Lãnh Tụ Kim Jong Il
Kim Jong Il sinh ra tại Núi Paektu vào ngày 16 tháng 2 năm Juche 31 (1942).
Ông đã trải qua thời thơ ấu lắng nghe tiếng súng của cuộc chiến tranh chống Nhật. Cả cuộc đời, ông đã tận tụy ủng hộ ý tưởng và sự nghiệp của Chủ tịch Kim Il Sung.
Ông bắt đầu sự lãnh đạo cách mạng dựa trên Tư tưởng Sogun (quân sự trên hết) bằng chuyến thăm Sư đoàn Tăng thiết giáp Cận vệ số 105 Seoul Ryu Kyong Su vào ngày 25 tháng 8 năm Juche 49 (1960). Kể từ khi bắt đầu làm việc tại Ủy ban Trung ương Đảng Lao động Triều Tiên (WPK) vào ngày 19 tháng 6 năm Juche 53 (1964), ông đã lãnh đạo WPK, quân đội và nhân dân trong nửa thế kỷ, lập nên những thành tựu bất diệt cho thời đại và lịch sử.
Ông đã hệ thống hóa tư tưởng cách mạng của Kim Il Sung thành Chủ nghĩa Kimilsung và làm rạng danh nó như là tư tưởng chỉ đạo vĩnh cửu của WPK và DPRK. Ông tuyên bố mô hình hóa toàn xã hội theo Chủ nghĩa Kimilsung là cương lĩnh tối thượng của WPK và đã tổ chức, lãnh đạo công cuộc hiện thực hóa cương lĩnh đó một cách khôn ngoan. Ông đã đoàn kết chặt chẽ đông đảo quần chúng nhân dân xung quanh WPK bằng cách thực hiện chính sách nhân từ và bao dung, và tăng cường đáng kể động lực của sự nghiệp xã hội chủ nghĩa bằng cách hiện thực hóa sự thống nhất tư tưởng và tinh thần chiến đấu giữa quân đội và nhân dân.
Sau khi Chủ tịch Kim Il Sung qua đời, Kim Jong Il đã nêu gương trong việc thực hiện sự nghiệp bất tử hóa lãnh tụ và đảm bảo rằng những chỉ thị lúc sinh thời của Chủ tịch được tiếp tục coi là kim chỉ nam trong mọi lĩnh vực cách mạng và xây dựng, để cuộc đời và thành tựu của ông được tỏa sáng mãi mãi.
Vào những năm cuối thế kỷ trước, khi đất nước phải gánh chịu sự công kích chống xã hội chủ nghĩa của các lực lượng đế quốc đồng minh do Mỹ đứng đầu, ông đã đề ra Chính trị Sogun (quân sự là cơ bản) như là phương thức chính trị cơ bản của chủ nghĩa xã hội và thực hiện nó một cách toàn diện. Ông đã phát triển Quân đội Nhân dân Triều Tiên thành một quân đội bất khả chiến bại, xây dựng ngành công nghiệp quốc phòng tự lực và hiện đại hóa trên mọi phương diện, hiện thực hóa việc vũ trang toàn dân và xây dựng công sự toàn quốc ở mức độ cao, và biến đất nước thành một cường quốc hạt nhân.
Hết thập kỷ này đến thập kỷ khác, ông đã thắp lên ngọn lửa của một cuộc cách mạng mới và lãnh đạo phong trào khơi dậy ngọn lửa của cuộc cách mạng công nghiệp trong thế kỷ mới, nhờ đó đất nước có thể chứng tỏ sức mạnh của mình với tư cách là một quốc gia sản xuất và phóng vệ tinh nhân tạo và là một cường quốc khoa học công nghệ làm chủ hoàn toàn công nghệ CNC (Điều khiển Số bằng Máy tính).
Trung thành với các chỉ thị của Chủ tịch về thống nhất Triều Tiên, ông đã đề ra ba hiến chương cho sự thống nhất quốc gia và đảm bảo rằng Tuyên bố chung 15 tháng 6 và Tuyên bố 4 tháng 10 đã được thông qua giữa Triều Tiên và Hàn Quốc để mở ra một kỷ nguyên mới của phong trào thống nhất độc lập tiến lên dưới lý tưởng Tự lực dân tộc (By Our Nation Itself).
Ông đã mở rộng và phát triển mối quan hệ hữu nghị và hợp tác với các quốc gia khác khao khát độc lập bằng chiến lược ngoại giao dày dạn kinh nghiệm và các hoạt động đối ngoại năng động của mình, qua đó có những đóng góp to lớn trong việc bảo vệ hòa bình và ổn định của Đông Bắc Á và phần còn lại của thế giới.
Ông qua đời trên một chuyến tàu đang chạy vào ngày 17 tháng 12 năm Juche 100 (2011).
Sau khi ông qua đời, DPRK đã truy tặng ông danh hiệu Nguyên soái DPRK (Generalissimo) và tôn kính ông như là Tổng Bí thư vĩnh viễn của WPK và Chủ tịch vĩnh viễn của Ủy ban Quốc phòng DPRK.