Các hoạt động quân sự năm 1915
- Các hoạt động quân sự năm 1915
Trong suốt mùa đông 1914/15, sự chú ý của cả hai đối thủ đã chuyển sang mặt trận Galicia, nơi quân đội Nga đã tiến hành các trận chiến kiên cường để chiếm giữ các lối đi và dãy núi Carpathian. Ngày 22 tháng 3, Przemyśl cùng với 120.000 quân đồn trú của Áo-Hung đã đầu hàng. Nhưng quân Nga không thể phát triển thành công này thêm nữa. Tình trạng thiếu vũ khí và đạn dược, đặc biệt là đạn pháo, đã trở nên cấp bách. Bộ chỉ huy đối phương, rất lo ngại về mối đe dọa quân Nga xâm lược đồng bằng Hungary, đã kịp thời tập trung một lực lượng lớn. Giữa tháng 4, các tập đoàn quân Nga đã kiệt sức và chuyển sang phòng thủ.
Ngay sau đó, quân Đức đã tiến hành một chiến dịch lớn ở cánh phải của Mặt trận Tây Nam Nga. Mục tiêu ban đầu của nó, theo ý tưởng của bộ chỉ huy Đức, là loại bỏ mối đe dọa quân Nga xâm lược đồng bằng Hungary, nhưng sau đó, chiến dịch đã phát triển như một phần không thể thiếu của "gọng kìm" chiến lược, nhằm bao vây và nghiền nát toàn bộ cụm quân Nga ở Galicia và Ba Lan bằng một đòn tấn công đồng thời từ Carpathians và Đông Phổ. Các quân đoàn tốt nhất đã được chuyển từ mặt trận Tây Âu, và một tập đoàn quân Đức mới, Tập đoàn quân số 11, đã được thành lập từ chúng. Quyết định chọc thủng mặt trận Nga được thực hiện ở khu vực Gorlice. Pháo binh Đức ở khu vực đột phá đông hơn quân Nga sáu lần về số lượng, và bốn mươi lần về pháo hạng nặng. Các vị trí của Nga được củng cố kém, và hoàn toàn không có vị trí phòng thủ hậu phương. Ngày 2 tháng 5, quân Đức đã chọc thủng được mặt trận. Tình hình khó khăn của các tập đoàn quân Nga càng trở nên trầm trọng hơn do chiến thuật sai lầm của bộ chỉ huy, thay vì nhanh chóng rút các đơn vị về các tuyến mới, đã làm tiêu hao chúng trong các trận chiến đẫm máu và vô ích với lực lượng đối phương vượt trội. Kết quả là, quân đội Áo-Đức đã đẩy các tập đoàn quân Nga lùi xa về phía đông. Cuối tháng 5, Przemyśl đã được giành lại, và ngày 22 tháng 6, quân Nga đã trao trả Lviv. Đồng thời, quân Đức cũng tiến công ở cánh bắc của mặt trận Nga, chiếm Libau (Liepāja).
Cuối tháng 6, Bộ Tổng Tư lệnh Đức, cố gắng thực hiện "gọng kìm" bao vây các tập đoàn quân Nga, đã lên kế hoạch tấn công bằng cánh phải giữa Tây Bug và Vistula, và cánh trái ở hạ lưu Narew. Nhưng "Cannae" do Hindenburg và Ludendorff dự kiến đã không thành hiện thực. Bộ chỉ huy Nga đã quyết định rút các tập đoàn quân của mình khỏi cuộc tấn công sắp tới và từ bỏ Ba Lan. Ngày 13 tháng 7, quân Đức bắt đầu tấn công. Đầu tháng 8, họ chiếm Warsaw, và sau đó là Novo-Georgievsk (Modlin). Vào nửa cuối tháng 9, cuộc tấn công của Đức bắt đầu yếu dần. Đến cuối năm, mặt trận đã ổn định theo tuyến Tây Dvina – hồ Naroch – sông Styr – Dubno – sông Strypa.
Nhìn chung, chiến dịch năm 1915 tại chiến trường Đông Âu đã có những hậu quả đáng kể. Chế độ Sa hoàng đã chịu một thất bại lớn, phơi bày tất cả những yếu kém của tổ chức quân sự và sự lạc hậu kinh tế của đất nước. Quần chúng binh lính đã phải trả giá bằng những hy sinh khổng lồ: từ đầu cuộc chiến, tổng số tổn thất nhân lực của Nga lên tới hơn 3 triệu người, trong đó 300 nghìn người thiệt mạng. Đồng thời, kết quả của thất bại đã đẩy nhanh quá trình cách mạng hóa quân đội.
Tuy nhiên, các nhà đế quốc Đức đã không đạt được mục tiêu chính mà tình hình kinh tế và chính trị căng thẳng của Đức và các đồng minh của nó đã đặt ra. Mặc dù hơn một nửa tổng số quân đội Đức-Áo đã được tập trung ở mặt trận Nga vào năm 1915, Nga đã không bị loại khỏi cuộc chiến, và Đức và Áo-Hung đã chịu những tổn thất rất lớn.
Trong những năm 1914-1915, một phần đáng kể của Ba Lan đã trở thành chiến trường. Mỗi cường quốc tham chiến – Đức, Áo-Hung và Nga hoàng – đều khao khát chiếm đoạt tất cả các vùng đất Ba Lan. Đồng thời, chính phủ các nước này, bằng những lời hứa hão huyền, đã hy vọng lôi kéo nhân dân Ba Lan về phía mình và sử dụng họ trong chiến tranh. Với những tính toán này, các lời kêu gọi của các chỉ huy quân đội của ba cường quốc gửi tới người dân Ba Lan vào năm 1914 đã được đưa ra, trong đó có những lời hứa về "tự trị", thống nhất các vùng đất Ba Lan, v.v.
Giới tư sản và địa chủ Ba Lan và Galicia đã đặt cược không phải vào phong trào giải phóng dân tộc, mà vào sự hỗ trợ từ một trong các cường quốc đế quốc chủ nghĩa. Những người Dân chủ Quốc gia (Endeks) và một số nhóm tư sản khác đã ủng hộ việc thống nhất các vùng đất Ba Lan dưới "quyền trượng của quân chủ Nga" và quyền tự trị của họ trong Đế quốc Nga. Các yếu tố tư sản-địa chủ và tiểu tư sản Galicia và các nhóm chính trị riêng lẻ của Vương quốc Ba Lan, đặc biệt là những người xã hội chủ nghĩa cánh hữu và Liên minh Nông dân, đã ủng hộ chương trình thành lập nhà nước Ba Lan trong Đế quốc Habsburg. "Tổ chức Quốc gia Ba Lan" do Piłsudski đứng đầu đã hướng về Đức: họ đã ký một liên minh bí mật với bộ chỉ huy quân đội Đức, chiếm đóng một phần Vương quốc Ba Lan, thành lập các quân đoàn Ba Lan chiến đấu về phía các cường quốc Trung tâm.
- Chiến trường Tây Âu
Vào cuối mùa đông và mùa xuân năm 1915, Bộ chỉ huy Anh-Pháp đã tiến hành một loạt các hoạt động tấn công không mang lại kết quả chiến lược. Tất cả các cuộc tấn công này đều được thực hiện với mục tiêu hạn chế trên các đoạn mặt trận hẹp.
Ngày 22 tháng 4, tại thành phố Ypres, quân Đức đã tấn công các vị trí của Anh-Pháp. Trong cuộc tấn công này, bất chấp các điều khoản của công ước quốc tế cấm sử dụng các chất độc hại, họ đã thực hiện việc phóng khí clo hàng loạt bằng bóng bay. 15 nghìn người đã bị nhiễm độc, trong đó 5 nghìn người tử vong. Thành công chiến thuật mà quân Đức đạt được nhờ việc sử dụng phương tiện chiến tranh mới là rất nhỏ. Tuy nhiên, sau đó, việc cả hai bên tham chiến sử dụng các phương tiện hóa học trong chiến đấu đã trở nên phổ biến.
Các cuộc tấn công của quân đội Entente ở Artois vào tháng 5 và tháng 6, mặc dù chịu tổn thất lớn, cũng không mang lại bất kỳ kết quả nghiêm trọng nào.
Tính chất không quyết đoán, hạn chế của các hoạt động tấn công của Entente đã cho phép Bộ chỉ huy Đức tăng cường đáng kể lực lượng của mình đối phó với Nga. Tình hình khó khăn của quân đội Nga do đó, cũng như những lo ngại rằng chế độ Sa hoàng có thể rút khỏi cuộc chiến, đã buộc Entente cuối cùng phải xem xét vấn đề hỗ trợ Nga. Ngày 23 tháng 8, Joffre đã trình bày với Bộ trưởng Chiến tranh Pháp những lý do thúc đẩy ông tiến hành một chiến dịch tấn công. "Đối với chúng ta, việc bắt đầu cuộc tấn công này càng sớm càng tốt càng có lợi, vì quân Đức, sau khi đánh bại quân Nga, có thể quay sang chống lại chúng ta." Tuy nhiên, dưới áp lực của các tướng Foch và Pétain, cuộc tấn công đã bị hoãn lại đến cuối tháng 9, khi cuộc chiến ở mặt trận Nga đã bắt đầu lắng xuống.
Ngày 25 tháng 9, quân Pháp đã tiến hành một chiến dịch tấn công với hai tập đoàn quân ở Champagne và một tập đoàn quân – cùng với quân Anh – ở Artois. Lực lượng rất lớn đã được tập trung, nhưng không thể chọc thủng mặt trận của đối phương.
- Mặt trận Caucasus vào năm 1915
Mùa hè năm 1915, quân đội Thổ Nhĩ Kỳ đã tiến hành một chiến dịch tấn công theo hướng Alashkert. Với đòn phản công của quân Nga, quân Thổ Nhĩ Kỳ đã bị đẩy lùi, và sau đó quân đội Nga đã chuyển sang tấn công theo hướng Van.
Cả hai liên minh đều tiến hành các hoạt động quân sự tích cực trên lãnh thổ Iran. Đầu năm 1915, các điệp viên Đức đã thành công trong việc tổ chức một cuộc nổi dậy của các bộ lạc ở phía nam đất nước. Các bộ lạc Bakhtiari nổi dậy đã phá hủy một phần đường ống dẫn dầu của Công ty Dầu mỏ Anh-Ba Tư. Ngay sau đó, quân đội Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu tiến về các khu vực khai thác dầu và đến mùa thu năm 1915 đã chiếm Kermanshah và Hamadan.
Để đáp trả việc Đức tăng cường vị thế ở Iran, Anh và Nga đã cử thêm quân. Người Anh đã thành công trong việc khôi phục đường ống dẫn dầu và đẩy lùi quân Thổ Nhĩ Kỳ và Bakhtiari khỏi khu vực khai thác dầu. Vào tháng 10 năm 1915, quân đoàn viễn chinh Nga của Tướng Baratov đã đổ bộ xuống Anzali. Bắt đầu tiến về Tehran, quân Nga đã chiếm Qazvin. Sau đó, truy đuổi các đội quân Đức-Thổ Nhĩ Kỳ, quân của Baratov đã chiếm Hamadan, Qom, Kashan và tiến đến Isfahan.
- Kết quả của chiến dịch năm 1915
Đặc điểm chính của tình hình chiến lược vào thời điểm chuyển giao giữa năm 1915 và 1916 là sự gia tăng sức mạnh quân sự-kỹ thuật của Entente. Pháp và Anh, nhờ việc chuyển trọng tâm các hoạt động quân sự sang mặt trận Nga, đã có được một thời gian tạm lắng, tích lũy lực lượng và phương tiện để tiếp tục cuộc đấu tranh lâu dài trên chiến trường Tây Âu. Đến đầu năm 1916, họ đã có ưu thế vượt trội so với Đức khoảng 75-80 sư đoàn và phần lớn đã khắc phục được sự chậm trễ của mình trong lĩnh vực vũ khí pháo binh. Quân đội Anh và Pháp có pháo binh hạng nặng thuộc các mẫu mới, lượng lớn đạn pháo và nền sản xuất quân sự được tổ chức tốt.
Các nhà lãnh đạo của các quốc gia Entente đã thừa nhận sự cần thiết phải tìm kiếm giải pháp cho cuộc chiến bằng các hoạt động tấn công phối hợp trên các chiến trường chính, không phân tán nỗ lực vào các chiến trường thứ yếu. Thời gian của các hoạt động tấn công đã được xác định rõ: trên chiến trường Đông Âu – ngày 15 tháng 6, trên chiến trường Tây Âu – ngày 1 tháng 7. Việc trì hoãn cuộc tấn công là một sai lầm nghiêm trọng của kế hoạch này, nó đã tạo cơ hội cho liên minh Đức giành lại thế chủ động.
Tình hình của Bộ chỉ huy Đức khi xây dựng kế hoạch cho chiến dịch năm 1916 là vô cùng khó khăn. Không thể nghĩ đến việc tiến hành các hoạt động quyết định đồng thời trên cả hai mặt trận; lực lượng không đủ để tiến hành tấn công trên nhiều khu vực của một mặt trận. Trong báo cáo gửi Kaiser Wilhelm vào cuối tháng 12 năm 1915, Tham mưu trưởng Falkenhayn thừa nhận rằng lực lượng để tấn công vào Ukraine "không đủ về mọi mặt", một đòn tấn công vào Petrograd "không hứa hẹn kết quả quyết định", và việc tiến về Moscow "dẫn chúng ta vào một vùng đất vô tận". "Chúng ta không có đủ lực lượng cho bất kỳ cuộc tấn công nào trong số này," Falkenhayn viết. "Do đó, Nga bị loại trừ như một mục tiêu tấn công." Đánh bại kẻ thù chính – Anh – là điều không thể do vị trí đảo quốc của Anh và ưu thế của hạm đội Anh. Chỉ còn lại Pháp. Falkenhayn tin rằng "Pháp đã đạt đến giới hạn chịu đựng" và rằng nhiệm vụ đánh bại Pháp có thể được thực hiện nếu buộc Pháp phải tiêu hao lực lượng của mình trong cuộc chiến giành một mục tiêu mà "bộ chỉ huy Pháp sẽ buộc phải hy sinh người cuối cùng để bảo vệ". Verdun đã được chọn làm mục tiêu đó.
Một đòn tấn công vào điểm nhô Verdun, nếu thành công, sẽ phá vỡ toàn bộ hệ thống phòng thủ ở cánh phải của mặt trận Pháp và mở đường cho quân đội Đức tiến vào Paris từ phía đông. Khu vực Verdun có thể là một căn cứ xuất phát thuận lợi cho cuộc tấn công của quân đội Pháp về phía bắc dọc theo sông Meuse. Bộ chỉ huy Đức biết rằng Entente có một kế hoạch như vậy và hy vọng việc chiếm Verdun sẽ làm cho kế hoạch đó trở nên khó khăn.
Trên mặt trận Ý, Bộ chỉ huy Áo-Hung đã quyết định giáng một đòn mạnh vào Trentino.