Tây Nam Bộ và Đông Nam Bộ, lại sở hữu lấy 45% diện tích ruộng lúa nơi đây.
Không có số liệu chính xác về sự biến động của chế độ ruộng đất trong những năm Nhật chiếm đóng. Nhưng đặc trưng của nó vẫn không khác biệt, đó là sự tập trung ruộng đất trong tay địa chủ phong kiến, phú nông, và việc nông dân bị tước đoạt ruộng đất.
Chính vì thế, ngay từ rất sớm Chính phủ Việt Nam đã nhạy bén trong việc giải quyết vấn đề nông dân, họ thi hành chính sách giảm 50% thuế đất. Trước đây, thuế má rất cao, đôi khi còn vượt cả giá trị sau khi thu hoạch mùa vụ, điều đó càng làm tăng thêm sự bần cùng hóa của nông dân và gia tăng sự áp bức của địa chủ và phú nông lên đầu họ. Chính phủ Việt Nam còn nghiêm cấm hành vi cho vay nặng lãi. Ruộng chung thì được chia lại cho các bần nông. Các ruộng chung này trước đây thuộc quản lý của làng xã, mà thực chất là do bọn quan lại phong kiến địa phương quản lý. Ở Bắc Kỳ, trước chiến tranh có đến 231.000 ha đất chung, chiếm 21% diện tích đất trồng lúa, Trung kỳ là 25%, Nam kỳ là 3%.
Việc phân chia ruộng đất đã giáng những đòn nặng nề vào bọn quan lại phong kiến, bọn địa chủ và phú nông. Trong tình hình của Bắc kỳ hiện nay, biện pháp đó của Chính phủ Việt Nam đã làm giảm bớt đi đáng kể sự khó khăn của nông dân. Trong khi đó thì ở Nam kỳ, đất chung thì rất ít, mà bần nông không ruộng thì rất nhiều, biện pháp chia ruộng đất chung có rất ít tác dụng trong thực tế.
Các chính sách của Chính phủ Việt Nam đang cố gắng tạo những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển sản xuất nông nghiệp và cải thiện đời sống của người nông dân, mở ra con đường cho nông dân Việt Nam đi đến một tương lai tốt đẹp hơn. Kết quả của các biện pháp này, hiện nay đã được gặt hái trong thực tế, vị thế của giai cấp nông dân đã được cải thiện rất nhiều.
Ngay trong điều kiện của cuộc kháng chiến, Chính phủ Việt Nam không hề bỏ quên vai trò và vị thế của người lao động, của giai cấp công nhân.
Các tổ chức Công Đoàn được thành lập. Tổng liên đoàn lao động đại diện cho hơn 250.000 công nhân đã được thành lập. Công Đoàn tiến hành việc kiểm soát đối với việc thực hiện luật lao động thông qua việc thành lập các ủy ban của người lao động tại các xí nghiệp và địa phương. Người lao động, công nhân trong các vùng do chính phủ kiểm soát đang được tổ chức theo phương thức lao động mới. Nhiều người thậm chí còn quên mình trong việc tăng ca sản xuất, đôi khi là không lấy lương, để đảm bảo nhu cầu vật tư cho cuộc kháng chiến cứu nước. Họ thật sự là linh hồn của công cuộc giải phóng dân tộc. Họ không chỉ là đội ngũ tham gia hăng hái trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, mà họ còn là động lực lôi kéo mọi tầng lớp nhân dân khác đoàn kết trong cuộc đấu tranh giải phóng và kiến thiết đất nước.
Ở Việt Nam, phong trào thi đua ái quốc, nâng cao năng suất sản xuất, phục vụ kháng chiến đang được tổ chức rộng rãi. Người lao động Việt Nam đang dồn hết tâm trí và sức lực của mình vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc mình khỏi ách áp bức và nô lệ của đế quốc Anh, Pháp, Mỹ.
Ủy ban nhân dân là cơ sở của hệ thống chính trị Nhà nước ở Việt Nam. Ủy ban nhân dân được tổ chức ở mỗi cấp của đơn vị hành chính - tỉnh, huyện, xã, ấp. Ủy ban được bầu thông qua bầu cử phổ thông và bỏ phiếu kín. Các thành viên của Ủy ban thực hiện theo chức năng được phân công mà không nhận bất kỳ khoản lương nào.
Ủy ban nhân dân đã góp phần giúp Chính phủ giải quyết tất cả các chính sách về kinh tế, xã hội, văn hóa - nhất là việc xóa bỏ nạn mù chữ. Cần phải nói rõ rằng, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong cuộc chiến chống nạn mù chữ ấy. Trước đây, dân số mù chữ chiếm 85-90%, nhưng chỉ sau ba năm, nó đã giảm xuống còn 40%.
Thành tựu của nhân dân Việt Nam hiện nay đang cho thấy một sự thật rằng ở Việt Nam, nền móng cho nền Cộng hòa Dân chủ Nhân dân đang được thiết lập.
Cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và công cuộc xây dựng dân chủ hiện nay của nhân dân Việt Nam đang được tiến hành dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Cuộc đấu tranh ấy của nhân dân Đông Dương đã trãi qua nhiều gian khổ, qua lửa đạn của Chiến tranh thế giới, và hiện nay trong cuộc đấu tranh vì hòa bình độc lập và tự do. Ngay cả trong những giai cấp bóc lột trước đây, một bộ phận đã tách rời khỏi những đường lối phản động, chống dân chủ để gia nhập lực lượng cách mạng tiến bộ để đấu tranh đến cùng cho nền độc lập nước nhà.
Sự liên hợp của các giai tầng đó vào trong một Mặt trận quốc gia thống nhất chống phát xít Nhật xâm lược, còn được gọi là Việt Minh, được thành lập vào năm 1941 được đặt dưới quyền lãnh đạo thực sự của Đảng Cộng sản Đông Dương. Việt Minh được lãnh đạo bởi một vị lãnh tụ của Đảng Cộng sản Đông Dương - đồng chí Hồ Chí Minh. Việt Minh đã tiến hành thống nhất một số đảng tiến bộ, các tổ chức dân chủ quần chúng. Việt Minh bao gồm hết mọi thảy tầng lớp các dân tộc ở Đông Dương, họ - những người đang khao khát được độc lập và tự do.
Khẩu hiệu dân tộc chủ nghĩa được tuyên truyền bởi người Nhật đã gây được sự ảnh hưởng trong các phần tử phong kiến, tư sản, quan lại, kể cả những kẻ đã bắt tay với thực dân Pháp, nay lại bắt tay với bọn phát xít Nhật. Tất cả các loại tư sản, đầu cơ, kể cả người Pháp, bản xứ đều tập trung vây quanh Ngân hàng Đông Dương, họ tích lũy khối tài sản khổng lồ, vơ vét tài sản của nhân dân và ra sức bóc lột các hạng dân nghèo.
Sự cướp bóc của bọn phát xít Nhật đã gây ra những tình cảm bi thảm và lòng căm thù của nhân dân Đông Dương đối với chúng ngày càng trở nên sâu sắc.
Vào tháng Tám 1945, sự thành lập nước Việt Nam độc lập, dưới sự lãnh đạo của Việt Minh là một bước tiến dài trong việc củng cố khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam trên cơ sở dân chủ. Mà trong đó, linh hồn của những người Việt Minh chính là những người cộng sản. Họ là những người lãnh đạo thực tế trong mọi tổ chức và đoàn thể, họ đứng đầu trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu trong các công tác xây dựng nền dân chủ cộng hòa trong toàn quốc.
Đứng đầu của Chính phủ Dân chủ Cộng hòa ấy, người mà được hết thảy nhân dân Đông Dương yêu mến và kính trọng, người sáng lập ra Đảng Cộng sản Đông Dương, đồng chí Hồ Chí Minh. Ngoài ra còn có một số đồng chí cộng sản khác cũng nắm giữ các vị trí lãnh đạo then chốt của Chính phủ.
Cuộc tổng tuyển cử Quốc hội tháng Giêng 1946 đã đem lại sự thắng lợi hoàn toàn cho Việt Minh, đã giành được 230 trên tổng số 300 ghế. Những ghế còn lại là của một số đảng không tham gia Việt Minh, đó là Việt Quốc, Việt Cách và một số đảng nhỏ khác.
Bất chấp mọi mưu toan phá hoại cuộc bầu cử của thực dân Pháp, ngay cả tại Nam kỳ, mặc dù bị chiếm đóng và chịu sự khủng bố tàn bạo, hơn 90% tổng số cử tri đã đi bầu. Người dân, lần đầu tiên trong lịch sử đã được nhận quyền tự do tham gia vào đời sống chính trị, và do đó họ thể hiện sự ý thức hoạt động chính trị cao độ.
Tuyệt đại đa số cử tri đã bỏ phiếu cho Việt Minh, tổ chức đại diện cho quyền lợi đông đảo của nhân dân, và hiện nay họ đang nắm giữ Chính phủ. Trong Chính phủ Hồ Chí Minh cũng có các đại diện của các đảng phái khác nữa.
Ngay khi vừa mới thành lập, Chính phủ Hồ Chí Minh đã xây dựng các chương trình hành động và các biện pháp ngay lập tức. Cốt lõi của nó là: một cuộc đấu tranh kiên quyết để giành được độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc, sự toàn vẹn của chủ quyền lãnh thổ, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, mở rộng và tăng cường các quyền tự do dân chủ, tổ chức chính quyền hành chính, cải thiện điều kiện cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân.
Mặt trận dân tộc thống nhất đã đoàn kết hết thảy mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam: công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tiểu thị dân, thợ thủ công, trí thức, tiểu tư sản, trung lưu, tư sản đã tham gia nó.
Lực lượng đứng đầu Mặt trận dân tộc thống nhất là giai cấp công nhân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Giai cấp công nhân có truyền thống cách mạng phong phú. Không phải ngẫu nhiên mà trung tâm đời sống chính trị của Việt Nam lại tập trung ở Bắc Kỳ và Trung kỳ. Bắc Kỳ là trung tâm của đời sống công nghiệp của Đông Dương, là thủ đô cách mạng của giai cấp công nhân.
Chiến tranh thế giới thứ nhất đã đặt nền móng cho các ngành công nghiệp Đông Dương. Với một giai cấp tư sản dân tộc còn tương đối yếu, ở đây đã hình thành giai cấp vô sản tập trung chủ yếu trong các ngành giao thông vận tải, công nghiệp nhẹ và khai khoáng, ở các đồn điền của bọn đế quốc. Cuộc khai thác thuộc địa trong thời gian dài đã thôi thúc giai cấp công nhân tranh đấu. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười vĩ đại là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc phát triển ở Đông Dương. Cuộc đấu tranh vì độc lập và dân chủ ở Trung Quốc hiện nay cũng góp phần vào việc thúc đẩy cách mạng hóa Đông Dương như là một tấm gương thôi thúc quần chúng nghèo khổ. Những năm hai mươi, phong trào công nhân Đông Dương xuất hiện. Những năm ba mươi với sự thành lập của Đảng cộng sản và thống nhất các tổ chức cộng sản.
Sự xuất hiện của giai cấp công nhân và cuộc đấu tranh của nó đã trở thành những cơ sở chính trị cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trong cao trào 1930-1931. Đến chiến tranh thế giới thứ hai, giai cấp công nhân Đông Dương đã tiếp thu những kinh nghiệm đấu tranh giành quyền lãnh đạo trong phong trào giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của đội tiên phong của nó, Đảng Cộng sản Đông Dương. Giai cấp công nhân đã và đang là những người đấu tranh kiên cường nhất cho nền độc lập tự do của toàn dân tộc Việt Nam. Giai cấp vô sản đã đứng đầu trong phong trào kháng Nhật, đứng đầu trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ và sớm xây dựng được nền Cộng hòa dân chủ. Và đương hiện nay, nó còn đứng đầu cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp xâm lược và là những người tiên phong trong việc xây dựng nền dân chủ.
Giai cấp công nhân đang lãnh đạo đông đảo quần chúng nông dân, quan tâm đến sự thay đổi căn bản của chế độ áp bức thuộc địa - vấn đề ruộng đất - câu hỏi căn bản và gay gắt nhất của cách mạng thuộc địa. Giai cấp nông dân Đông Dương luôn sống trong cảnh chết đói, vì sở hữu ít ỏi ruộng đất hay lao động làm thuê trên các mảnh đất nhỏ khác, chỉ thu được những khoản tiền chết đói và không thể nuôi sống gia đình. Tình cảnh nông dân còn trở nên tồi tệ hơn trong những năm Nhật chiếm đóng và việc đế quốc Pháp quay trở lại tái xâm lược.
Liên minh chặt chẽ giữa giai cấp công nhân và nông dân, là cơ sở của mặt trận dân tộc thống nhất, đồng thời tiến hành lôi kéo đông đảo các tầng lớp nhân dân khác, người lao động, thị dân, tiểu tư sản, trí thức, tư sản vào trong Mặt trận. Dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản, các tầng lớp nhân dân đang tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng nhằm giành lấy độc lập hoàn toàn cho nhân dân Việt Nam.
Mặc dầu cuộc đấu tranh của nhân dân Đông Dương trước hết là chống lại chủ nghĩa đế quốc và quân xâm lược với mưu toang khôi phục chế độ thuộc địa, tuy nhiên, các tầng lớp đại tư sản vẫn lo sợ trước tính chất dân chủ của phong trào cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo, chính vì thế chúng đã đi đến con đường phản bội lại dân tộc.
Vào thời điểm tuyên bố độc lập, nhiều hạng tư sản lớn, địa chủ phong kiến quan lại đã gia nhập Chính phủ Dân chủ, họ nghĩ rằng rồi cũng có thể xoay sở cuộc sống mới trong chế độ mới, duy trì sự thống trị của mình trong một nước Việt Nam độc lập, cản trở được sự tiến lên của cách mạng. Nhưng ngay khi tính chất dân chủ nhân dân của cách mạng giải phóng dân tộc, do những người cộng sản lãnh đạo, thì họ ngay lập tức rời bỏ hàng ngũ và chạy theo phe đế quốc.
Giai cấp tư sản, những kẻ gắn chặt lợi ích với đế quốc pháp, đồng thời, bọn quan lại phong kiến và địa chủ cũng cộng tác với chủ nghĩa đế quốc, xem bọn đế quốc cũng như giai cấp tư sản công nghiệp là chỗ dựa của mình, chúng cùng hội cùng thuyền với bọn xâm lược Pháp.
Những giai cấp và tầng lớp bóc lột này hiện nay đang cộng tác với giặc Pháp. Chúng đang lợi dụng tình hình khó khăn của nền cộng hòa để làm lợi cho mình bằng cách đầu cơ lấy và vơ vét tài sản. Trên thực tế, chúng giúp đỡ Pháp chống lại nền độc lập của nước Việt Nam. Chính từ những phần tử xảo trá này, mà bọn đế quốc hiện nay đang lập nên chính phủ bù nhìn trên lãnh thổ Việt Nam.
Bằng cách lợi dụng các nhà lãnh đạo của các đảng tư sản, địa chủ và cánh hữu, đế quốc Pháp đang mưu toan phá vỡ Mặt trận dân tộc. Việt Quốc - cụ thể là ban lãnh đạo của nó, cũng như là Việt Cách - được thành lập tại miền Nam Trung Quốc vào năm 1942 trong số những kiều dân An Nam, đang ra sức giúp đỡ âm mưu thuộc địa hóa của thực dân Pháp.
Toàn bộ chính sách của Pháp đối với Việt Nam chỉ có thể tóm gọn rằng: người Pháp đang mưu toang bóp chết nền cộng hòa non trẻ này, đồng thời sẽ khôi phục ách áp bức thuộc địa của mình. Nhưng, các cuộc đàn áp phong trào kháng chiến của chúng đã chuốc lại những thảm bại; cuộc chiến ngày càng kéo dài, lợi thế đang ngày càng chuyển dần sang phía những người kháng chiến. Những thành công liên tiếp của quân đội Việt Nam cũng như những thất bại của người Pháp, đã buộc chúng phải chuyển sang một chính sách cơ động phức tạp với hy vọng sẽ đánh bại được người Việt Nam. Hiệp định ngày 6/3/1946 là chiêu bài đầu tiên của bọn đế quốc. Theo đó, chúng công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia độc lập với Chính phủ riêng, Nghị viện riêng, quân đội riêng, tài chính riêng nằm bên cạnh các thành phần khác của Đông Dương, cùng tham gia Khối Liên Hiệp Pháp.
Vấn đề Nam kỳ, vốn bị người Pháp chiếm đóng, sẽ được gia nhập Việt Nam theo một cuộc trưng cầu dân ý. Tuy nhiên, biết chắc là người Việt Nam ở Nam kỳ sẽ ủng hộ việc gia nhập với Bắc kỳ, Trung kỳ, bọn đế quốc đã giở thủ đoạn xảo trá biến Nam kỳ thành một nước Cộng hòa tự trị, thành lập chính phủ bù nhìn từ những kẻ thuộc các giai cấp tư sản, địa chủ, quan lại phong kiến để mưu đồ xây dựng lực lượng chống Việt Nam.
Phản kháng trước những mưu toang xảo trá của bè lũ đế quốc, nhân dân Nam Kỳ đã vùng lên, không khí khởi nghĩa bao trùm toàn bộ Nam kỳ. Sự kháng cự của nhân dân Nam kỳ đã buộc đế quốc Pháp phải đi đến chiêu bài mới - Hiệp định ngày 14/9/1946, trong đó một lần nữa lại khẳng định về nền độc lập của nhân dân Việt Nam. Thỏa thuận này quy định ngừng các hoạt động chiến sự và nối lại các cuộc đàm phán để ký kết một thỏa thuận mới về kinh tế, chính trị, và các vấn đề khác nữa.
Tuy nhiên, đến tháng 12/1946 để quốc Pháp đã không ngừng giở ra các chiêu bài hòng đổ ngày càng nhiều quân vào Đông Dương. Chính họ là những kẻ khơi mào ra chiến tranh và làm cho nó kéo dài cho đến ngày hôm nay.
Sau khi Chính phủ Việt Nam từ chối "điều kiện hòa bình" bất bình và xấu xa do Pháp đề xuất tháng 4/1947, thực dân Pháp đã ra chiêu bài và hành động khiêu khích mới. Họ quyết định đem cựu hoàng Bảo Đại, kẻ có ước mơ khôi phục vương quyền Đế quốc An Nam bù nhìn mà đã bị xóa sổ hồi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hồi tháng 8/1945.
Những kẻ đế quốc đã tiến hành một công việc với mục đích khôi phục lại chế độ bảo hộ của Pháp, họ hy vọng rằng biện pháp này có thể phá vỡ mặt trận thống nhất của nhân dân. Thực dân Pháp bằng mọi cách để tiến hành ly gián tình cảm giữa các vùng khác nhau của Đông Dương, chống lại các biện pháp mặt trận dân tộc của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Do đó, các nhóm dân tộc chủ nghĩa được đế quốc tạo ra nhằm phục hồi vị thế cho Bảo Đại.
Mặc dù một số nhà lãnh đạo đã ly khai khỏi Việt Quốc và Việt Cách, tham gia trực tiếp vào công cuộc chống Pháp, tuy nhiên, một bộ phận trong số họ đã tham gia cùng với Bảo Đại hồi tháng 1/1947 đã thành lập cái gọi là "Mặt trận Quốc gia Việt Nam thống nhất", nơi mà tập hợp tất cả những phần tử phản động và phản quốc. Chúng đã tiến hành các hoạt động phản trắc nhất, nhằm phá hoại nền Cộng hòa non trẻ và sự đoàn kết của nhân dân Việt Nam. Đế quốc Mỹ đã cử những tình báo của mình tham gia tổ chức này, thông qua đó, chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. "Mặt trận Quốc gia Việt Nam thống nhất" - tức mặt trận của bọn phản bội dân tộc Việt Nam cùng với bọn cảnh sát và đám phiến loạn dân tộc chủ nghĩa - trở thành chỗ dựa của chính phủ Bảo Đại và các ông chủ người Pháp.
Trước tiên, họ thành lập một "chính phủ chuyển tiếp" do tướng Nguyễn Văn Xuân đứng đầu, một kẻ tay chân của người Pháp. Bằng cách tạo ra một chính phủ song song với chính phủ Hồ Chí Minh do nhân dân bầu ra, bọn thực dân muốn đánh lừa dư luận thế giới và nhân dân Việt Nam, chia rẽ mặt trận dân tộc thống nhất, làm suy yếu lực lượng kháng chiến.
Vào đầu tháng 6/1948, cái gọi là Hiệp định Pháp - Việt được ký kết giữa Cao ủy Pháp tại Đông Dương, Bolaer và Bảo Đại. Tự nhân danh nhân dân Việt Nam chúng tuyên bố Pháp chính thức công nhận nền độc lập của Việt Nam và đưa Chính phủ Bảo Đại vào Khối Liên hiệp Pháp. Buộc chính phủ bù nhìn phải ký kết nhiều hiệp định với Pháp về chính trị, kinh tế, tài chính, văn hóa , ....
Ngoài những thỏa thuận được công bố, một thỏa thuận bí mật đã bị Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phanh phui: một sự thật là chính phủ bù nhìn không có bất kỳ hệ thống tài chính độc lập nào; không có một chính sách đối nội đối ngoại độc lập; không có quân đội độc lập; lực lượng cảnh sát chính phủ bù nhìn nằm dưới tay người Pháp.
Chính phủ của tướng Nguyễn Văn Xuân đã tích cực giúp đỡ Pháp trong việc khôi phục lại chế độ thuộc địa của Pháp tại Đông Dương, vốn đã bị suy yếu và đánh mất trong những năm tháng đại chiến thế giới. Nhưng cái gọi là "chính phủ" này vốn chẳng có chút sự ủng hộ nào của nhân dân, thậm chí là bị căm ghét và khinh bỉ.
Do đó, Pháp vội phải thay thế bọn này bằng Bảo Đại, sợ rằng Chính phủ Nguyễn Văn Xuân sớm muộn sẽ gây ra những kết cục tồi tệ cho bọn Pháp. Ngày 8/3/1948 cái gọi là Hiệp định Pháp - Việt do Tổng thống Cộng hòa Pháp và Hoàng đế Bảo Đại đã được ký kết tại Pari. Cả hai hiệp định, 1948 và 1949, về mặt bản chất không hề khác nhau. Theo thỏa thuận mới, "Việt Nam" của Bảo Đại, vẫn được gọi là độc lập, trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp. "Việt Nam" của Bảo Đại có thể có các đại diện của mình tại một số quốc gia, nếu được Tổng thống Liên hiệp chấp thuận. Quân đội sẽ được tổ chức bao gồm các sĩ quan Pháp và binh lính người Việt. Bộ Tổng tham mưu của đội quân này do người Pháp lãnh đạo. Chính phủ bù nhìn có nghĩa vụ phải mua tất cả vật tư chiến tranh sản xuất từ Pháp cho quân đội của mình. Họ phải nhượng bộ các vị trí chiến lược, nhượng bộ về kinh tế, tài chính, đảm bảo quyền lợi cho tài sản của người Pháp.
Đâu có khó để chỉ ra rằng với thỏa thuận như vậy, thực dân Pháp một lần nữa muốn trói buộc Việt Nam vào đế quốc Pháp và khôi phục ách áp bức thuộc địa ở nơi đây ?
Bảo Đại, vị hoàng đế được thực dân Pháp nuôi dưỡng, đã trở lại Đông Dương vào tháng 5/1949.
Báo chí phản động Pháp đã hết lời ca ngợi bản Hiệp định, coi đó là thỏa thuận mà người Pháp hết sức "nhượng bộ" và "thõa hiệp". Trên thực tế, đó là văn kiện chính thức hóa khôi phục chế độ thuộc địa của Pháp đối với chính phủ Bảo Đại.
Hiệp định gây nên làn sóng căm phẫn của nhân dân Việt Nam. Tòa án quân sự Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra lệnh truy nã tên phản bội Bảo Đại. Trước đó không lâu, Chính phủ Việt Nam cũng vừa ban hành danh sách của những kẻ phản bội Tổ quốc, trong đó có tên đứng đầu Chính phủ bù nhìn Nguyễn Văn Xuân.
Công chúng ở nước Pháp đánh giá các hiệp định này là sự từ chống trực tiếp của Chính phủ Pháp đối với phương hướng giải quyết mối quan hệ Việt - Pháp trên tinh thần hòa bình, với chính phủ dân cử Hồ Chí Minh, điều đó có nghĩa là người Pháp đã lựa chọn cách giải quyết bằng con đường chiến tranh.
Những sự kiện diễn ra đã cho thấy sự phát triển của ý thức chính trị của quần chúng lao động. Bất chấp việc tồn tại chính phủ bù nhìn Nguyễn Văn Xuân, chính phủ bù nhìn Bảo Đại, nhưng quần chúng lao động và toàn thể nhân dân Việt Nam kiên quyết ủng hộ Chính phủ chân chính Hồ Chí Minh.
Bất chấp sự thỏa hiệp của một bộ phận các giai cấp tư sản, địa chủ đối với bọn đế quốc; bất chấp sự phản bội của một số nhóm trong cộng đồng dân tộc; sự thống nhất đoàn kết và rộng rãi giữa các tầng lớp nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp là một điều chắc chắn. Sự thống nhất này là cơ sở chính trị cốt lõi cho Chính phủ Hồ Chí Minh, những người đã lãnh đạo cuộc đấu tranh của nhân dân và cả trong công cuộc xây dựng nền cộng hòa dân chủ ngay khi nó vừa mới ra đời.
Đế quốc Pháp còn lợi dụng đặc tính đa dân tộc của Đông Dương và dùng nhiều biện pháp để kích động lòng hận thù dân tộc. Chúng cố gắng làm điều đó với người Lào và người Campuchia, giữ cho họ những cái mác "vương quốc" mà trên thực tế là hoàn toàn phụ thuộc vào chủ nghĩa đế quốc Pháp. Điều này đã tạo điều kiện cho các phần tử quân chủ và phong kiến, một bộ phận đáng kể ở Lào và Campuchia, trở thành chỗ dựa cho mưu đồ thuộc địa hóa của bọn đế quốc Pháp. Tuy nhiên, phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc rồi cũng sẽ bao trùm lên cả Lào và Campuchia.
Cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam đã cho thấy hệ thống thuộc địa tồn tại hơn 100 năm đang trên bờ vực sụp đổ và sự khủng hoảng ấy đang lan rộng sâu sắc trong hệ thống thuộc địa của Pháp.
Chủ nghĩa đế quốc Pháp, chống lưng chúng là phố Wall, sẽ không thể khôi phục vị trí của chúng ở Việt Nam. Đế quốc Mỹ hiện nay đang công khai bóp chết nền tự do của nhân dân Việt Nam và điều này được minh chứng qua chuyến đi thăm Bảo Đại của Bullit. Chắc chắn rằng trong tương lai, bọn đế quốc sẽ không từ bỏ thủ đoạn để cản trở nhân dân Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng của mình.
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và các dân tộc anh hùng đang và sẽ đương đầu với những khó khăn, nguy hiểm. Nhưng những thành công của nhân dân Trung Quốc; sự phát triển của phong trào giành độc lập dân tộc của nhân dân Đông Nam Á; sự ủng hộ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của tất cả các lực lượng tiến bộ trên toàn thế giới, đứng đầu là Liên Xô; là những nhân tố thuận lợi cho con đường đi đến thắng lợi cuối cùng.