Cuộc đấu tranh tư tưởng và chính trị của những người cộng sản chống phái Trotskyist ở Việt Nam


TỰA

Trong một xứ thuộc địa có truyền thống đấu tranh lâu dài chống chủ nghĩa thực dân như ở ta thì đáng lẽ cuộc đấu tranh tư tưởng và chính trị phải diễn ra chủ yếu phải là giữa hai đảng: tư sản và vô sản. Đáng lẽ, cuộc đấu tranh đó phải là trung tâm của các cuộc đấu tranh nhằm giành quyền lãnh đạo nhân dân trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.

Nhưng thực tế lại không phải vậy.

Ở Việt Nam, các đảng tư sản lại không thích hoạt động tư tưởng lý luận, ngay cả Quốc dân đảng. Bản thân họ ngập ngừng mãi trong việc lựa chọn một chủ nghĩa. Chính vì thế, khuynh hướng cách mạng dân tộc tư sản trước và sau Khởi nghĩa Yên Bái đều không tạo nổi ra một chính đảng có khả năng dẫn dắt quần chúng làm cách mạng. Do đó, ngay từ những ngày đầu, phong trào cách mạng đã nằm hẳn trong tay giai cấp vô sản.

Còn những người dân tộc cải lương, mặc dầu họ có những điều kiện hoạt động công khai, song chính đảng cũng tỏ ra yếu ớt. Một mặt người Pháp không muốn họ trở thành một tổ chức thống nhất, mà phải rời rạc yếu ớt; mặt khác bản thân họ chỉ muốn vơ vét làm giàu, thiếu năng lực cách mạng. Đảng lập hiến ở Nam kỳ, nhóm 1884 ở Huế, nhóm Nam Phong ở Bắc kỳ, ... Họ không có uy tín đáng kể nào cả trong dân chúng, ngay cả trong tư sản, địa chủ, phong kiến.

Sự bất lực của giai cấp tư sản, một phần nào là do bản chất và đặc điểm của nguồn gốc xuất thân giai cấp: tư sản, địa chủ, phong kiến. Nhưng đồng thời, trong cùng thời điểm đó sự hoạt động của những người cộng sản đang ngày càng lớn dần và chiếm dần ưu thế trong phong trào cách mạng dân tộc, điều đó cũng góp phần làm suy yếu ảnh hưởng của các đảng tư sản.

Dó là lý do vì sao giữa hai cuộc thế chiến, mà ở nước ta, cuộc đấu tranh tư tưởng và chính trị giữa hai đảng tư sản và vô sản lại nghèo nàn về nội dung và không phong phú hình thức, không giống các xứ thuộc địa khác. Nhưng mặc khác, cuộc đấu tranh trong nội bộ phong trào vô sản thì lại trở nên gay gắt, giữa những người cộng sản và những người trotskyist.

Cuộc đấu tranh giữa những người cộng sản và phái trotskyist tại Việt Nam là cuộc đấu tranh lâu dài, xuyên suốt, liên tục và gay gắt: bao gồm cả mặt lý luận, tổ chức và hầu hết các vấn đề mang tính chiến lược và chiến thuật của cuộc cách mạng bản xứ. Cuộc đấu tranh ban đầu diễn ra trong vòng bí mật, bằng miệng, bằng báo chí, ngay cả trong nhà tù. Từ năm 1936 thì rộng rãi, trên báo chí, trong mít-tinh, bãi công biểu tình, bầu cử Hội đồng thành phố Sài Gòn hay Hội đồng quản hạt Nam kỳ.

Cuộc đấu tranh này ít nhiều có tầm quan trọng, vì nó đảm bảo được rằng cuộc cách mạng dân tộc giải phóng ở Việt Nam đi đúng con đường của cách mạng vô sản theo chủ nghĩa Lê-nin.


Học thuyết của Trotsky - "Cách mạng thường trực"


Lev Trotsky (1879 - 1940), là đảng viên của Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga từ giai đoạn đầu mới thành lập. Năm 1903, Đảng phân liệt thành hai phái: Bolshevik (đa số) và Menshevik (thiểu số). Trotsky đứng ở phái giữa, nhiều lúc đối lập với phái Bolshevik của Lê-nin. Tháng 6/1917, Trotsky mới gia nhập Đảng Bolshevik, đến năm 1927 thì bị khai trừ khỏi Đảng. Trong suốt 10 năm đó, Trotsky đã rất nhiều lần chống Lê-nin và Ban chấp hành Trung ương Đảng. Đặc biệt, năm 1927, Trotsky bị khai trừ khỏi Đảng vì vi phạm nghiêm trọng Điều lệ của Đảng, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, có biểu hiện bè phái, chống Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương, chống lại nguyên tắc tổ chức Đảng cộng sản do chính Lê-nin lập ra. 

Như vậy, giữa chủ nghĩa Lê-nin và chủ nghĩa Trotsky hoàn toàn không có gì giống nhau, mà trái lại rất khác nhau. Do đó không có chuyện những người trotskyist lại đại diện cho chủ nghĩa Lê-nin được, mà ngược lại họ chống chủ nghĩa Lê-nin. Ai mà đọc các cuộc tranh luận giữa Lê-nin và Trotsky, thì không thể nào không nhận ra sự khác biệt quá rõ ràng giữa quan điểm của hai người. Và cho đến hiện nay, những người trotskyist hiện đại cũng không thể nào dung hòa được giữa học thuyết của Trotsky với chủ nghĩa Lê-nin mặc dù trong số họ - một bộ phận công khai chỉ trích những sai lầm của Trotsky. Chính vì thế, trong một số chừng mực họ không công khai chống chủ nghĩa Lê-nin, mà làm méo mó và xuyên tạc nó dưới chiêu bài chống Stalin - người bảo vệ chủ nghĩa Lê-nin kể từ sau khi Lê-nin mất.

Trotsky đã gọi học thuyết của mình là thuyết "Cách mạng thường trực".

Trong bài tựa viết năm 1922 cho cuốn sách "Năm 1905" của mình, Trotsky đã trình bày thuyết cách mạng thường trực của mình một cách có hệ thống gồm ba điểm cơ bản như sau:

Thứ nhất: Năm 1905, nước Nga đang bước vào cuộc cách mạng lần thứ nhất, thì Trotsky quan niệm rằng "cuộc cách mạng Nga hiện giờ tuy có những nhiệm vụ tư sản, nhưng chỉ có thể thực hiện những nhiệm vụ tư sản đó bằng cách đưa giai cấp công nhân lên nắm chính quyền". Chính vì thế trong cuộc cách mạng Nga 1905, Trotsky đưa ra khẩu hiệu: "Đánh đổ Nga hoàng, lập chính phủ công nhân" - tức là đề ra chuyên chính vô sản.

Nhưng Lê-nin không chủ trương như thế, Người chỉ rằng cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới đang diễn ra ở nước Nga mặc dù là do giai cấp công nhân lãnh đạo, song cách mạng muốn thành công thì phải thành lập chính phủ liên minh công - nông, tức là công - nông chuyên chính, nghĩa là chuyên chính dân chủ cách mạng của công nhân và nông dân. Cuộc cách mạng này sẽ tiến lên trở thành cách mạng xã hội chủ nghĩa, thì nó mới trở thành chuyên chính vô sản.

Do đó, khẩu hiệu "chính phủ công nhân" của Trotsky tức là đốt cháy giai đoạn, cực tả. Và những người trotskyist Việt Nam trong thập niên 30s cũng tán thành khẩu hiệu đó.

Thứ hai, Lê-nin coi trọng liên minh công - nông, cho rằng nông dân lao động là người bạn gần gũi với giai cấp công nhân trong cách mạng dân chủ tư sản và cả trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Lê-nin coi liên minh công - nông là nền tảng của chuyên chính vô sản.

Còn Trotsky thì lại cho rằng: "Chính là để bảo đảm cho cách mạng thành công, cho nên đội tiên phong vô sản ngay từ ngày đầu của nền thống trị của mình, chẳng những phải xông vào đánh phá tư hữu tài sản phong kiến mà cả tư hữu tài sản tư sản nữa. Làm như vậy, thì giai cấp vô sản chẳng những phải xung đột đối lập với các nhóm của giai cấp tư sản, các nhóm này lúc đầu có thể ủng hộ cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản, lại còn xung đột đối lập với quảng đại quần chúng nông dân mà sự giúp đỡ đã đưa giai cấp vô sản lên nắm chính quyền".

Lê-nin yêu cầu liên minh chặt chẽ công - nông trong tiến trình cách mạng, còn Trotsky thì đề cao chuyên chính vô sản cho nên cho rằng sẽ xung đột với giai cấp nông dân trong tiến trình cách mạng. Đó chính là sự khác biệt giữa chủ nghĩa Lê-nin và thuyết của Trotsky.

Những người trotskyist Việt Nam trong thập niên 30s lại tán thành quan điểm đó của Trotsky.

Thứ ba, chính vì cho rằng giai cấp công nhân khi nắm chính quyền sẽ xung đột với nông dân, cho nên Trotsky cho rằng: "Các mâu thuẫn trong tình thế chính phủ công nhân thành lập ở một nước lạc hậu, một nước mà nông dân là đại đa số, các mâu thuẫn đó muốn được giải quyết thì chỉ còn một cách duy nhất là giải quyết trên bình diện quốc tế với cuộc cách mạng thế giới của giai cấp vô sản".

Như vậy, Trotsky cho rằng chính quyền cách mạng Nga không thể nào đứng vững được bởi vì nông dân chống lại chính phủ công nhân, do đó chính quyền cách mạng ở Nga chỉ có thể đứng vững trong điều kiện cách mạng nổ ra trên hầu khắp các nước tư bản tiên tiến. Do đó khẩu hiệu của Trotsky là Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa châu Âu là thế.

Trái với Trotsky, Lê-nin cho rằng, bởi vì sự phát triển không đồng đều về kinh tế và chính trị là một quy luật tất yếu của chủ nghĩa tư bản, cho nên cách mạng thế giới lúc đầu chỉ có thể nổ ra trong một vài nước, thậm chí là một nước riêng lẻ. Cách mạng thành công trong nước đó, sẽ ra sức củng cố chính quyền và tổ chức nền sản xuất xã hội chủ nghĩa, biến nước mình thành căn cứ địa cách mạng thế giới, ra sức giúp đỡ các nước khác làm cách mạng. Chủ nghĩa xã hội trong một quốc gia và Quốc tế cộng sản là những tư tưởng cốt lõi của Chủ nghĩa Lê-nin.

Những người trotskyist Việt Nam lại tán thành khẩu hiệu đó của Trotsky và bắt chước đề ra cái gọi là Liên bang xã hội chủ nghĩa châu Á.

Trên đây, là ba nội dung chính mà học thuyết của Trotsky khác hoàn toàn với lý luận của Chủ nghĩa Lê-nin. Nhưng không phải sự khác biệt giữa Chủ nghĩa Lê-nin và lý thuyết cách mạng Trotsky chỉ khác biệt ở 3 điểm đấy, mà thực tế khác rất rất nhiều điều mà thông qua Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô hay các cuộc tranh luận giữa Lê-nin và Trotsky, thì chúng ta mới có thể thấy hết được.

1. Trong vấn đề xây dựng đảng cách mạng, Lê-nin chủ trương lập đảng theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có ý chí thống nhất, có kỷ luật nghiêm khác. Còn Trotsky và phái Menshevik thì chủ trương đảng cơ cấu nhóm, bè phái, không cần theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Cho nên Trotsky trước là phái giữa trong Đảng công nhân dân chủ xã hội Nga, thì sau trong Đảng Cộng sản là phái tả. Chính cái chủ trương này là nguyên nhân Trotsky bị khai trừ khỏi Đảng khi liên tục hình thành các phái đối lập trong Đảng và không thừa nhận Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc. Và cũng chính vì cái chủ trương này mà trotskyist quốc tế không thoát khỏi cơ cấu nhóm ở hầu hết các quốc gia nó có tồn tại, và chính vì thế nó không mạnh và nhanh chóng tan rã. Chúng ta nên nhớ rằng ở Pháp trong thập niên 30s có đến 5 nhóm trotskyist hoạt động riêng lẻ và chống lẫn nhau.

2. Lê-nin luôn quan niệm rằng, khởi nghĩa cách mạng là sự nghiệp của đông đảo quần chúng cách mạng. Còn Trotsky thì ngược lại thì cho rằng chỉ cần một nhóm thiểu số chuyên nghiệp, được tổ chức cao và quyết tâm lớn thì có thể làm được cách mạng. Quan điểm này của Trotsky đã chết ngay cái lúc ông ta xin gia nhập Đảng Bolshevik hồi tháng 6/1917 khi các Xô viết ngã về phái Bolshevik sau cao trào tháng Sáu 1917, giữa lúc Đảng Bolshevik đang chiếm uy tín của đông đảo quần chúng cách mạng có thể tiến hành tổng khởi nghĩa cách mạng.

3. Trotsky cho rằng cách mạng không thể thành công và đứng vững trong một nước lạc hậu như nước Nga, càng không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trong một nước. Trước hết, ông ta cho rằng các nước tư bản sẽ xúm lại diệt nước Nga; sau đó, khi đi tới chủ nghĩa xã hội nông dân sẽ xung đột với công nhân, và vì rằng nông dân chiếm tuyệt đại đa số, nước Nga lại là nước lạc hậu, thiếu thốn cho nên không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính vì thế Trotsky mới trông chờ vào khẩu hiệu cách mạng thế giới, trông chờ vào cách mạng ở các nước tư bản tiên tiến mà tạo điều kiện cho nước Nga có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lê-nin đã phê phán cái suy nghĩ đó, Người cho rằng chủ nghĩa xã hội có thể xây dựng thành công trong một nước mà không cần nhất thiết phải trông chờ vào cách mạng thế giới, và ngược lại có thể trở thành căn cứ địa cho cách mạng thế giới. Chính vì thế những người trotskyist và bao gồm cả Trotsky không bao giờ dám tin vào việc Liên Xô xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội vào thập niên 1930s, khi ban hành Hiến pháp Xã hội chủ nghĩa 1936. Họ không ngừng ra rả cái gọi là Nhà nước công nhân bị tha hóa, chế độ tư bản đỏ Liên Xô, chủ nghĩa độc tài Stalin; cái quan trọng là nền sản xuất, cơ cấu tổ chức, chế độ kinh tế, mô thức quản lý kinh tế, chế độ tiền lương và chế độ kinh tế kế hoạch hóa mới là những cái phản ánh lên chế độ xã hội thì những người trotskyist không bao giờ đề cập đến, họ không tin rằng Liên Xô có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội được, họ coi chế độ kinh tế Liên Xô là một mô tuýp "tư bản trá hình" của Chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Do đó, không phải vì Stalin họ mới chống Liên Xô, mà thực tế bất kỳ ai theo chủ nghĩa Lê-nin tiếp tục công cuộc phát triển của Lê-nin đều là kẻ thù của họ, những người trotskyist không chỉ chống mỗi Stalin, mà họ còn chống nhiều người Bolshevik leninist khác như - Sverdlov, Kalinin, Dzerzhinsky, Kirov, Voroshilov, ... bất kỳ ai theo chủ nghĩa Lê-nin.

Trên đây là những tóm tắt sơ bộ về học thuyết của Trotsky, muốn tìm hiểu thêm, bạn đọc có thể tìm đọc chính tác phẩm của ông ta và đối chiếu nó với Lê-nin để tự mình kiểm chứng.

Từ năm 1929, Trotsky bị trục xuất khỏi Liên Xô. Giữa thập niên 1930s họ tập hợp lại và thành lập Đệ tứ quốc tế, tuy nhiên, cho đến nay các nhóm đệ tứ chưa thực hiện thành công bất kỳ cuộc cách mạng nào cả.


Sự hình thành, phát triển và diệt vong của 

các nhóm Trotskyist Việt Nam


1. Cuối những năm 1920s, ở Pháp có mấy nhóm trotskyist, nổi trội nhất là phát hành tuần báo "La vérilé" và tạp chí "La lutte des classes". Trotskyist Pháp có lúc hoạt động độc lập, có lúc hoạt động trong phái tả của đảng Xã hội Pháp. Một phần là tách rời từ Đảng cộng sản ra, họ tự gọi mình là "tả đối lập" (opposilion de gauche).

Cuối 1927, đầu 1928, một cuộc vận động thành lập "đảng Annam độc lập" (PAI, parti annamite de l'indépendance). Đảng PAI là một đảng quốc gia tư sản, số đảng viên ít ỏi, hầu hết chỉ là sinh viên. Một trong số lãnh tụ của PAI là Tạ Thu Thâu, sinh viên trường Đại học khoa chính trị và xã hội, nguyên là một giáo viên tư thục ở Sài Gòn hồi cao trào yêu nước 1925-1926. Số trotskyist Việt Nam đầu tiên có xuất thân từ PAI. Là một đảng tư sản, PAI thường xuyên chống lại Đảng cộng sản Pháp, cho nên chống lại những người Việt Nam là đảng viên Đảng cộng sản Pháp như Nguyễn Văn Tạo. Báo "La résurrectinon" của PAI không đi theo con đường của "Le Paria" của Nguyễn Ái Quốc. Sự ảnh hưởng của Đảng cộng sản Pháp trong những năm 1928-1929 đã có những tác dụng to lớn trong việc đẩy lùi tư tưởng quốc gia hẹp hòi và tạo thành một sự phân hóa chính trị trong số người Việt Nam tại Pháp, trong đó có cả PAI. Một số thành viên PAI chuyển sang Đảng cộng sản, như một nhóm ở Toulouse. Một nhóm do Tạ Thu Thâu đứng đầu sau đấy tách ra và theo trotskyist. PAI tan rã ngay sau đó.

2. Sau khởi nghĩa Yên Bái (2/1930), Tạ Thu Thâu viết trên báo La vérite một loạt bài nhận định về tình hình và nhiệm vụ, đặt ra cơ sở lý luận cho nhóm trotskyist về cách mạng Đông Dương, ngay từ sớm Tạ Thu Thâu đã rõ ràng là lãnh tụ hàng đầu của nhóm này. Lúc này tin tức ở Việt Nam dồn dập gửi sang Pháp: nào là các kỳ hội đồng xử tử hình những người khởi nghĩa, nào là các cuộc bãi công ở Hải Phòng, Bến Thủy, Sài Gòn, nào là biểu tình nông dân ở các tỉnh miền Bắc và miền Trung. Từ tháng 5/1930 cộng đồng người Việt ở Pháp bắt đầu sôi sục khí thế, nhiều cuộc biểu tình, mít-tinh đã nổ ra để ủng hộ nhân dân Việt Nam do Đảng cộng sản Pháp tổ chức và do một số nhóm hội đoàn thể Việt kiều tổ chức. Đáng kể nhất là hai cuộc: thứ nhất, cuộc biểu tình trước điện Élysées (dinh Tổng thống), thứ hai là cuộc biểu tình của nhân dânn Pari có nhiều người Việt Nam tham dự để kỷ niệm Công xã Pari tại Mur des Fé lérés. Trong hai cuộc biểu tình này có khá nhiều người Việt bị cảnh sát bắt. Có 19 người bị trục xuất về Đông Dương, trong đó có Tạ Thu Thâu và một số lãnh tụ trotskyist khác. Về đến Sài Gòn, họ tập hợp lại và tổ chức thành nhóm trotskyist đầu tiên ở Việt Nam. Về sau các trotskyist khác cũng từ Pari về như Hồ Hữu Tường, Phan Văn Hùm. Trotskyist ở Việt Nam bắt đầu phân nhóm: Hùm đi với Thâu, Tường thì lập nhóm riêng.

3. Từ 1931-1936, hễ số trotskyist tăng thì số nhóm trotskyist cũng tăng theo, thậm chí có nhóm chỉ có năm ba người, xuất nhiều lãnh tụ nhóm. Đặc điểm chung là cùng hô hào thuyết "cách mạng thường trực" của Trotsky và chống những người cộng sản. Còn lại khác nhau. Mỗi nhóm có tờ báo riêng, hội viên riêng, và tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau. Trong thời gian 1936-1939, các nhóm trotskyist còn có biểu hiện chống nhau, chế giễu lẫn nhau là "đệ tam rưỡi", "đệ tứ rưỡi", "đệ ngũ", ... Trong các nhóm thì nhóm của Tạ Thu Thâu là uy tín nhất, nhưng không phải do Thâu tự tạo nên, mà nhờ vào tờ La lutte, một tờ báo liên kết do những người cộng sản lập nên. Thâu tham gia cùng với Nguyễn Văn Tạo và Nguyễn An Ninh.

Các nhóm trotskyist Việt Nam hầu như không phải từ đảng cộng sản tách ra, mà chủ yếu từ PAI, một đảng quốc gia tư sản. Cho nên cái tên "tả đối lập" là họ dựa theo trotskyist Nga, trotskyist Pháp. Thực tế Đảng cộng sản Việt Nam từ khi thành lập không hề có phái tả nào trong hàng ngũ, không có ai bị khai trừ vì thuộc phái tả cả.

4. Cao trào của trotskyist Việt Nam có thể xem bắt đầu từ 1933, khi Thâu tham gia cùng với Tạo và Ninh ra báo "La lutte" vận động tranh cử hội đồng thành phố Sài Gòn. Ninh thì từng làm báo "La Cloche fêlée" và "I' Annam" tại Sài Gòn hồi giữa thập niên 1920s. Tạo thì học được kinh nghiệm tại Pháp trong các cuộc vận động tranh cử hội đồng thành phố ở vùng vành đai đỏ Pari. Cuộc vận động tranh cử hội đồng thành phố Sài Gòn năm 1933 có kết quả tốt: báo được hoan nghênh, mít-tinh đông đảo quần chúng tham dự. Từ năm 1936-1939 còn nhiều lần vận động khác, Tạo, Mai, Thâu còn được bầu vào hội đồng thành phố và dùng diễn đàn này để tuyên truyền cổ động.

Năm 1936, Chính phủ mặt trận Bình dân Pháp được thành lập tại Pháp, ở Đông Dương phong trào đòi dân sinh dân chủ cũng sôi nội. Những "ủy ban hành động" ra đời nhằm vận động Đông Dương Đại hội rầm rộ. Trotskyist nắm thường trực báo La lutte nên thường xuyên tiếp xúc với một số ủy ban hành động không do Đảng cộng sản nắm, từ đây họ bắt đầu có được lực lượng. Cũng từ đây, bắt đầu ra mặt công khai chống những người cộng sản. Đến năm 1937 thì La lutte tan rã, những người cộng sản ở tờ báo này đã bị Pháp bắt giam vào khám lớn, và trotskyist độc chiếm tờ báo này. Trong suốt thời gian từ 1936 - 1937, ở Sài Gòn các nhóm trotskyist đã gây những trở ngại đáng kể cho Đảng cộng sản. Khi Đệ tứ quốc tế được thành lập, Thâu được coi là lãnh tụ trotskyist ở Việt Nam. Tuy nhiên, trotskyist Việt Nam không chịu thống nhất, ảnh hưởng của Thâu cũng bị hạn chế nhất định. Cuộc bầu cử hội đồng quản hạt quận ở Nam kỳ năm 1939 có thể coi là đỉnh cao của trotskyist Việt Nam.

5. Trotskyist đã giành được mấy ghế ở hội đồng quản hạt; nhưng hội đồng này do địa chủ, tư sản và hương chức bầu nên, nông dân thì lại không có quyền bỏ phiếu. Năm 1939, trên thực tế những người cộng sản lãnh đạo quần chúng nông dân đấu tranh chống thực dân phong kiến, cho nên địa chủ, hương chức không thể nào bầu cho cộng sản được, họ bầu cho trotskyist vì những khẩu hiệu của họ thiếu tính cách mạng, không thể làm lung lay địa vị kinh tế, chính trị của các giai cấp ấy.

Nhược điểm cốt lõi của trotskyist đó chính là thiếu tính tổ chức, bởi vì thiếu tính tổ chức đó dẫn đến việc khi thực dân Pháp quay trở lại thực hiện chế độ khủng bố nhân dân, các nhóm trotskyist bị Pháp quét sạch khỏi chính trường Việt Nam chỉ trong một nốt nhạc. Cuối năm 1939, tất cả các nhóm trotskyist đều bị đánh tan, không còn tồn tại ngay cả các nhóm nhỏ dăm ba người. Tất cả đều bị tống vào tù, bị giết hại hoặc lao động khổ sai. Do đó trong suốt những năm thế chiến thứ 2, không có bất cứ một hoạt động cách mạng nào của các nhóm trotskyist. Do đó, sau năm 1945, căn bản họ không có bất kỳ lực lượng nào, không có sự ủng hộ nào của quần chúng nhân dân, và đứng ngoài hoàn toàn Cách mạng tháng Tám lịch sử. Chỉ duy nhất có Đảng cộng sản Đông Dương và những người cộng sản vượt qua cơn lốc lịch sử ấy mà thôi.


Trotskyist Việt Nam ứng dụng thuyết "cách mạng thường trực" 

vào cách mạng Đông Dương


Sự phân liệt trong nhóm La lutte hồi năm 1937 là do ảnh hưởng của cả vấn đề quốc tế và trong nước, nhất là vấn đề trong nước. Vấn đề đối lập giữa những người cộng sản và phái trotskyist nằm ở phạm vi chiến lược, chiến thuật, nhiệm vụ, động lực, phương hướng, tổ chức, đấu tranh cách mạng.

1. Về khẩu hiệu trotskyist "Liên bang các nước xã hội chủ nghĩa Á châu" (Les Etats Unis socialisted d' Asie).

Cũng tựa như khẩu hiệu Liên Âu hồi chiến tranh thế giới thứ nhất, trotskyist từ năm 1930s đã đề ra khẩu hiệu Liên Á.

Những khẩu hiệu ấy, từ hồi năm 1915, Lê-nin đã phê phán kịch liệt: nếu là nói trong khuôn khổ chế độ tư bản thì hoặc là nó không thể thực hiện được, hoặc là nó có tính chất phản động; còn nếu là nói trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì tại sao chỉ Liên Âu mà không phải toàn thế giới ? Mà cho dù có đưa ra khẩu hiệu Liên bang thế giới đi nữa thì cái khẩu hiệu đó sẽ không có ý nghĩa gì cả, vì một là nó trùng với chủ nghĩa xã hội, hai là nó có thể dẫn dắt đến những kết luận sai lầm như là cho rằng chủ nghĩa xã hội không thể thành công trong một nước, và dẫn dắt đến một sai lầm nữa là về thái độ của những nước đã thực hiện thành công cách mạng với những nước khác. Lê-nin viết: "Phát triển không đồng đều về kinh tế và chính trị là một quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản. Bởi vậy cho nên chủ nghĩa xã hội có thể thành công lúc đầu trong một nhóm nhỏ các nước tư bản hay chỉ trong một nước riêng lẻ. Giai cấp vô sản chiến thắng của nước ấy, sau khi đã tịch thu tài sản của bọn tư bản và tổ chức nền sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước mình rồi sẽ đứng dậy chống lại thế giới tư bản chủ nghĩa còn lại bằng cách thu hút về phía mình các giai cấp bị bóc lột ở các nước khác, bằng cách kích thích họ nổi lên chống lại bọn tư bản và bằng cách khi nào cần thiết, dùng cả lực lượng quân sự chống lại giai cấp bóc lột và nhà nước của chúng..." (Bài về Khẩu hiệu Liên Âu).

Trotskyist bám vào khẩu hiệu Liên Âu vì nó phù hợp với thuyết "cách mạng thường trực". Theo thuyết ấy, cách mạng hoặc phải thành công ở nhiều nước châu Âu hoặc là thất bại, chứ không thể thắng trong bất kỳ quốc gia nào. Điều này thật kỳ dị, khác nào bảo nhân dân các ở các nước này phải chờ đợi nhân dân nước kia để cùng làm cách mạng ? Hay mượn cớ "vì cách mạng" mà phát động những cuộc chiến tranh vô tiền khoáng hậu để thúc đẩy chiến tranh cách mạng bất chấp những nước khác chưa có điều kiện và thời cơ cách mạng ? Khẩu hiệu nghe có vẻ cách mạng, nhưng kỳ thực là thủ tiêu cách mạng.

Ngược lại Lê-nin nhấn mạnh đến những khả năng nội tại của mỗi dân tộc, mỗi dân tộc phải tự phát huy hết khả năng của mình mà không phải chờ các dân tộc khác, và sau khi giành thắng lợi thì có thể giúp đỡ các dân tộc khác; nhưng đồng thời nhân dân các nước chưa làm cách mạng thành công thì phải ủng hộ các nước đã giành chính quyền cách mạng. Những lời tiên đoán năm 1915 của Lê-nin vào năm 1917 đã trở thành một hiện thực lịch sử khi Liên Xô là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất từ năm 1917-1945, một mình đứng vững giữa vòng vay chủ nghĩa tư bản. Liên Xô là thành trì của cách mạng, ủng hộ nhân dân các nước thuộc địa làm cách mạng thành công, đồng thời các nước thuộc địa và trên thế giới cũng ủng hộ và bảo vệ Liên Xô.

Đầu thập niên 1930s những người trotskyist Việt Nam đã bắt chước khẩu hiệu Liên Âu mà đề ra khẩu hiệu Liên Á. Những người cộng sản và trotskyist đã liên tục tranh luận với nhau. Lập luận của những người cộng sản cho rằng nhân dân Đông Dương không thể ngồi chờ nhân dân một số nước hoặc toàn châu Á làm cách mạng; hoặc không phải nôn nóng "đốt cháy giai đoạn" mà làm cách mạng trong khi không có khả năng, không có điều kiện phù hợp. Mỗi dân tộc, hễ có điều kiện chín mùi thì cứ làm cách mạng giành chính quyền trước, những nước sau ủng hộ, rồi khi điều kiện chính mùi cũng làm cách mạng và gia nhập vào hệ thống xã hội chủ nghĩa. Chiến thắng chiến tranh Vệ quốc vĩ đại năm 1945 đã mở ra những điều kiện hết sức thuận lợi, một loạt các nước dân chủ nhân dân ra đời và đi theo chế độ xã hội chủ nghĩa.

2. Về tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Đông Dương, chủ trương của trotskyist về "cách mạng vô sản" và "chính phủ công nhân"

Ở Việt Nam những người trotskyist đã chủ trương rằng giai cấp vô sản Đông Dương "không phải làm nhiệm vụ lịch sử của các giai cấp xã hội khác" (báo La lutte số 137), nghĩa là không cần phải thực hiện nhiệm vụ dân chủ tư sản. Trotskyist Việt Nam đã không hề nói đến cách mạng ruộng đất, trong bài "Về bản tuyên bố của các đồng chí Đông Dương đối lập tả phái", chính Trotsky cũng chú ý đến điều đó. Trong lúc những người cộng sản chủ trương làm cách mạng dân chủ tư sản nhằm đánh đổ đế quốc và phong kiến, xem đó là giai đoạn thứ nhất của cách mạng để tạo điều kiện tiến lên giai đoạn thứ hai là cách mạng xã hội chủ nghĩa; còn những người trotskyist chủ trương rằng xã hội Đông Dương sau cuộc xâm lược của đế quốc Pháp nghĩa là "đã hoàn thành cách mạng tư sản" rồi đã làm sụp đổ chế độ phong kiến rồi, đã có sự phát triển của chủ nghĩa tư bản rồi, cho nên cách mạng Đông Dương ngay từ đầu chỉ có thể là cách mạng vô sản để thành lập chính phủ công nhân. Báo "Đuốc vô sản" ngày 28/5/1932, trong bài viết "Cách mạng Đông Dương" những người trotskyist cho rằng: "Chúng ta phải bỏ khẩu hiệu chính phủ công nông, phải chỉ cho các đảng viên thấy rằng sức mạnh công nhân là to lớn hơn sức mạnh nông dân, cứ xem sức mạnh chiến đấu của công xã Quảng Châu thì rõ. Chỉ có công nhân mới nhận thức được học thuyết Mác".

Để dễ dàng hình dung, tôi sẽ khái quát về chiến lược và sách lược của những người cộng sản và trotskyist trong thời điểm này để chúng ta có thể nhận thức đúng vấn đề. Chúng ta đều biết rằng, nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Đông Dương phải là một cuộc dân tộc giải phóng, và đó là đường lối duy nhất đúng cho tiến trình cách mạng Việt Nam. 

Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt đã chủ trương rằng cách mạng Đông Dương sẽ là một cuộc cách mạng dân chủ tư sản, tuy nhiên điểm đặc biệt là cuộc cách mạng dân chủ tư sản đó là chỉ thực hiện một nội dung duy nhất là chống đế quốc. Hay nói cách khác, đó là cách mạng dân tộc giải phóng, do đó nội dung của chiến lược và sách lược của Nguyễn Ái Quốc đó là chuyên chính dân chủ nhân dân, tức là giải quyết vấn đề mâu thuẫn nhất ở Đông Dương - mâu thuẫn giữa nhân dân Đông Dương và đế quốc Pháp xâm lược, cho nên nội dung tập hợp lực lượng bao gồm liên minh công - nông, tư sản, địa chủ và mọi tầng lớp nhân dân có tinh thần yêu nước chống quân xâm lược.

 Còn Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu là Trần Phú quán triệt tinh thần của Đại hội VI (1928) của Quốc tế Cộng sản, đã chủ trương cách mạng Đông Dương là cách mạng dân chủ tư sản, nhưng làm đủ hai nội dung của nó đó là chống đế quốc và chống phong kiến, cho nên khi đề ra chủ trương Trần Phú nhấn mạnh vừa đánh đổ đế quốc Pháp giành độc lập dân tộc, đồng thời cũng đánh đổ chế độ phong kiến, làm cách mạng ruộng đất để xóa bỏ hoàn toàn chế độ địa chủ, do đó nội dung tập hợp lực lượng hạn hẹp hơn so với quan điểm của Nguyễn Ái Quốc khi chủ trương chỉ tập hợp: liên minh công - nông, tư sản và một số tầng lớp trung gian có tinh thần cách mạng (song cũng có thái độ không tốt với giai cấp tư sản vì cho rằng đó là giai cấp dao động, có thể phản bội cách mạng), nhất quán chủ trương làm cách mạng ruộng đất để thủ tiêu về mặt giai cấp của địa chủ phong kiến. Như vậy, chủ trương của Trần Phú và Ban chấp hành Trung ương Đảng có phần đặt nặng vấn đề giai cấp (nhưng không phải là tuyệt đối hóa), cho nên làm hạn hẹp lại mặt trận đoàn kết để đấu tranh giành độc lập dân tộc. Tuy nhiên, sau Đại hội VII (1935) của Quốc tế Cộng sản, chủ trương này dần được tháo gỡ, qua các Hội nghị TW 6,7,8 Đảng ta từng bước quay lại quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về chiến lược và sách lược của cách mạng Đông Dương.

 Còn quan điểm của trotskyist Việt Nam thì họ không đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu, họ đặt hẳn vấn đề đấu tranh giai cấp lên một mức tuyệt đối, không làm cách mạng dân chủ tư sản mà làm cách mạng vô sản, thực hiện chuyên chính vô sản (nội dung là công nhân), cho nên giai cấp tư sản ngay từ đầu là đối tượng mà họ nhắm tới để đánh đổ và nội dung tập hợp giai cấp của họ là vô cùng hạn hẹp khi chỉ nhắm đến giai cấp công nhân, họ lại còn cho rằng giai cấp nông dân sẽ là kẻ thù tiếp theo của chính phủ cách mạng, không là bạn đường của cách mạng mặc dù giai cấp nông dân chiếm hơn 90% dân số Dông Dương. Có thể nói, việc chỉ dựa vào giai cấp công nhân, đối tượng chiếm rất ít trong xã hội để làm cách mạng vô sản là một quan điểm hết sức ngớ ngẫn.

Tác giả Thanh Hương đã viết trong cuốn "Trotskyist và phản cách mạng" xuất bản ở Sài Gòn năm 1938 đã viết: "Đông Dương là một xứ thuộc địa: kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương không phải là tư bản bản xứ mà là đế quốc chủ nghĩa và bọn đồng minh của chúng là bọn phong kiến bản xứ. Đối với vô sản thì tư bản bản xứ là giai cấp bóc lột; nhưng về phương diện dân tộc thì tư bản bản xứ cũng mất một bộ phận quyền lợi, bị đế quốc ngăn trở con đường phát triển của họ".

Chính khẩu hiệu "chính phủ công nhân" nghĩa là tự cô lập giai cấp công nhân đối với đại đa số quần chúng nhân dân, đối lập công nhân với nông dân, thì sách lược đó quả thực sự là có tính chất thủ tiêu cách mạng, làm cách mạng không những không thể thắng lợi mà còn khiến người ta kinh sợ cách mạng và xa rời cách mạng. Chính vì công xã Quảng Châu không có mối liên kết đông đảo với quần chúng nông dân Quảng Đông cho nên mới thất bại. Ai đời lại xem thất bại là cái gương để hướng tới cơ chứ ? Kỳ lạ.

3. Trotskyist chủ trương mặt trận phải là "mặt trận vô sản"

Báo La lutte ngày 23/3/1937 Tạ Thu Thâu đã trả lời Nguyễn An Ninh như sau: "Vậy tôi kết luận rằng mặt trận nhân dân Đông Dương chỉ có thể là mặt trận vô sản".

Như chúng ta đã biết, Đông Dương là một khu vực nghèo nàn, lạc hậu chủ yếu là nông nghiệp với nông dân chiếm hơn 90% dân số. Vô sản rất ít ỏi, vậy thì lập mặt trận vô sản thì được bao nhiêu người theo cơ chứ, mà lại không được quần chúng ủng hộ thì có thể làm cách mạng kiểu gì ?

Năm 1937, trong các cuộc tranh luận giữa Nguyễn An Ninh và Tạ Thu Thâu, còn có cả Hà Huy Tập, đã vạch trần rõ ràng bộ mặt của các nhà trotskyist Việt Nam. Ninh là một nhà yêu nước có khuynh hướng tả, có cảm tình với cộng sản. Còn Hà Huy tập là một trong những lãnh tụ của Đảng cộng sản. Cuộc tranh luận của họ xoay quanh vấn đề mặt trận nhân dân Đông Dương và cuộc đấu tranh chống bọn phản động thuộc địa trong điều kiện mặt trận nhân dân đang nắm quyền ở Pháp.

Ngày 15/3/1937, Nguyễn An Ninh cho đăng trên báo La lutte bài "Tôi sẽ bằng lòng im lặng đi". Trong bài đó Ninh đưa ra một quan điểm lý luận và thực tiễn trái hẳn với trotskyist, mà gần với của cộng sản về vấn đề mặt trận. Nhắc lại sự khủng bố và những đảng phản động trong bản tuyên bố của quan Toàn quyền Brévié khi ông ta mới tới Sài Gòn. Ninh nhận định rằng chính phủ Đông Dương không phải là chính phủ mặt trận nhân dân, nó vẫn là phản động như trước. Chính vì vậy mà cần phải thành lập mặt trận nhân dân Đông Dương và đấu tranh chống sự phản động đó. Nên tách biệt chính phủ thuộc địa và chính phủ mặt trận nhân dân Pháp, tách biệt giữa chính phủ mặt trận nhân dân Pháp và mặt trận nhân dân.

Ý kiến của Ninh về sự cần thiết phải lập mặt trận nhân dân ở Đông Dương rất đúng. Thâu hỏi: "Ninh muốn lập mặt trận nhân dân với ai?". Thì ngày 23/3/1937, trong bài "Trả lời cho ông bạn Tạ Thu Thâu", Ninh đã khẳng định một lần nữa sự cần thiết phải đoàn kết rộng rãi nhằm cô lập các lực lượng phản động. Ninh viết: "Chắc Thâu đã đoán được trước câu trả lời của tôi. Hẳn là làm mặt trận với đại biểu của các đảng vô sản, với đại biểu của các giai cấp trung gian, với những người trí thức tự do, với tất cả những ai có tham gia hay tỏ ý có cảm tình với cuộc vận động Đông Dương đại hội, với các nhóm người Pháp phái tả nào đã tỏ ra đồng tình với sự thành lập mặt trận nhân dân Đông Dương... Tôi biết rằng nhiều phần tử xã hội kể trên không có tinh thần chiến đấu cần thiết để chống phản động. Tuy vậy họ vẫn tiêu biểu cho một ý thức phản kháng mà bọn phản động không thể không đếm xỉa đến. Một mặt trận nhân dân Đông Dương có thể sẽ khác với mặt trận nhân dân Pháp về thành phần tập hợp".

Nguyễn An Ninh đã đi đến kết luận: "Tôi không phủ nhận công lao của La lutte đối với xứ sở, nhất là đối với quần chúng lao khổ. Nhưng, để có sự tiến bộ nhanh hơn thì, ở Đông Dương, không phải chỉ nên lo tổ chức những lực lượng vô sản không là đủ, mà còn phải lo tổ chức và khuyến khích tổ chức những lực lượng khác nữa. Chỉ biết có phong trào công nhân, đó chưa phải là cách hay nhất để phục vụ phong trào công nhân. Cũng như thế, nếu những sự lo lắng về mặt quốc tế mà quá mức cho đến đỗi làm cho người ta xem nhẹ những lo lắng về mặt dân tộc, thì điều ấy sẽ không phục vụ được chủ nghĩa quốc tế đâu". Tư tưởng của Ninh là như thế.

Thâu đã phản biện Ninh một cách yếu ớt khi vẫn quả quyết trên tờ báo La lutte 23/3/1937 rằng: "Vậy tôi kết luận rằng mặt trận nhân dân Đông Dương chỉ có thể là mặt trận vô sản". Thâu khẳng định: "Giai cấp vô sản không cần làm nhiệm vụ lịch sử của giai cấp khác". Ninh đã phản biện rằng: "Lê-nin khuyên các người cộng sản phương đông phải tập hợp các lực lượng phản đế thành một liên minh. Còn Mác thì khuyến khích, ủng hộ các phong trào giải phóng ở các thuộc địa dẫu rằng các phong trào ấy là phong trào quốc gia, làm như thế, có phải rằng Mác và Lê-nin làm nhiệm vụ lịch sử của các giai cấp khác chăng ?" (La lutte số 138).

Thâu bảo rằng chủ trương của Ninh lập mặt trận nhân dân Đông Dương là một chủ trương "lù mù" hướng về chủ nghĩa dân tộc, thì Ninh đập lại: "Không phải chỉ có chủ nghĩa dân tộc mới sinh ra lù mù. Còn một thứ lù mù khác sinh ra bởi sự hiểu học thuyết giai cấp tranh đấu một cách hẹp hòi". Ninh tiếp tục trả lời: "Bởi vậy cho nên tôi nghĩ rằng, ở Đông Dương, ta có thể và cần phải thực hiện một mặt trận rộng hơn là mặt trận vô sản. Mặt trận nhân dân Đông Dương phải tùy theo điều kiện cụ thể của địa phương mà thành lập. Mặt trận ấy mạnh hay yếu là tùy theo cái lõi vô sản của nó mạnh hay yếu. Nhưng tôi chỉ chịu để cho mặt trận nhân dân thu hẹp lại thành mặt trận vô sản khi nào ta đã làm hết sức rồi, đầy đủ rồi, mà cứ thất bại mãi. Và ngay trong trường hợp đó đi nữa, tôi cứ tin rằng khi có những điều kiện chính trị thuận lợi hơn thì vấn đề liên minh sẽ được đặt ra nữa".

Rõ ràng Ninh còn marxist - leninist còn hơn Thâu, Ninh hiểu thuyết giai cấp tranh đấu của Mác - Lê-nin còn hơn Thâu. Và rõ ràng nhất Thâu cũng như những trotskyist khác càng tranh luận càng tỏ ra biệt phái và cực đoan.

Đại diện những người cộng sản tham gia tranh luận với Thâu chính là Hà Huy Tập, Tập đứng cùng phe với Ninh trong các cuộc tranh luận phản bác Thâu. Các cuộc tranh luận của Tập với Thâu xoay quanh vấn đề chiến lược và sách lược của cách mạng Đông Dương. Thâu và trotskyist không ngừng phê phán đảng cộng sản đã từ bỏ học thuyết giai cấp đấu tranh, từ bỏ đường lối cách mạng, cải lương chủ nghĩa, "chủ nghĩa tân lập hiến", ... Hà Huy Tập phản bác rằng vấn đề chủ yếu không phải là nói cách mạng cho sướng mồm, sướng miệng, mà phải làm cho cách mạng đi đến chỗ thành công. Dù tỏ vẻ cho cách mạng, phê phán cho lắm nhưng không thể làm cách mạng thành công thì hoàn toàn là vô nghĩa. Tập cho rằng giai cấp vô sản đơn độc làm cách mạng thôi thì cách mạng nhất định không thể thành công, vô sản cần phải có nhiều đồng minh thì mới mong có khả năng làm cách mạng. Tập viết: "Dĩ nhiên rằng các tầng lớp xã hội khác cũng có sáng kiến tự tổ chức hay là họ cũng có thể được các đảng tư sản tổ chức họ lại. Nhưng với giai cấp vô sản. Thâu không thấy rằng sở dĩ những người Bolshevik Nga chiếm được chính quyền là vì họ biết tổ chức nông dân và các giai cấp trung gian khác. Còn như, nếu Mussolini và Hitler đã tạo ra được những phong trào quần chúng theo chủ nghĩa phát xít, nhờ đó chúng cướp được chính quyền, nếu giai cấp vô sản Ý và Đức lâm thời bị đánh bại, ấy là một phần cũng là vì giai cấp vô sản ở những nước ấy không kịp thời lôi kéo về mình và tổ chức lại những tầng lớp không phải vô sản ...".

Ninh và Tập đều nhắm trúng vào những điểm yếu cốt tử của những người trotskyist.

Lý luận "mặt trận nhân dân Đông Dương chỉ có thể là mặt trận vô sản" của Thâu là một loại chủ nghĩa biệt phái, cực đoan, vừa không tin vào khả năng cách mạng của các giai tầng khác trong xã hội, vừa không tin vào khả năng cải tạo vĩ đại của chính giai cấp vô sản: sự cảm hóa, sự đoàn kết của giai cấp vô sản đối với quảng đại quần chúng. Xét cho đến cùng, những lập luận đó là sự thủ tiêu lý luận cách mạng do kém hiểu biết về chủ nghĩa Mác - Lê-nin.

4. "Chủ nghĩa hư vô về dân tộc" của trotskyist Việt Nam

Trong báo La lutte ngày 13/5/1937, Hà Huy Tập với bút danh Hồng Qui Vi nhận xét: "Chính vì thái độ biệt phái đó của Thâu hoàn toàn không nói gì đến những nhiệm vụ giải phóng dân tộc của các dân tộc Đông Dương. Xóa bỏ các quyền lợi dân tộc, là làm cho giai cấp vô sản bị cô lập, mà cũng là phản bội chủ nghĩa quốc tế". Ninh cũng phản ứng như thế trên báo La lutte trước đó vào ngày 15/3/1937: "Nếu những sự lo lắng về quốc tế quá mức cho đến đỗi làm cho người ta xem nhẹ những lo lắng về dân tộc, thì điều đó sẽ không phục vụ được cho chủ nghĩa quốc tế đâu".

Như vậy chủ nghĩa quốc tế của phái trotskyist tách bạch hoàn toàn với chủ nghĩa yêu nước.

Trên báo La lutte ngày 13/4/1935, chính những người trotskyist đã công khai thế này: "Đã lâu rồi, sợi dây yêu nước trong tâm hồn của chúng tôi không còn rung động nữa".

Nhà sử học Pháp D. Hémery từng viết: "Trong các văn kiện của La lutte, người ta lấy làm lạ mà thấy rằng họ giành một chỗ rất nhỏ cho thực tế dân tộc. Dưới ngòi bút của một Trần Văn Thạch hay một Tạ Thu Thâu, không còn thấy nhắc nhở đến lịch sử dân tộc mà người ta thường được đọc trên báo chí hồi 1925-1927 nữa. Những từ ngữ chủ yếu của một bài văn yêu nước như "tổ quốc", "độc lập" hầu như không còn được dùng đến nữa. La lutte được biên tập bằng ngôn ngữ giai cấp đấu tranh . Về chủ nghĩa yêu nước thì văn chương Pháp rất nhiều từ ngữ, nhưng không thấy La lutte sử dụng đến. Chỉ có một lần thôi, ấy là vào ngày 8/5/1935, La lutte dùng chữ "Vietnam" và ngày 13/4/1935, La lutte đi tới mức viết rằng: "Đã lâu rồi, sợi dây yêu nước trong tâm hồn của chúng tôi không còn rung động nữa".

Những người trotskyist còn đi tới chỗ khẳng định chủ nghĩa yêu nước mang tính chất phản động. Bản "Tuyên ngôn" của họ còn viết: "Chủ nghĩa dân tộc lúc nào cũng là một ý thức hệ phản động, nó chỉ có thể rèn đúc ra sợi dây xiềng mới tròng vào cổ giai cấp vô sản".

Ngược lại, những người cộng sản thì lại hô hào về đoàn kết tất cả lực lượng trong nhân dân để đánh thực dân Pháp giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do. Không có độc lập tự do thì không thể có chủ nghĩa xã hội hội, không thể có chính phủ cách mạng. Thật là hồ đồ khi đánh đồng tất cả chủ nghĩa dân tộc đều là phản động, mà quên đi rằng chủ nghĩa dân tộc cũng có những mặt tiêu cực lẫn mặt tích cực, và những người cộng sản phải nắm lấy mặt tích cực đó để phát huy, nhìn thấy mặt tiêu cực để hạn chế, cốt là làm lợi cho cách mạng.

Trotskyist Việt Nam thời điểm đấy là những người theo chủ nghĩa hư vô về dân tộc.


Trotskyist xuyên tạc về Đảng Cộng sản và những người cộng sản


 Dưới đây là một số lời lẽ xuyên tạc của trotskyist về những người cộng sản

- Trotskyist cho rằng bản chất của Đảng cộng sản Đông Dương chỉ là một đảng nông dân như đảng S.R (socialiste révolutionnaire) ở Nga, rồi cho rằng S.R ở Nga rồi cũng trở thành bọn phản cách mạng và bị tiêu diệt, thì Đảng cộng sản Đông Dương cũng thế, cũng sẽ "giống như ông tổ S.R của nó" thôi (tờ La lutte ngày 5/9/1937).

Người ta biết rằng đảng S.R tức đảng xã hội cách mạng là một đảng của giai cấp phú nông (tức kulag), và trung nông lớp trên ở Nga, cánh tả của đảng này ít nhiều cũng tham gia Cách mạng tháng Mười, tham gia vào chính quyền Xô viết lúc đầu; chẳng bao lâu sau đảng này trở mặt phản cách mạng, chống những biện pháp thu mua thóc để kháng chiến chống quân xâm lược của các nước đế quốc và bọn bạch vệ, thậm chí đảng S.R còn mưu sát cả Lê-nin năm 1918. Thế mà những người trotskyist Việt Nam ở Sài Gòn lại ví Đảng cộng sản Đông Dương, một đảng trung thành với học thuyết Lê-nin lại giống như đảng S.R, lại còn cho rằng Đảng cộng sản Đông Dương không phải là đảng của giai cấp công nhân, rằng chỉ có những người trotskyist mới là tổ chức công nhân, mới thực sự cách mạng.

Thậm chí năm 1945, trotskyist lại còn ví Chính quyền cách mạng lâm thời của Hồ chủ tịch là một thứ "chính quyền kiểu Kerensky" (nghĩa là chín quyền tư sản cần phải đánh đổ).

- Hồi năm 1937-1938, những người trotskyist còn cho rằng Đảng cộng sản Đông Dương còn là phản cách mạng, họ viết: "Bọn đệ tam là bọn cải lương. Họ là tôi tớ của Pháp. Họ cản trở phong trào cách mạng Đông Dương. Họ phá hoại phong trào công nông và họ tán thành chiến tranh đế quốc" (Báo Cách mạng vô sản số 1, ngày 13/4/1938).

Thực tiễn thế nào ? Chỉ có Đảng cộng sản Đông Dương tiến hành Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám thành công, giành được còn chính quyền. Còn những người trotskyist thì còn đang bận ngồi .... tù.

- Những người trotskyist còn phao rằng Đảng cộng sản Đông Dương phải chịu mệnh lệnh từ Đảng cộng sản Pháp. Thậm chí họ còn phịa ra rằng tòa soạn l' Avant Garde phải đổi tên thành Le Peuple là vì một phái viên của đảng cộng sản Pháp không thích cái tên đó; nào là J. Duclos và M. Gitton gửi cho Tạo, Mai bảo cắt đứt với trotskyist thì nhóm La lutte tan rã, ...

Họ quên rằng mặc dù Đông Dương là thuộc địa của Pháp, nhưng Đảng cộng sản Đông Dương không phải là phân bộ thuộc Đảng cộng sản Pháp, mà Đảng cộng sản Đông Dương là một phân bộ thuộc Quốc tế Cộng sản, nghĩa là Đảng cộng sản Pháp và Đảng cộng sản Đông Dương ngang hàng nhau về địa vị. Không có đảng nào chỉ huy đảng nào cả.

Những người trotskyist không từ bỏ bất cứ sự xuyên tạc, bịa đặt nào để làm giảm uy tín của Đảng cộng sản.


Đánh giá thực lực và ảnh hưởng của trotskyist ở Việt Nam


Những ai chú ý đến báo chí công khai, đến những cuộc vận động bầu cử hội đồng thành phố Sài Gòn, hội đồng quản hạt Nam kỳ, và các cuộc tranh luận thì có thể nhận thấy ngay ảnh hưởng của trotskyist.

Ỏ Bắc kỳ và Trung kỳ, ảnh hưởng của trotskyist là không đáng kể, chủ yếu là ở Nam kỳ, cụ thể là vùng Sài Gòn - Chợ lớn. Tuy nhiên, tại Sài Gòn - Chợ lớn, trotskyist phải tranh giành ảnh hưởng với những người cộng sản, thậm chí Hồ Hữu Tường còn từng tuyên bố "Ở Nam kỳ không có một đảng cách mạng nào có thể làm gì được nếu không cùng đi với trotskyist, hoặc chống lại trotskyist" trên báo La lutte hồi đấy.

Tuy nhiên, sau đó báo Le Peuple và báo Bạn dân số 21 đầu năm 1937 đã vạch ra một sự thật khắc nghiệt rằng: "Từ một năm nay, ở Đông Dương đã xảy ra 400 cuộc đình công của thợ và 350 cuộc biểu tình của nông dân. Trong số các cuộc đấu tranh này trotskyist chỉ tham gia 10 cuộc đình công và không lãnh đạo bất kỳ cuộc biểu tình nào".

Thậm chí trên báo La lutte ngày 19/8/1937 chính những người trotskyist than thở rằng Thâu và Số bị tòa án kết án oan vì những người trotskyist không hề đứng ra tổ chức quần chúng đấu tranh. Họ tự thừa nhận bản thân họ không tổ chức và lãnh đạo.

Ngày 9/7/1937, những người trotskyist ra lời kêu gọi những người lao động Sài Gòn hãy tiến hành cuộc tổng đình công, nhưng đã không có một cuộc nào cả. Thiếu sự ủng hộ của quần chúng cách mạng, đồng thời chính tổ chức trotskyist cũng rất hạn hẹp về mặt số lượng để có thể tổ chức và lãnh đạo phong trào.

Và các cuộc đàn áp năm 1939-1940 của thực dân Pháp đã nhanh chóng xóa đi toàn bộ tổ chức trotskyist, làm cho phái trotskyist hoàn toàn biến mất trên chính trường, cũng là một trong những dấu hiệu cho thấy sự hạn hẹp về số lượng đảng viên, cũng như là kết cấu tổ chức lỏng lẻo của họ. Dường như họ không có bất kỳ bộ phận hoạt động cách mạng bí mật nào, cho nên thực dân Pháp dễ dàng quét sạch họ khi họ đang trong cơn say chiến thắng của các cuộc bầu cử ở Sài Gòn năm 1939.

Nhưng không phải vì họ có ít đảng viên, vì họ không nắm quyền lãnh đạo phong trào, vì họ thiếu tính tổ chức mà đánh giá thấp các tổ chức trotskyist. Những người cộng sản còn cảnh cáo rằng không nên coi thường những người trotskyist, trong các hoạt động tuyên truyền ít nhiều gì họ cũng ảnh hưởng đến trí thức tiểu tư sản, tư sản và trong cả giai cấp công nhân. Đặc biệt cái danh chiến thắng trong cuộc bầu cử hội đồng quản hạt khi họ được các cử tri - vốn là địa chủ, phú nông, tư sản hương chức - bầu lên cũng tác động trên mặt trận tuyên truyền không nhỏ. 

Cho nên trong một số thời điểm nhất định, sự ảnh hưởng của trotskyist cũng phần nào gây nên những tác động với những người cộng sản, và những người cộng sản coi trotskyist chứ không phải đảng tư sản - là đối tượng hàng đầu trong cuộc đấu tranh của mình. Cuộc cách mạng ở Đông Dương chắc chắn là đi theo lối vô sản, song theo kiểu cách vô sản nào mới là vấn đề phải giải quyết ? Của những người cộng sản hay những người trotskyist ? Lịch sử đã minh chứng cho chúng ta thấy được rằng, quần chúng đông đảo cách mạng ủng hộ lập trường của những người cộng sản, những người chủ trương trước mắt phải giải quyết vấn đề quyền lợi của dân tộc.


Về thực chất cuộc đấu tranh tư tưởng và chính trị giữa những người cộng sản 

và trotskyist trong thập niên 1930s


Cuối thập niên 1960s, đầu 1970s một bản luận án tiến sĩ được viết và lưu hành tại Canada có nhan đề "Chủ nghĩa cộng sản Việt Nam" của tác giả Huỳnh Kim Khánh, sau đó được in sách năm 1983. Ông ta đã đưa ra những luận điểm rất "mới mẻ" về cuộc xung đột giữa những người cộng sản và trotskyist trong những năm 1930s là "cuộc xung đột giữa nước Việt Nam cũ và nước Việt Nam mới". Ông ta cho rằng nước Việt Nam mới được đại diện bởi những nhà hoạt động mới thấm nhuần văn hóa giáo dục Pháp, tức là các trotskyist; còn nước Việt Nam cũ là những nhà hoạt động cũ là những người cộng sản thuộc Đảng cộng sản Đông Dương. Nếu như trong những năm 1910s và 1920s, thì những người yêu nước Việt Nam phải lựa chọn giữa việc đi sang Đông hoặc đi sang Tây, thì đến giai đoạn 1930s thì phải "lựa chọn giữa Stalin hay Trotsky, cải lương hay cách mạng, giai cấp thỏa hiệp hoặc giai cấp đấu tranh", ông Huỳnh Kim Khánh cho là như thế.

1. Về "nước Việt Nam cũ" và "nước Việt Nam mới".

Trong chương III của cuốn sách "Chủ nghĩa cộng sản Việt Nam", tác giả đã đưa ra một nhận định Đảng cộng sản Đông Dương như thế này: " Đảng cộng sản Đông Dương, năm 1930, có phải là "đảng kiểu mới", leninist không ? Thực ra Đảng cộng sản Đông Dương chỉ là một đảng kiểu mới trong khuôn khổ của hoạt động chống thực dân ở Việt Nam; về khái niệm, nó có một sự lãnh đạo vững chắc, một bộ máy tổ chức rành rọt và một đường hướng tư tưởng rõ ràng, hơn tất cả các nhóm chống thực dân khác lúc bấy giờ. Tuy nhiên, những điều ấy không làm cho nó thành một đảng kiểu mới theo quan điểm của chủ nghĩa Lê-nin. Thật vậy, ở giai đoạn này của lịch sử Đảng cộng sản Đông Dương, nhiều sự việc chỉ làm cho Đảng cộng sản Đông Dương chỉ phân biệt với các đảng chống chủ nghĩa thực dân khác chủ yếu là trên giấy tờ danh nghĩa mà thôi". Tác giả còn đi kết luận trong cao trào 1930-1931, Đảng cộng sản chỉ có tên tuổi mới, tổ chức mới, còn hành động thì "thường không có gì là cộng sản". Tác giả đã cho rằng những người cộng sản chỉ "mới" vẻ bề ngoài, còn thực chất vẫn là cũ - vẫn làm nhiệm vụ giải phóng dân tộc.

Trong chương IV với nhan đề "Các lực lượng mới", tác giả đã cho rằng chính lực lượng từ Pháp trở về đầu thập niên 1930s đã trở thành lực lượng cứu cánh của phong trào cách mạng vô sản ở Đông Dương. Cái mới thì "tây" hơn, cái cũ thì "tàu, nga", cái mới chọi cái cũ, cái mới cứu cái cũ. Cái mới thì chủ trương làm báo công khai, ra tranh cử hội đội đồng thành phố, lợi dụng khả năng hợp pháp ... Còn cái cũ thì làm bí mật, tổ chức ngầm, sử dụng đấu tranh bạo lực, ... Thực ra những cái "mới" mà tác giả đề cập thì trước đó 10 năm, trong thập niên 1920s người ta đã làm rầm rộ rồi, mới ở đây chỉ có là người mới mà thôi. Báo La lutte xuất hiện năm 1933, nhưng La cloche felée, l'Annam đã xuất hiện gần 10 năm trước đó, công khai viết báo chống thực dân, tuyên truyền Tuyên ngôn của Đảng cộng sản,...; còn cụ Huỳnh Thúc Kháng sau khi từ Côn lôn trở về đã ra tranh cử và đắc cử nghị sĩ Trung kỳ, làm nghị trường; giữa 1920s người Sài Gòn nào mà không biết đến các cuộc mít-tinh rầm rộ của Nguyễn An Ninh, của các chí sĩ yêu nước khác cơ chứ ? điển hình là năm 1926 với hơn 30.000 người ở nhà Rồng. Những cái mà tác giả gọi là "mới" thực chất người ta đã xài nát rồi. Ông ta cổ súy cho việc nhóm 19 người trong đó có Thâu và các trotskyist khác bị trục xuất từ Pháp về như một cứu cánh cho phong trào cách mạng Đông Dương nhưng kỳ thực lại không hiểu rõ gì về nó.

Tác giả lập luận những sinh viên bị trục xuất từ Pari về mang theo "giai cấp đấu tranh", còn các nhà cách mạng chuyên nghiệp từ Moskva thì nang theo "chủ nghĩa quốc tế". Kể từ năm 1932, phong trào đã đổi dần sang "tính chất mới", mang tính chất giai cấp tranh đấu và quốc tế. Tách biệt hoàn toàn với những người cũ, tức dân tộc đấu tranh. Điều đó hoàn toàn không đúng, giai cấp đấu tranh không nhất thiết phải là lập chính phủ công nhân, giai cấp đấu tranh có rất nhiều mức độ, và tùy theo điều kiện lịch sử cụ thể mà phát huy nhiệm vụ nào cho thích hợp: đòi giảm tô, giảm thuế, bỏ nợ, chia ruộng đất nếu không gọi là giai cấp đấu tranh thì gọi là gì ?  bãi công, tuyên truyền, mít-tinh chống chiến tranh đế quốc, kỷ niệm Quốc tế lao động, Công xã Pari, Cách mạng tháng Mười, đoàn kết với vô sản Pháp thì không gọi chủ nghĩa quốc tế thì là gì ? Và đâu phải mãi đến đầu năm 1930s mới có các nhà cách mạng chuyên nghiệp từ Pháp và Moskva trở về ? họ đã có mặt từ trước đó và không ngừng tổ chức, làm cách mạng đấy thôi. Lại thêm một sự sai lệch.

Cũng trong chương IV này, tác giả viết khá nhiều về trotskyist Việt Nam. Tác giả đã đi đến một kết luận hết sức kỳ cục, khi cho rằng cuộc tranh chấp của trotskyist và "stalinist" là cuộc xung đột giữa "nước Việt Nam mới" và "nước Việt Nam cũ" mà đại diện là những nhà cách mạng trotskyist bị trục xuất từ Pháp về đầu 1930s và những người cộng sản xuất thân từ Đảng thanh niên và phong trào vô sản trước năm 1930. Thật khó mà hiểu nỗi, những người mà tác giả cho rằng họ là "lực lượng mới" thì mới hơn lực lượng cũ chỗ nào ? Họ cũng tranh đấu giai cấp, chủ nghĩa quốc tế, văn hóa Pháp và Tây phương, ... có khác gì "lực lượng cũ" đâu ? Chỉ khác là họ mặc bộ đồ Tây xịn hơn các nhà cách mạng trong nước mà thôi.

2. Cải lương và cách mạng. Giai cấp thỏa hiệp và giai cấp đấu tranh.

Tác giả Huỳnh Kim Khánh đã đi đến nhận định rằng, những người cộng sản là cải lương, còn trotskyist mới thực sự là cách mạng. Những lời ấy là sự "kế tục" những giọng điệu của trotskyist được viết nhan nhản trên báo chí hồi 1936-1939. Đáng ngạc nhiên là luận án tiến sĩ của ông Khánh không phải viết hồi thập niên 1930s, mà hồi cuối 1960s, đầu 1970s, nghĩa là cách mạng tháng Tám đã thành công, kháng chiến chống Pháp đã thành công, cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra. Tất cả đều là do Đảng cộng sản lãnh đạo, vậy mà khi viết luận án tiến sĩ ông ta vẫn cho rằng những người cộng sản là cải lương ? 

Lập luận của tác giả có rất nhiều sai sót. Trước hết như đã nói đấu tranh giai cấp có rất nhiều mức độ khác nhau và đấu tranh giai cấp tồn tại trước cả khi "lực lượng mới" từ Pháp trở về nước, và những người cộng sản Đông Dương từ hồi còn Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã không ngừng tranh đấu giai cấp, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Trong thập niên 1930s, trong các cao trào cách mạng đấu tranh giai cấp, cũng đều do Đảng cộng sản Đông Dương lãnh đạo, thực tiễn đó báo Le Peuple đã đề cập còn gì, trong hàng trăm cuộc biểu tình, mít-tinh thì trotskyist chỉ tham gia 10 cuộc. Như vậy quá rõ ràng những người cộng sản Đông Dương vẫn không ngừng thực hiện đấu tranh giai cấp, nhưng chúng ta cần phải nhận thức đầy đủ chiến lược, chiến thuật của cách mạng Đông Dương, đấu tranh giai cấp phải làm nhiệm vụ hỗ trợ và giúp đỡ cho đấu tranh giải phóng dân tộc giành thắng lợi, cốt là để giữ vững đoàn kết của mặt trận nhân dân. Do đó, cách mạng dân tộc giải phóng là ưu tiên hàng đầu của những người cộng sản.

Nhưng không phải chỉ mỗi những người cộng sản mới thực hiện một lối "thỏa hiệp". Ngay cả những người trotskyist cũng thế, đấu tranh nghị trường bản chất nó cũng là một biện pháp có tính chiến thuật có tính thỏa hiệp nhất định trong điều kiện chuyên chính vô sản chưa có điều kiện để phát triển. Làm sao họ, những người trotskyist trong thời điểm năm 1936-1939 lại có thể bảo những người cộng sản là cải lương, là thỏa hiệp trong khi họ tham gia trực tiếp vào các hội đồng, cơ quan thuộc địa và do chính các cử tri là các địa chủ, nhà tư sản, hương hội bầu lên trong khi những người cộng sản vì tổ chức các phong trào đấu tranh giai cấp mà bị các cử tri ghét bỏ cơ chứ ? Chẳng lẽ sự thỏa hiệp của phái trotskyist lại có thể coi là giai cấp đấu tranh, còn sự thỏa hiệp của những người cộng sản lại bị coi là cải lương, giai cấp thỏa hiệp ? Tác giả không nhìn hay không dám nhìn ra sự vô lý trong chính lập luận của bản thân mình ? Kỳ lạ.

3. Sự lựa chọn giữa Stalin và Trotsky.

Có một sự thật phải khẳng định rằng, mặc dù những người trotskyist hết lời vu cáo Stalin khi cho rằng ông ta làm biến đổi và sai lệch chủ nghĩa Lê-nin. Nhưng cho đến nay họ vẫn không thể chỉ ra Stalin khác Lê-nin ở quan điểm gì đối với các quan điểm về chiến lược và chiến thuật của cách mạng vô sản, ngoài những việc gán ghép vô tội vạ hay bỏ lờ các quan điểm của Stalin trong các bài nói, bài viết. Thật kỳ lạ, không biết Stalin bày tỏ quan điểm thái độ như thế nào đối với cách mạng vô sản, thì làm sao có thể phân biệt được sự khác nhau giữa Lê-nin và Stalin về chiến lược và chiến thuật của cách mạng vô sản được chứ ? Rõ ràng, việc lý giải rằng Stalin làm méo mó chủ nghĩa Lê-nin là những luận điệu hết sức thiếu thuyết phục. Ngay chính trong các cuộc tranh luận trong Đảng hồi thập niên 1920s cũng đã cho thấy Trotsky không hiểu và không biết gì về chủ nghĩa Lê-nin, và từng bước Trotsky bị đánh bại bởi sự đối lập của ông ta đối với chủ nghĩa Lê-nin, đối lập với một đảng cách mạng do chính Lê-nin lập ra. Và những người trotskyist dường như tưởng rằng không ai ngoài họ mới hiểu chủ nghĩa Lê-nin, họ quên mất là một đảng có hàng triệu đảng viên, trong đó có hàng trăm nghìn đảng viên đã trãi qua những bão tố thử thách của cách mạng Nga để làm cách mạng tháng Mười lại không biết gì về chủ nghĩa Lê-nin chăng ? Không lẽ ngay thời điểm năm 1925, hơn 700.000 đảng viên của Đảng lại không thể phân biệt nếu Stalin là một kẻ làm méo mó chủ nghĩa Lê-nin chăng ? Và 99% đảng viên lại đuôi mù đến nỗi không thể nhìn thấy một Trotsky marxist - leninist chăng ? Không hề, rõ ràng là hàng vạn đảng viên ưu tú lúc đó, nhiều người đã trãi qua các nhà tù của chế độ Nga hoàng, cùng hoạt động bên cạnh Lê-nin hoàn toàn đủ khả năng nhận ra đâu là chủ nghĩa Lê-nin.

Như vậy, việc ủng hộ Stalin có một ý nghĩa rất lớn, không phải vì ông ta làm méo mó chủ nghĩa Lê-nin, mà thực chất vì ông ta đã giương cao ngọn cờ chủ nghĩa Lê-nin. Mà vì việc giương cao ngọn cờ và giữ đúng ngọn cờ đó cho nên ông ta mới được toàn Đảng ủng hộ.

Nhưng đứng dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Lê-nin do Stalin giương cao không đồng nghĩa là trung thành với cá nhân Stalin, trung thành với lối diễn giải của Stalin. Nếu ông ta sai, hoàn toàn có thể đi đến các cuộc luận chiến để phản bác điều đó. Nhưng đáng tiếc là những người trotskyist và các phái đối lập khác đã thất bại trong hầu hết các cuộc tranh luận đó, ngay cả Trotsky đã liên tục ăn trái đắng khi bị thất bại vào năm 1924, 1925, 1926 và 1927 đến nỗi phải bị khai trừ Đảng vì vi phạm điều lệ Đảng.

Có một sự thật là từ sau khi Lê-nin qua đời cho đến sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Stalin là tiêu biểu cho ngọn cờ của chủ nghĩa Lê-nin, cho Liên Xô, cho Quốc tế Cộng sản. Cho nên những người cộng sản Đông Dương đều ủng hộ Stalin, nghĩa là họ bênh vực chủ nghĩa Lê-nin để chống lại chủ nghĩa Trotsky. Một sự thật khác cũng phải nhìn nhận đúng là chẳng tồn tại cái gọi là Chủ nghĩa Stalin, vì Stalin không sáng tạo và đúc kết bất kỳ hệ thống lý luận cách mạng vô sản nào để thay thế chủ nghĩa Lê-nin, một sự thật đáng buồn cười là "chủ nghĩa Stalin" ra đời từ miệng của những người trotskyist chứ không phải do cá nhân Stalin sáng tạo nên. Thật là buồn cười khi họ phải sáng tạo ra cái thuyết "Stalin bẻ cong chủ nghĩa Lê-nin", "Chủ nghĩa Lê-nin bị Stalin diễn giải méo mó", ... để cho rằng đó là chủ nghĩa Stalin, và còn xem những ai bênh vực Stalin thì là Stalinist - những người theo chủ nghĩa Stalin. Rất nực cười. Những người tự nhận mình là cách mạng, là chân chính nhưng lại không hiểu cái định nghĩa học thuyết, chủ nghĩa là gì và những người theo chủ nghĩa là như thế nào. Họ gán vô tội vạ cho bất kỳ ai đã bịt được cái miệng "cách mạng" của họ.

Những người cộng sản Đông Dương nào có thể đứng ngoài vấn đề đó chứ. Ngay trong thời kỳ ở Liên Xô năm 1934 - 1938, là người chứng kiến các phiên xét xử mở công khai tại Moskva. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là một trong những người kiên định nhất với chủ nghĩa Lê-nin và ra sức chống những quan điểm Trotsky. Ở Trung Quốc, Người đã viết 3 bức thư gửi Ban chấp hành Đảng cộng sản Đông Dương về việc kiên quyết phải vạch trần bộ mặt của phái trotskyist và không thỏa hiệp với phái trotskyist. Chính vì thái độ ấy, mà mặc dù Nguyễn Ái Quốc có quan điểm tương đối khác biệt so với Stalin về chiến lược và sách lược cách mạng thuộc địa, nhưng vẫn bị trotskyist gán Người là Stalinist mặc dù Người chẳng theo "chủ nghĩa Stalin" bao giờ.

Kề từ khi Người trực tiếp về nước lãnh đạo cách mạng 1941, việc ủng hộ Liên Xô, ủng hộ Stalin là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà Đảng cộng sản Đông Dương đã thực hiện xuyên suốt thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ 2, bảo vệ ngọn cờ của chủ nghĩa Lê-nin.

Do đó, lựa chọn Stalin, tức ngọn cờ của chủ nghĩa Lê-nin, là một quyết định có tính nhất quán của những người cộng sản Đông Dương (chứ không phải vấn đề cá nhân Stalin - Trotsky).

(1) Vietnamese communism: the prepower phase (1925-1945), University of Western Ontario, Cananda, 1972.
(2) Vietnamese communism (1925-1945), Cornell University Press, for the Institute of Southeast Asian Studies, Singapore, 1982.