C3.P3 Sự bất đồng về sách lược giữa bôn-sê-vích và men-sê-vích. Đại hội III của Đảng. Tác phẩm “Hai sách lược của Đảng Dân chủ Xã hội trong cuộc cách mạng dân chủ của Lê-nin.>>

Tài liệu: Lịch sử Đảng Cộng sản Bolsheviks Liên Xô được phát hành lần đầu vào năm 1938. Trong bài thơ Tức cảnh Pác Pó của chủ tịch Hồ Chí Minh, chi tiết dịch sử Đảng trong bài thơ này chính là cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Bolsheviks Liên Xô.



===============================

Chương 3. Men-Sê-Vich và Bôn-Sê-Vich trong thời kỳ chiến tranh Nga-Nhật và cuộc cách mạng Nga thứ nhất (1904-1907).


3. 3. Sự bất đồng về sách lược giữa bôn-sê-vích và men-sê-vích. Đại hội III của Đảng. Tác phẩm “Hai sách lược của Đảng Dân chủ Xã hội trong cuộc cách mạng dân chủ của Lê-nin.


Cách mạng đã thúc đẩy tất cả các giai cấp trong xã hội. Sự biến đổi trong đời sống chính trị trong nước do cách mạng gây ra, đã làm cho các giai cấp phải bỏ vị trí cổ truyền và tập hợp lại theo tình thế mới. Mỗi giai cấp, mỗi đảng phái đều cố gắng định sách lược , đường lối, thái độ của mình đối với các giai cấp khác, thái độ của mình đối với chính phủ. Ngay cả chính phủ Nga hoảng cũng phải định sách lược riêng cho họ - hứa triệu tập một “cơ quan đại biểu”: Viện Đu-ma của Bu-gư-lin.

Đảng dân chủ xã hội cũng phải định rõ sách lược của mình. Cao trào cách mạng ngày càng mạnh đòi hỏi như thế. Những vấn đề thực tiễn hết sức cấp bách trước mắt giai cấp vô sản đòi hỏi phải như thế: vấn đề tổ chức vũ trang khởi nghĩa, đánh đổ chính phủ Sa hoàng, thành lập chính phủ cách mạng lâm thời, Đảng dân chủ xã hội tham gia chính phủ ấy, thái độ đối với nông dân, đối với giai cấp tư sản tự do, v..v. Đảng dân chủ xã hội phải định một sách lược mác xít duy nhất và chín chắn.

Nhưng chủ nghĩa cơ hội và hành động bè phái của bọn men-sê-vích đã khiến cho Đảng dân chủ xã hội Nga lúc bấy giờ phân liệt thành hai phái. Người ta chưa thể coi đó là sự phân liệt hoàn toàn; hai phái đó chưa chính thức là hai đảng riêng biệt, nhưng thực tế thì hai phái đó rất giống hai đảng khác nhau, có trung tâm riêng, có báo chí riêng của mình.

Tình trạng sau đây càng làm cho sự phân liệt sâu sắc hơn nữa: thêm vào những sự bất đồng ý kiến trước kia với đa số trong Đảng về những vấn đề tổ chức, nay phái men-sê-vích lại có những sự bất đồng ý kiến khác, những sự bất đồng ý kiến về những vấn đề sách lược.

Không có một Đảng thống nhất, tất sẽ không có sách lược duy nhất của Đảng.

Nếu triệu tập ngay Đại hội thường kỳ III, xác định tại đại hội một sách lược duy nhất, bắt phe thiểu số phải thành thật thi hành quyết định của đại hội, thì có thể tìm được cách giải quyết cho tình hình trên. Chính những người bôn-sê-vích đã kiến nghị cùng bọn men-sê-vích giải pháp ấy. Nhưng bọn men-sê-vích không muốn nghe nói đến Đại hội III. Thấy rằng để kéo dài tình trạng Đảng không có một sách lược toàn Đảng tán thành và toàn thể Đảng viên phải tuân theo, là một tội nặng, những người bôn-sê-vích quyết định đứng ra triệu tập Đại hội III.

Tất cả các tổ chức của bôn-sê-vích và men-sê-vích đều được mời đến dự Đại hội. Nhưng bọn men-sê-vích từ chối tham gia Đại hội III và quyết định triệu tập một đại hội riêng. Vì số đại biểu của họ quá ít, họ gọi đại hội của họ là hội nghị đại biểu, nhưng thật ra đấy là một đại hội, đại hội Đảng của những người men-sê-vích; những quyết định của đại hội ấy tất cả những người men-sê-vích đều bắt buộc phải theo.

Tháng Tư 1905, Đại hội III của Đảng dân chủ xã hội Nga họp tại Luân-đôn. Có 24 đại biểu của 20 Đảng ủy bôn-sê-vích. Tất cả các tổ chức của Đảng đều có đại biểu đến dự.

Đại hội lên án bọn men-sê-vích là “bộ phận phân liệt trong Đảng” và chuyển sang xét vấn đề trong chương trình nghị sự để định sách lược của Đảng. Đồng thời với đại hội, ở Giơ-ne-vơ cũng có hội nghị của bọn men-sê-vích.

- “Hai đại hội, hai đảng”, Lê-nin đã nhận định tình hình bấy giờ như thế.

Thật ra cả đại hội và hội nghị đều thảo luận cũng những vấn đề như nhau là vấn đề sách lược, những nghị quyết hai bên thông qua về những vấn đề đó lại đối lập nhau. Hai loại nghị quyết khác hẳn nhau mà đại hội và hội nghị đã thông qua cho thấy sự bất đồng ý kiến sâu sắc về sách lược giữa đại hội III của Đảng và hội nghị của những người men-sê-vích, giữa bôn-sê-vích và men-sê-vích.

Dưới đây là những điểm chính của sự bất đồng ấy.

<<Đường lối sách lược của Đại hội III của Đảng (bôn-sê-vích triệu tập)>>. Đại hội cho rằng dù cuộc cách mạng đang diễn ra có tính chất dân chủ - tư sản và mặc dù cuộc cách mạng đó hiện giờ không vượt quá được khuôn khổ những việc có thể thực hiện được dưới chế độ tư bản, giai cấp vô sản quan tâm trước hết đến sự thắng lợi hoàn toàn của cuộc cách mạng đó, vì thắng lợi của cuộc cách mạng đó sẽ làm cho giai cấp vô sản có thể tổ chức mình, nâng cao mình về chính trị, có thể có kinh nghiêm và kỹ năng lãnh đạo quần chúng lao động, và có thể chuyển từ cách mạng tư sản lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Chỉ có nông dân mới ủng hộ sách lược của giai cấp vô sản là sách lược nhằm làm cho cách mạng dân chủ - tư sản thắng lợi hoàn toàn, vì nông dân không thể thoát khỏi địa chủ và lấy ruộng đất của địa chủ nếu cách mạng không thắng lợi hoàn toàn, vì vậy nông dân là bạn đồng minh tự nhiên của giai cấp vô sản.

Giai cấp tư sản tự do không quan tâm đến thắng lợi ấy, và họ còn cần đến chính quyền của Nga hoàng để làm cái roi quật vào công nhân và nông dân mà họ sợ hơn cả, họ tìm cách duy trì chính quyền của Sa hoàng, hạn chế một phần nào những quyền hành của chính quyền đó. Vì giai cấp tư sản tự do sẽ tìm cách giải quyết vấn đề bằng sự thỏa hiệp với Sa hoàng trên cơ sở chế độ quân chủ lập hiến.

Cách mạng chỉ thắng được nếu giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng, nếu giai cấp vô sản, với tư cách là người lãnh đạo cách mạng, biết liên minh với nông dân, nếu giai cấp tư sản tự do bị cô lập, nếu Đảng dân chủ xã hội tích cực tham gia tổ chức khởi nghĩa của nhân dân chống chế độ Nga hoàng, nếu sau khi cuộc khởi nghĩa thắng lợi thành lập một chính phủ cách mạng lâm thời có khả năng đập tan lực lượng phản cách mạng và triệu tập một Hội nghị lập hiến của toàn thể nhân dân, nếu đảng dân chủ xã hội trong những điều kiện thuận lợi không từ chối việc tham gia vào chính phủ lâm thời để điều hành cách mạng đến cùng.

<<Đường lối sách lược của hội nghị men-sê-vích>>. Cách mạng đã là cách mạng tư sản, thì chỉ có giai cấp tư sản tự do mới có thể lãnh đạo được. Giai cấp vô sản không nên dịch lại gần với nông dân mà phải dịch lại gần giai cấp tư sản tự do. Điều cốt yếu ở đây là đừng làm cho giai cấp tư sản tự do hoảng sợ tinh thần cách mạng của mình và đừng để cho họ có cớ tránh xa cách mạng, vì nếu giai cấp tư sản hoảng sợ cách mạng thì cách mạng sẽ yếu đi.

Có thể là khởi nghĩa sẽ thắng, nhưng sau khi khởi nghĩa thắng lợi, Đảng dân chủ xã hội phải đứng ra ngoài để giai cấp tư sản tự do khỏi hoảng sợ. Có thể là sau khởi nghĩa, chính phủ cách mạng lâm thời sẽ thành lập, nhưng dù sau Đảng dân chủ xã hội cũng không nên tham dự vì chính phủ ấy, theo tính chất của nó, không phải là chính phủ xã hội chủ nghĩa và chủ yếu là vì việc tham dự vào chính phủ và tinh thần thần cách mạng của Đảng dân chủ xã hội sẽ khiến cho giai cấp tư sản tự do hoảng sợ, do đó có thể làm hại cách mạng.

Đứng về triển vọng cách mạng, thì tốt nhất là triệu tập một cơ quan đại biểu nào đó kiểu Dem-ski Xô-bô hay nghị viện Đu-ma, rồi giai cấp công nhân từ bên ngoài sẽ làm áp lực để biến nghị viện ấy thành một hội nghị viện lập hiến hay thúc đẩy nghị viện ấy triệu tập hội nghị viện lập hiến.
Giai cấp vô sản có những lợi ích riêng của mình, những lợi ích thuần túy của công nhân, giai cấp vô sản phải lo toan chính những lợi ích ấy, đừng mưu toan lãnh đạo cách mạng tư sản, vì cách mạng tư sản là một cuộc cách mạng chính trị chung, do đó nó liên quan đến tất cả các giai cấp chỉ liên quan đến riêng giai cấp vô sản.

=> Đó là tóm tắt hai sách lược của hai phái trong Đảng công nhân dân chủ xã hội Nga.

Lê-nin đã phê bình sách lược của những người men-sê-vích một cách mẫu mực và luận chứng một cách tài tình sách lược của những người bôn-sê-vích trong tác phẩm lịch sử “Hai sách lược của Đảng dân chủ xã hội trong cuộc cách mạng dân chủ”.

Tác phẩm ấy xuất bản tháng Bảy 1905, tức là hai tháng sau Đại hội III của Đảng. Xét theo tên cuốn sách ấy, có thể tưởng tượng rằng Lê-nin chỉ bàn đến những vấn đề sách lược của thời kỳ cách mạng dân chủ - tư sản, và chỉ nói về bọn men-sê-vích Nga. Nhưng sự thực, khi phê bình sách lược của những người men-sê-vích, Lê-nin đồng thời vạch trần cả sách lược của chủ nghĩa cơ hội quốc tế, khi chứng minh sách lược của những người mác xít trong thời kỳ cách mạng tư sản và cách mạng xã hội chủ nghĩa, Lê-nin đã đồng thời đề ra những nguyên lý sách lược mác xít trong thời kỳ quá độ từ cách mạng tư sản lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Dưới đây là những luận điểm sách lược chủ yếu mà Lê-nin đã phát triển trong tác phẩm “Hai sách lược của Đảng dân chủ xã hội trong cuộc cách mạng dân chủ”.

1. Luận điểm sách lược chủ yếu quán triệt tác phẩm của Lê-nin là: giai cấp vô sản có thể và phải là lãnh tụ của cách mạng dân chủ tư sản, người lãnh đạo cách mạng dân chủ tư sản của Nga.

Lê-nin thừa nhận tính chất tư sản của cuộc cách mạng ấy “không thể vượt thẳng ra ngoài khuôn khổ của một cuộc cách mạng đơn thuần có tính chất dân chủ”. Nhưng Lê-nin cho rằng đó không phải là một cuộc cách mạng của những tầng lớp trên, mà là cuộc cách mạng nhân dân huy động toàn thể nhân dân, toàn thể giai cấp công nhân, toàn thể nông dân vào phong trào. Vì vậy, Lê-nin coi mưu toan của những người men-sê-vích định làm giảm ý nghĩa của cuộc cách mạng tư sản đối với giai cấp vô sản, hạ thấp vai trò của giai cấp vô sản trong cuộc cách mạng ấy và gạt giai cấp vô sản ra ngoài cuộc cách mạng ấy, là phải bội lợi ích của giai cấp vô sản.

Lê-nin viết:

“Chủ nghĩa Mác dạy người vô sản không được xa lánh cách mạng tư sản, không được hờ hững với cuộc cách mạng đó, không được bỏ cho giai cấp tư sản lãnh đạo cuộc cách mạng đó, mà trái lại, phải kiên quyết tham gia, kiên quyết đấu tranh để thực hiện dân chủ vô sản triệt để, để tiến hành cách mạng đến cùng”. (V.I. Lê-nin, tập VIII, tr.58)

Ở những đoạn sau, Lê-nin viết:

“Chúng ta không được quên rằng để tiến đến gần chủ nghĩa xã hội, ngày nay không có và không thể có phương tiện nào khác hơn là chế độ tự do chính trị hoàn toàn, chế độ cộng hòa dân chủ.”(như trên, tr.104)

Lê-nin thấy cách mạng có thể đi đến hai kết cục:

a) Hoặc là thắng hẳn chế độ Sa hoàng, lật đổ chế độ ấy và thành lập chế độ cộng hòa dân chủ.

b) Hoặc là, nếu không có đủ sức, cách mạng có thể sẽ kết thúc bằng sự thỏa hiệp giữa Sa hoàng và giai cấp tư sản chống lại nhân dân, bằng một thứ hiến pháp hạn chế, hay đúng hơn, một hiến pháp giả dối nào đó.

Giai cấp vô sản quan tâm đến cái kết cục tốt đẹp nhất, nghĩa là sự toàn thắng đối với chế độ Sa hoàng. Nhưng, chỉ có thể có được kêt cục như thế nếu giai cấp vô sản biết trở thành người lãnh tụ, người lãnh đạo cách mạng.

Lê-nin viết:

“Kết cục của cách mạng là tùy ở chỗ giai cấp công nhân sẽ đóng vai trò người giúp sức cho giai cấp tư sản – hùng mạnh khi tấn công vào chế độ chuyên chế, nhưng lại yếu ớt về mặt chính trị - hay sẽ đóng vai trò người lãnh đạo cuộc cách mạng nhân dân.” (như trên, tr.32)

Lê-nin cho rằng giai cấp vô sản có tất cả khả năng khỏi phải đóng vai người giúp sức cho giai cấp tư sản và trở thành người lãnh đạo cuộc cách mạng dân chủ tư sản. Theo Lê-nin, những khả năng ấy là:

- Thứ nhất, “giai cấp vô sản, do địa vị của mình, là giai cấp tiến bộ nhất và duy nhất triệt để cách mạng, do đó có sứ mệnh phải giữ vai trò lãnh đạo trong phong trào cách mạng dân chủ chung ở Nga.” (như trên, tr.75)

- Thứ hai, giai cấp vô sản có một chính đảng riêng của mình, độc lập đối với giai cấp tư sản, làm cho giai cấp vô sản có thể đoàn kết lại “thành một lực lượng chính trị duy nhất và độc lập.” (như trên, tr75)

- Thứ ba, giai cấp vô sản tha thiết hơn giai cấp tư sản đến thắng lợi quyết định của cách mạng, vì thế nên, “xét về một phương diện nào đó, cách mạng tư sản có lợi cho giai cấp vô sản hơn là cho giai cấp tư sản.” (như trên, tr.57)

Muốn cho những khả năng giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng biến thành hiện thực, muốn cho giai cấp vô sản thực sự trở thành người lãnh tụ, người lãnh đạo cách mạng tư sản – theo Lê-nin thì muốn thế phải có chí ít hai điều kiện: 

- Trước nhất là giai cấp vô sản phải có bạn đồng minh thiết tha đánh thắng chế độ Nga hoàng và có thể thừa nhận sự lãnh đạo của giai cấp vô sản. Chính bản thân ý niệm lãnh đạo yêu cầu phải như thế, vì người lãnh đạo sẽ không còn là lãnh đạo nếu không có ai bị lãnh đạo; người lãnh tụ sẽ không còn là lãnh tụ, nếu không có ai bị hướng dẫn, Lê-nin cho rằng nông dân là người bạn đồng minh ấy.

- Thứ hai là giai cấp đang đấu tranh với giai cấp vô sản để giành quyền lãnh đạo cách mạng và đang cố gắng trở thành người duy nhất lãnh đạo cách mạng, phải bị gạt khỏi môi trường lãnh đạo và bị cô lập. Chính bản thân ý niệm lãnh đạo yêu cầu phải như thế, nó loại trừ khả năng để cả hai kẻ lãnh đạo cách mạng. Lê-nin cho rằng giai cấp tư sản tự do là giai cấp ấy.

Lê-nin viết:

“Chỉ có giai cấp vô sản mới có thể là người triệt để chiến đấu cho dân chủ. Nhưng nó chỉ có thể chiến đấu có lợi cho dân chủ nếu quần chúng nông dân đi theo cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản.”(như trên, tr.65)

Phân tích những lời phản đối của bọn men-sê-vích cho rằng sách lược của những người bôn-sê-vích “buộc giai cấp tư sản rời bỏ sự nghiệp cách mạng và vì thế làm giảm bớt quy mô cách mạng”, kết án luận điệu ấy là “sách lược phản bội cách mạng”, là “sách lược biến giai cấp vô sản thành cái đuôi thảm hại của giai cấp tư sản”, Lê-nin viết:

“Người nào thực sự hiểu vai trò nông dân trong cuộc cách mạng Nga thắng lợi thì không thể nói rằng quy mô cách mạng sẽ giảm bớt, giai cấp tư sản rời bỏ cách mạng. Vì sự thực chỉ khi nào giai cấp tư sản rời bỏ cách mạng và quần chúng nông dân hoạt động cách mạng tích cực bên giai cấp vô sản, thì khi đó quy mô cách mạng Nga mới thực sự lớn nhất có thể có được trong thời kỳ cách mạng dân chủ - tư sản. Muốn được triệt để tiến hành đến cùng, cuộc cách mạng phải dựa vào những lực lượng có thể làm tê liệt hẳn tính chất không triệt để không thể tránh được của giai cấp tư sản, nghĩa là có thể bắt giai cấp ấy phải rời bỏ cách mạng.”(như trên, tr. 95-96)

Đó là luận điểm sách lược cơ bản về giai cấp vô sản là lãnh tụ cuộc cách mạng tư sản, luận điểm sách lược cơ bản về quyền bá chủ (vai trò lãnh đạo) của giai cấp vô sản trong cuộc cách mạng tư sản đã được Lê-nin trình bày trong tác phẩm “Hai sách lược của Đảng dân chủ xã hội trong cuộc cách mạng dân chủ”.

Đó là quan niệm mới của đảng mác xít về những vấn đề sách lược trong cuộc cách mạng dân chủ - tư sản, khác hẳn những quan điểm sách lược đã có từ trước trong kho vũ khí mác xít. Từ trước đến nay quan điểm của người ta là: trong cuộc cách mạng tư sản, chẳng hạn như ở phương Tây, giai cấp tư sản giữ vai trò lãnh đạo, giai cấp vô sản dù muốn hay không cũng chỉ là vai trò phụ, còn nông dân là quân hậu bị của tư sản. Những người mác xít coi sự bố trí ấy không ít thì nhiều ta không thể tránh khỏi được, nhưng đồng thời họ lại nói rằng giai cấp vô sản phải hết sức bênh vực những yêu sách giai cấp bức thiết của mình và phải có chính đảng riêng của mình. Ngày trước, trong hoàn cảnh lịch sử mới, theo Lê-nin quan niệm thì giai cấp vô sản trở thành lực lượng lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản, giai cấp tư sản bị gạt ra khỏi vị trí lãnh đạo cách mạng, còn nông dân trở thành hậu bị của giai cấp vô sản.

Những dư luận cho rằng Plê-kha-nốp “cũng tán thành” quyền bá chủ của giai cấp vô sản, là một sự hiểu lầm. Plê-kha-nốp có ve vãn ý kiến quyền bá chủ giai cấp vô sản và trong lời nói có thừa nhận ý kiến ấy, nhưng trong thực tế Plê-kha-nốp đã chống lại bản chất của ý kiến đó. Quyền bá chủ của giai cấp vô sản là vai trò lãnh đạo của giai cấp vô sản trong cuộc cách mạng tư sản, giai cấp vô sản thực hiện chính sách liên minh với nông dân, chính sách cô lập giai cấp tư sản tự do, nhưng như người ta thấy, Plê-kha-nốp chống lại chính sách cô lập giai cấp tư sản tự do, tiến hành chính sách thỏa hiệp với giai cấp này, chống chính sách liên minh của vô sản với nông dân. Sự thực lập trường sách lược của Plê-kha-nốp là một lập trường men-sê-vích phủ nhận quyền bá chủ của giai cấp vô sẩn.

2. Lê-nin coi khởi nghĩa vũ trang thắng lợi của nhân dân là phương tiện quan trọng nhất lật đổ chế độ Nga hoàng và thành lập nước Cộng hòa dân chủ. Trái với bọn men-sê-vích, Lê-nin cho rằng “phong trào cách mạng dân chủ chung đã dẫn tới sự cần thiết phải khởi nghĩa vũ trang”, rằng “việc tổ chức giai cấp vô sản để khởi nghĩa” đã “được đặt ra một cách cấp thiết thành một trong những nhiệm vụ chính, chủ yếu và cần thiết của Đảng”, rằng cần phải “thi hành ngay những biện pháp kiên quyết nhất để vũ trang giai cấp vô sản và đảm bảo khả năng trực tiếp lãnh đạo khởi nghĩa” (như trên, tr.75)

Muốn đưa quần chúng tiến hành khởi nghĩa và làm cho và làm cho cuộc khởi nghĩa thành cuộc khởi nghĩa của toàn dân, Lê-nin thấy cần phải nêu ra những khẩu hiệu, những lời kêu gọi quần chúng có thể phát huy được tính tự động cách mạng của quần chúng, tổ chức họ để khởi nghĩa và làm tan rã bộ máy chính quyền của chế độ Nga hoàng. Những khẩu hiệu ấy, theo Lê-nin là những nghị quyết sách lược của Đại hội III của Đảng; để bảo vệ những nghị quyết ấy, Lê-nin đã viết cuốn “Hai sách lược của Đảng dân chủ xã hội trong cuộc cách mạng dân chủ”.

Theo Lê-nin, đó là những khẩu hiệu sau đây:

a) Thực hiện “những cuộc bãi công chính trị của đông đảo quần chúng, những cuộc bãi công ấy có thể có ý nghĩa quan trọng trong lúc đấu tranh và ngay cả trong quá trình khởi nghĩa.”

b) Tổ chức “thực hiện ngày làm 8 giờ và những yêu sách cấp bách khác của giai cấp công nhân bằng con đường cách mạng.”

c) “tổ chức ngay các ủy ban nông dân cách mạng để thi hành mọi cải cách dân chủ, kể cả tịch thu ruộng đất của địa chủ, bằng con đường cách mạng.” 

d) Vũ trang cho công nhân.

Ở đây đặc biệt đáng chú ý hai điểm:

- Trước hết, là sách lược thực hiện ngày làm 8 giờ ở thành phố và thực hiện cải cách dân chủ ở nông thôn bằng phương pháp cách mạng, tức là thực hiện mà không đếm xỉa đến chính quyền, đến luật pháp, không cần biết đến cả chính quyền cũng như pháp chế, phá bỏ mọi luật lệ hiện hành và tự ý mình, tự quyền mình lập nên trật tự mới. Đó là phương sách sách lược mới, áp dụng nó sẽ làm tê liệt bộ máy chính quyền Nga hoàng và phát triển tình hình tích cực và tính chủ động sáng tạo của quần chúng. Trên cơ sở sách lược ấy đã xuất hiện những ủy ban bãi công cách mạng ở thành phố và những ủy ban nông dân cách mạng ở nông thôn; những ủy ban về sau trở thành những đại biểu Xô-viết công nhân và Xô viết đại biểu nông dân.

- Điều thứ hai, là thực hiện những cuộc bãi công chính trị của đông đảo quần chúng, những cuộc bãi công chính trị mà sau này, trong quá trình cách mạng, sẽ là vai trò quan trong bậc nhất trong việc động viên quần chúng tham gia cách mạng. Đó là vũ khí mới, rất quan trọng trong tay giai cấp vô sản, vũ khí mà các đảng mác xít trước kia chưa biết trong công tác thực tiễn và về sau đã trở thành quyền của người công dân.

Lê-nin cho rằng sau khi nhân dân khởi nghĩa thắng lợi, chính phủ Nga hoàng phải được thay bằng một chính phủ cách mạng lâm thời. Nhiệm vụ của chính phủ cách mạng lâm thời là củng cố những thành quả cách mạng, bẻ gãy sự phản kháng của bọn phản cách mạng và thi hành cương lĩnh tối thiểu của Đảng công nhân dân chủ xã hội Nga. Lê-nin cho rằng không thực hiện những nhiệm vụ ấy thì không thể giành được thắng lợi quyết định đối với chế độ Nga hoàng. Và muốn thực hiện những nhiệm vụ ấy, muốn giành được thắng lợi quyết định đối với chế độ Nga hoàng, chính phủ cách mạng lâm thời không thể là một chính phủ thường mà phải là chính phủ chuyên chính của những giai cấp chiến thắng, của công nhân và nông dân, chính phủ ấy phải là chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản và nông dân, Lê-nin dẫn luận điểm của Mác mà ai cũng biết, là “sau cách mạng, mọi tổ chức Nhà nước lầm thời đều đòi hỏi một nền chuyên chính, và là một nền chuyên chính kiên quyết”, và đã đi đến kết luận: nếu muốn đảm bảo thắng lợi quyết định đối với chế độ Nga hoàng, chính phủ cách mạng lâm thời không thể là một cái gì hơn là chuyên chính của giai cấp vô sản và nông dân.

Lenin viết: "Thắng lợi quyết định của cách mạng đối với chế độ Nga hoang là sự chyên chính dân chủ cách mạng của giai cấp vô sản và nông dân..".

Nói về thái độ của đảng dân chủ -xã hội đối với chính phủ cách mạng lâm thời và về việc đảng dân chủ -xã hội có thể tham gia chính phủ ấy, Lenin bảo vệ hoàn toàn nghị quyết của đảng về vấn đề này:

"Tùy theo sự so sánh lực lượng và những nhân tố khác khó xác định trước một cách chính xác, có thể cho phép các đại biểu của đảng ta tham gia chính phủ cách mạng lâm thời, để đấu tranh không khoan nhượng chống mọi mưu mô phản cách mạng và bảo vệ lợi ích riêng của giai cấp công nhân; những điều kiện tất yếu của sự tham gia ấy là: đảng kiểm soát chặt chẽ các đại biểu được cử tham gia chính phủ đó và phải kiên quyết giữ tính độc lập của đảng dân chủ xã hội là đảng vẫn nhằm đi tới một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trọn vẹn, và vì thế là đảng hết sức thù địch với tất cả các đảng tư sản".

Những lời phản đối của bọn men-se-vích nói rằng dù sao chính phủ lâm thời cũng là chính phủ tư sản, rằng không thể cho phép đảng dân chủ xã hội tham dự một chính phủ như thế, nếu người ta không muốn phạm lại sai lầm của Min-lơ-răng đảng viên xã hội Pháp đã tham dự chính phủ tư sản Pháp. Lenin đã bác lời đó bằng cách chỉ rõ họ không có khả năng nghiên cứu vấn đề một cách marxist: ở Pháp vấn đề là những người xã hội tham gia chính phủ tư sản phản động vào thời kỳ ở trong nước không có thế cách mạng, hoàn cảnh này bắt buộc những người xã hội không được tham gia chính phủ ấy; còn ở Nga vấn đề những người xã hội tham gia chính phủ tư sản cách mạng, chính phủ ấy đang đấu tranh cho thắng lợi của cách mạng trong lúc cách mạng đang diễn ra mãnh liệt, hoàn cảnh này làm cho những người dân chủ xã hội có thể tham gia và khi điều kiện thuận tiện, bắt buộc phải tham gia chính phủ ấy, để đánh bọn phản cách mạng không chỉ từ "dưới lên" , từ ngoài vào, mà cả "từ trên xuống" và ngay cả trong lòng chính phủ nữa.

3. Trong đấu tranh cho cách mạng tư sản thắng lợi và để thiết lập chế độ cộng hòa dân chủ, Lenin tuyệt nhiên không nghĩ dừng lại ở giai đoạn dân chủ và giới hạn phong trào cách mạng trong việc hoàn thành những nhiệm vụ dân chủ tư sản. Trái lại, Lenin cho rằng sau khi những nhiệm vụ dân chủ đã hoàn thành, giai cấp vô sản và quần chúng bị bóc lột khác phải bắt đầu đấu tranh cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Lenin biết rõ điều đó và cho rằng đảng dân chủ xã hội có trách nhiệm thực hiện mọi biện pháp để cho cuộc cách mạng dân chủ tư sản tiến triển thành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Theo Lenin, chuyên chính công nông cần thiết không phải để kết thúc cách mạng bằng sự thắng lợi của cách mạng đối với chế độ Nga hoàng, mà là để kéo dài tình trạng cách mạng, phá tan những tàn tích phản cách mạng, làm cho ngọn lửa cách mạng lan ra khắp Châu Âu, và sau khi để cho giai cấp vô sản tranh thủ thời gian đó tự giáo dục về chính trị và tự tổ chức thành một đội quân lớn, bắt đầu chuyển trực tiếp sang cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Đó là những luận điểm sách lược cơ bản đã phát triển trong tác phẩm lịch sử của Lenin: Hai sách lược của đảng dân chủ xã hội trong cuộc cách mạng dân chủ.

Ý nghĩa lịch sử của tác phẩm của Lenin trước hết là ở tác phẩm đó đánh đổ quan niệm sách lược tiểu tư sản của bọn men-se-vích về phương diện tư tưởng, đã vũ trang cho giai cấp công nhân Nga để tiếp tục phát triển hơn nữa cuộc cách mạng dân chủ tư sản để mở cuộc tấn công mới vào chế độ Nga hoàng, đã đem lại cho những người dân chủ xã hội Nga triển vọng sáng sủa về sự cần thiết phải phát triển cuộc cách mạng tư sản thành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Nhưng ý nghĩa quan trọng của tác phẩm vĩ đại đó không phải chỉ có thể. Ý nghĩa không thể đánh giá hết của nó là ở chỗ đã làm cho chủ nghĩa Mác phong phú thêm bằng lý luận mới về cách mạng và đặt cơ sở cho sách lược cách mạng của Đảng Bôn-se-vích, nhờ sách lược ấy mà năm 1917 giai cấp vô sản ở nước Nga đã chiến thắng chủ nghĩa tư bản.

#Gấu