Báo cáo của Đại biểu Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc gửi Đồng chí Stalin, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik)
Báo cáo của Đại biểu Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc gửi Đồng chí Stalin, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik) [1]
(Ngày 4 tháng 7 năm 1949)
Kính gửi Đồng chí Stalin, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik):
Chúng tôi trân trọng trình bày báo cáo sau đây.
I. Tình hình hiện tại của Trung Quốc
Cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân Trung Quốc về cơ bản đã giành được thắng lợi, và sẽ sớm đạt được thắng lợi hoàn toàn.
Tính đến cuối tháng 5 năm 1949, các khu vực trù phú của Trung Quốc đã bị Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc chiếm đóng là 2,9 triệu km², chiếm 30% tổng diện tích cả nước (do Tân Cương, Thanh Hải, Tây Tạng có diện tích lớn), với dân số 275 triệu người, chiếm 57% tổng dân số cả nước. Các thành phố từ cấp huyện trở lên, bao gồm các thành phố lớn nhất như Thượng Hải, Nam Kinh, Bắc Bình, Thiên Tân, Vũ Hán, có 1.043 thành phố, chiếm 51% trong số 2.000 thành phố trên cả nước.
Trong ba năm chiến tranh, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã tiêu diệt 5,59 triệu quân Quốc dân Đảng. Quân Quốc dân Đảng, bao gồm các cơ quan hậu phương, hiện chỉ còn khoảng 1,5 triệu người, trong đó chỉ khoảng 200.000 người có khả năng chiến đấu. Trong khi đó, Quân Giải phóng Nhân dân, theo thống kê cuối cùng, đã phát triển lên 3,9 triệu người, trong đó 2,4 triệu người thuộc bốn quân đoàn dã chiến, số còn lại là các lực lượng địa phương của các quân khu và các binh đoàn trực thuộc Bộ Tổng tham mưu cùng các cơ quan, trường học. Không quân có 7.500 người, Hải quân có 7.700 người.
Quân Giải phóng Nhân dân có thể chiếm đóng các tỉnh Phúc Kiến, Hồ Nam, Giang Tây, Thiểm Tây trong mùa hè và mùa thu năm nay, và có thể chiếm đóng các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên, Tây Khang”[2], Cam Túc, Ninh Hạ, Thanh Hải trong mùa đông. Như vậy về cơ bản sẽ kết thúc cuộc chiến với Quốc dân Đảng. Còn lại Đài Loan, Hải Nam, Tân Cương và Tây Tạng. Trong đó, vấn đề Tây Tạng cần được giải quyết bằng phương thức chính trị chứ không phải chiến tranh. Đài Loan, Hải Nam và Tân Cương phải đợi đến năm sau mới có thể chiếm đóng. Trong đó, Đài Loan có thể chiếm đóng sớm hơn do có sự phối hợp bên trong của quân đội Quốc dân Đảng. Chúng tôi hoàn toàn tán thành việc chiếm đóng Tân Cương càng sớm càng tốt, và khó khăn lớn nhất để chiếm đóng Tân Cương là dọn dẹp và duy trì con đường tiến vào Tân Cương cũng như thiếu phương tiện giao thông cần thiết (từ Cam Túc đến Tân Cương phải đi qua một vùng sa mạc dài không có lương thực và nước uống). Nếu khắc phục được khó khăn này, thời gian chiếm đóng Tân Cương chắc chắn có thể được đẩy nhanh đáng kể.
Ngoài thắng lợi về quân sự, chúng tôi cũng đã giành được thắng lợi hoàn toàn về chính trị. Chủ nghĩa đế quốc Mỹ và Quốc dân Đảng Tưởng Giới Thạch đã rơi vào tình trạng cô lập hoàn toàn. Tất cả các đảng phái dân chủ của Trung Quốc đều đứng về phía chúng tôi. Quần chúng nhân dân sôi nổi đứng lên, hoan nghênh Quân Giải phóng Nhân dân, phản đối chủ nghĩa đế quốc và Quốc dân Đảng.
Chúng tôi cho rằng chiến thắng của cách mạng Trung Quốc đã không còn nghi ngờ gì nữa. Nhưng do điều kiện giao thông và điều kiện tự nhiên của Trung Quốc hạn chế hành động của quân đội chúng tôi, để giành được thắng lợi hoàn toàn vẫn cần thêm một thời gian nữa. Về khả năng can thiệp vũ trang của chủ nghĩa đế quốc vào cách mạng Trung Quốc, chúng tôi luôn đánh giá đầy đủ. Gần đây, chỉ thị của phía Liên Xô về vấn đề này càng khiến chúng tôi chú ý hơn. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với những chỉ thị này. Chúng tôi hiện không lơ là cảnh giác đối với khả năng này. Nhưng xét theo tình hình thế giới hiện nay, việc các đế quốc phái hàng triệu quân can thiệp vũ trang quy mô lớn vào Trung Quốc dường như là không thể, và điều này cũng chỉ có thể trì hoãn thời gian chiến thắng của cách mạng Trung Quốc, chứ không thể dập tắt và ngăn chặn cách mạng Trung Quốc, và sẽ khiến chủ nghĩa đế quốc rơi vào tình thế cực kỳ khó khăn. Tuy nhiên, việc chủ nghĩa đế quốc phái một hoặc hai trăm nghìn quân chiếm đóng ba hoặc bốn hải cảng của Trung Quốc, hoặc thực hiện một cuộc tấn công vũ trang gây rối, vẫn là có thể. Chúng tôi đã chuẩn bị một số điều cho việc này. Vì chúng tôi không có hải quân và không quân, bờ biển không có phòng thủ, kiểu tấn công vũ trang này của chủ nghĩa đế quốc có thể gây ra một số khó khăn và tổn thất cho chúng tôi, nhưng lực lượng quân sự của chúng tôi sẽ không bị tổn thất, và điều này sẽ kích động toàn thể nhân dân Trung Quốc và quân đội của họ đứng lên chống lại chủ nghĩa đế quốc, và trục xuất quân can thiệp này. Chính vì vậy, chúng tôi cho rằng: nếu chúng tôi đối phó đúng đắn, sự can thiệp vũ trang trực tiếp của chủ nghĩa đế quốc có thể không dám thử. Chúng tôi phải chú ý không tạo cớ cho chủ nghĩa đế quốc thực hiện can thiệp vũ trang, đồng thời nhanh chóng quét sạch tàn dư của Quốc dân Đảng – tay sai của chủ nghĩa đế quốc, để tăng thêm khó khăn cho sự can thiệp vũ trang của chủ nghĩa đế quốc.
Chủ nghĩa đế quốc rất có khả năng thực hiện chính sách phong tỏa đối với cách mạng Trung Quốc. Và đã bắt đầu thực hiện. Điều này có thể gây ra một số khó khăn, đặc biệt là trong lĩnh vực hàng hải và ngoại thương. Nhưng điều này không thể ngăn chặn chiến thắng nhanh chóng của cách mạng Trung Quốc.
Chiến thắng của cuộc chiến tranh cách mạng nhân dân Trung Quốc diễn ra sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Sự giúp đỡ của giai cấp vô sản thế giới và các lực lượng dân chủ nhân dân, đặc biệt là Liên Xô, dành cho nhân dân Trung Quốc, là điều kiện quyết định để nhân dân Trung Quốc giành chiến thắng, và Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tận dụng những điều kiện này. Trong cách mạng Trung Quốc, chúng tôi có kinh nghiệm tổ chức thành công mặt trận thống nhất dân tộc chống đế quốc, kinh nghiệm cải cách ruộng đất, kinh nghiệm tiến hành đấu tranh vũ trang lâu dài ở nông thôn, bao vây thành phố, sau đó giành lấy thành phố, và tiến hành công tác bí mật và đấu tranh hợp pháp ở thành phố để phối hợp với đấu tranh vũ trang, cũng như kinh nghiệm xây dựng một Đảng Cộng sản Mác-Lênin ở một quốc gia như Trung Quốc. Những kinh nghiệm này có thể rất hữu ích cho các quốc gia thuộc địa và nửa thuộc địa khác.
II. Hội nghị Hiệp thương Chính trị mới và Chính phủ Trung ương
Chiến tranh cách mạng Trung Quốc đã cơ bản thắng lợi, và sẽ sớm giành được thắng lợi hoàn toàn. Nhiệm vụ trong tương lai là giành thắng lợi trong việc kết thúc chiến tranh trong thời gian ngắn nhất, quét sạch tàn dư của Tưởng Giới Thạch và Quốc dân Đảng, đồng thời khôi phục và phát triển kinh tế nhân dân càng nhanh càng tốt, quản lý và xây dựng đất nước.
Chúng tôi quyết định triệu tập Hội nghị Hiệp thương Chính trị mới[3] vào tháng 8 năm nay, và thành lập Chính phủ liên hiệp. Hiện đang tích cực chuẩn bị các công việc khác nhau.
Hội nghị Hiệp thương Chính trị mới không do một mình Đảng Cộng sản hay một vài đảng nhỏ phát động và triệu tập, mà do tất cả 23 đơn vị bao gồm các đảng phái dân chủ, các đoàn thể nhân dân, các dân tộc thiểu số và Hoa kiều hải ngoại của Trung Quốc cùng nhau chuẩn bị và triệu tập. Hình thức này khiến những người ngoài Đảng rất hài lòng.
Hiện nay, Ủy ban trù bị Chính Hiệp đã được thành lập, gồm 134 ủy viên trù bị, trong đó có 43 đảng viên, 48 người tiến bộ khẳng định đi theo chúng ta, 43 người trung gian, trong đó chỉ có 16 người trung gian thiên hữu, trong số những người tiến bộ có 15 đảng viên bí mật. Đảng Cộng sản có thể đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối đối với Ủy ban trù bị Chính Hiệp. Trong Ủy ban trù bị sẽ tổ chức một Ủy ban Thường vụ riêng, gồm 21 ủy viên, cũng có thể đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng chúng ta.
Ủy ban trù bị đã quyết định có 14 đảng phái sẽ tham gia Hội nghị Chính Hiệp mới, với 142 đại biểu. Đại biểu khu vực là 102 người, đại biểu quân đội 60 người, đại biểu đoàn thể nhân dân, dân tộc thiểu số và Hoa kiều hải ngoại 206 người, tổng cộng 45 đơn vị, 510 đại biểu. Trong số các đại biểu, đảng viên sẽ chiếm đa số.
Chúng tôi cho rằng Hội nghị Hiệp thương Chính trị của Trung Quốc là hình thức tổ chức mới tiện lợi, quen thuộc với quần chúng của mặt trận thống nhất dân tộc cách mạng Trung Quốc, chuẩn bị để nó trở thành tổ chức thường xuyên, và ở những nơi cần thiết sẽ thành lập các Hội nghị Hiệp thương Chính trị địa phương.
Hội nghị Chính Hiệp chuẩn bị thông qua cương lĩnh chung được các đảng phái và đoàn thể tuân thủ, bầu ra chính phủ trung ương, công bố tuyên ngôn và quy định quốc kỳ, quốc huy, quốc ca mới, v.v.
Thành phần tổ chức của chính phủ trung ương mới vẫn chưa được quyết định. Trong chính phủ mới, ngoài Ủy ban Quân sự, dưới nội các sẽ thành lập Ủy ban Tài chính Kinh tế, Ủy ban Văn hóa Giáo dục và Ủy ban Chính pháp (quản lý công an, nội vụ, tư pháp, v.v.), và thành lập các bộ. Trong các bộ, chuẩn bị thành lập các bộ như Đường sắt, Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Thương mại, Kim loại, Dệt may, Nhiên liệu, Giao thông, Bưu điện, Công nghiệp, v.v. Chính phủ trung ương chuẩn bị do Đồng chí Mao Trạch Đông làm Chủ tịch, Đồng chí Chu Ân Lai làm Thủ tướng Nội các, Lưu Thiếu Kỳ và Nhậm Bích Thời[4] sẽ không tham gia chính phủ.
Về bản chất nhà nước dân chủ mới của Trung Quốc và bản chất chính quyền, chúng tôi hiểu như sau: Nó là một nhà nước chuyên chính dân chủ nhân dân do giai cấp vô sản lãnh đạo, lấy liên minh công nông làm cơ sở. Nó chuyên chính đối với chủ nghĩa đế quốc, thế lực phong kiến và thế lực tư bản quan liêu. Giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo của chuyên chính này, liên minh công nhân, nông dân và trí thức cách mạng là lực lượng cơ sở của chuyên chính này, đồng thời, đoàn kết càng nhiều tiểu tư sản và tư sản tự do có thể hợp tác với chúng ta cùng các đại diện và các phe phái chính trị của họ tham gia chuyên chính này. Đây là thành phần cấu thành của chuyên chính này. Chuyên chính dân chủ nhân dân không phải là chuyên chính tư sản, cũng không phải là chuyên chính vô sản, điều này không cần giải thích. Chuyên chính dân chủ nhân dân của Trung Quốc có điểm chung với "chuyên chính dân chủ công nông" mà Lênin đề ra trong cách mạng 1905-1907, nhưng cũng có điểm khác biệt. Giai cấp vô sản lãnh đạo, liên minh công nông làm cơ sở, đây là điểm chung. Nhưng chuyên chính dân chủ nhân dân Trung Quốc bao gồm cả đại diện và phe phái của giai cấp tư sản tự do sẵn sàng chống lại chủ nghĩa đế quốc, phong kiến và tư bản quan liêu, đây là điểm khác biệt. Điều này là do Trung Quốc là một quốc gia bán thuộc địa, chúng ta cần tập trung lực lượng để đối phó với chủ nghĩa đế quốc và tay sai của nó trong cách mạng và một thời gian khá dài sau cách mạng, cũng như do đặc điểm của giai cấp tư sản dân tộc Trung Quốc. Như Stalin đã nói trong bài diễn văn tại Ủy ban Trung Quốc của Quốc tế Cộng sản năm 1926, chính quyền cách mạng tương lai của Trung Quốc "đặc biệt là chính quyền chống đế quốc"[5]. Hình thức của chuyên chính dân chủ nhân dân Trung Quốc là chế độ hội nghị đại biểu nhân dân, đây không phải là chế độ nghị viện kiểu tư sản, mà gần với chế độ Xô viết, nhưng cũng có sự khác biệt với chế độ Xô viết của chuyên chính vô sản, vì đại biểu của giai cấp tư sản dân tộc cũng tham gia hội nghị đại biểu nhân dân. Chuyên chính dân chủ nhân dân Trung Quốc có mâu thuẫn bên ngoài và mâu thuẫn nội bộ, có đấu tranh bên ngoài và đấu tranh nội bộ. Cái gọi là mâu thuẫn bên ngoài và đấu tranh bên ngoài, tức là mâu thuẫn và đấu tranh với chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa phong kiến, chủ nghĩa tư bản quan liêu và tàn dư của Quốc dân Đảng. Điều này vẫn sẽ tồn tại trong một thời gian khá dài sau khi lật đổ chính quyền Quốc dân Đảng, và vẫn là mâu thuẫn và đấu tranh chính. Cái gọi là mâu thuẫn nội bộ và đấu tranh nội bộ, tức là mâu thuẫn và đấu tranh giữa các giai cấp và các đảng phái trong nội bộ chuyên chính dân chủ nhân dân. Điều này sẽ dần dần tăng cường trong tương lai, nhưng so với mâu thuẫn bên ngoài, trong một thời gian khá dài, nó vẫn sẽ ở vị trí thứ yếu, phục tùng.
Có người nói: "Sau khi lật đổ chính quyền Quốc dân Đảng, hoặc sau khi thực hiện cải cách ruộng đất, mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản Trung Quốc sẽ ngay lập tức trở thành mâu thuẫn chính, đấu tranh giữa công nhân và tư bản sẽ ngay lập tức trở thành đấu tranh chính." Chúng tôi cho rằng cách nói này là không đúng; vì một chính quyền nếu tập trung hỏa lực chính vào việc chống lại giai cấp tư sản, thì đó là hoặc bắt đầu biến thành chuyên chính vô sản. Điều này sẽ đẩy giai cấp tư sản dân tộc hiện vẫn có thể hợp tác với chúng ta sang phía chủ nghĩa đế quốc. Điều này, nếu thực hiện ở Trung Quốc hiện nay, sẽ là một chính sách phiêu lưu mạo hiểm nguy hiểm. Vào tháng 2 năm nay, khi Đồng chí Andrei[6] nói chuyện với Đồng chí Mao Trạch Đông, đã đồng ý với chính sách lôi kéo giai cấp tư sản dân tộc của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Sau đó, phía Liên Xô cũng có chỉ thị yêu cầu chúng tôi thu hút giai cấp tư sản dân tộc về phía chúng tôi. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với những chỉ thị này.
Sau khi lật đổ chính quyền Quốc dân Đảng, mâu thuẫn giữa lao động và tư bản là khách quan tồn tại, và sẽ dần dần tăng cường. Do đó, giai cấp công nhân cần tiến hành đấu tranh cần thiết và thích hợp với giai cấp tư sản để bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và chuyên chính dân chủ nhân dân; nhưng đồng thời, cũng cần thực hiện thỏa hiệp và liên minh cần thiết và thích hợp với giai cấp tư sản dân tộc, để tập trung lực lượng đối phó với kẻ thù bên ngoài và khắc phục hiện tượng lạc hậu của Trung Quốc. Ở Trung Quốc, từ bây giờ cho đến khi thực hiện quốc hữu hóa tư bản dân tộc nói chung, vẫn cần trải qua nhiều bước, cần một khoảng thời gian khá dài. Khoảng thời gian này cần bao lâu? Điều này tùy thuộc vào các điều kiện quốc tế và trong nước, chúng tôi ước tính có thể cần mười đến mười lăm năm.
Chuyên chính dân chủ nhân dân của Trung Quốc sẽ thực hiện thống nhất Trung Quốc, đây là một bước tiến vĩ đại của Trung Quốc, được thực hiện dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản. Nhưng do Trung Quốc lạc hậu, giao thông không thuận tiện, các phạm vi ảnh hưởng của chủ nghĩa đế quốc và sự cát cứ của các thế lực phong kiến trong quá khứ, hệ thống kinh tế thống nhất trên toàn quốc vẫn chưa hình thành, nên hiện tại vẫn phải trao cho chính quyền địa phương quyền tự trị lớn hơn, để phát huy tính tích cực của địa phương. Hiện tại, chúng tôi cho rằng việc thực hiện chế độ tập quyền quá mức là không đúng đắn và có hại.
Những quan điểm trên của chúng tôi có đúng đắn không? Kính mong được chỉ thị của Đồng chí Stalin và Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô.
Phần lớn các nhà lãnh đạo của các đảng phái dân chủ Trung Quốc đã đến Bắc Bình. Trung Quốc có khoảng mười đảng phái dân chủ, tất cả đều là các nhóm nhỏ tham gia hoạt động chính trị, tổng số đảng viên chưa đến ba vạn người, trong đó Đồng minh Dân chủ có hai vạn người, có ảnh hưởng tương đối trong một bộ phận trí thức. Họ đều không hoạt động trong quần chúng công nhân và nông dân. Tổ chức của họ lỏng lẻo, nội bộ cực kỳ thiếu đoàn kết. Ví dụ, tất cả các đảng phái đều không thể đưa ra danh sách đại biểu tham gia Hội nghị Hiệp thương Chính trị của riêng mình, vì họ cãi vã nội bộ. Danh sách đại biểu của họ đều phải do Đảng Cộng sản đưa ra ý kiến mới có thể được đề xuất. Nhưng mỗi đảng phái dân chủ đều có một vài nhà lãnh đạo, những người này do tiến hành các hoạt động chính trị lâu dài ở Trung Quốc, có một số ảnh hưởng trong nhân dân. Tổ chức đảng của họ dựa vào những nhà lãnh đạo này để duy trì. Trong mỗi đảng phái đều có ba loại phần tử: tả, trung, hữu. Tàn dư của Quốc dân Đảng và tay sai của chủ nghĩa đế quốc đều cố gắng chui vào các đảng phái dân chủ này để tranh giành địa vị hợp pháp của họ. Chúng tôi đã cảnh báo nghiêm trọng các đảng phái này. Tất cả các đảng phái đều hoàn toàn thống nhất trong việc chống lại Tưởng Giới Thạch và Quốc dân Đảng. Trong việc chống lại chủ nghĩa đế quốc cũng thống nhất. Nhưng một số ít người cho đến gần đây vẫn có một số liên hệ với các phần tử đế quốc, và mới cắt đứt liên hệ này gần đây. Về vấn đề cải cách ruộng đất, một số người chỉ miễn cưỡng đồng ý với Đảng Cộng sản. Về vấn đề Liên Xô, một số ít người vẫn đưa ra một số ý kiến dân tộc chủ nghĩa.
Tất cả các đảng phái dân chủ, trong các hoạt động chính trị công khai, đều có thể chấp nhận cương lĩnh chung do Đảng Cộng sản đề ra. Họ đều công khai tuyên bố ủng hộ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ở Trung Quốc, ngoài tay sai của chủ nghĩa đế quốc là Tưởng Giới Thạch và Quốc dân Đảng, vẫn chưa hình thành cuối cùng một chính đảng của giai cấp tư sản dân tộc, không có loại chính đảng tư sản ngoan cố như các nước châu Âu.
Trong đời sống chính trị thực tế của Trung Quốc, những tổ chức nhân dân tham gia Hội nghị Hiệp thương Chính trị có vai trò tương đối quan trọng. Một số tổ chức này đã có số lượng hội viên đông đảo, và đang phát triển hội viên nhanh chóng. Họ đã đóng vai trò quan trọng trong các cuộc đấu tranh chống Mỹ-Tưởng trong quá khứ, và trong tương lai sẽ có thể đóng vai trò quan trọng hơn. Họ đều có thể chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, hoặc nằm dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản. Ngoài Tổng Công đoàn toàn quốc đã được thành lập từ lâu, gần đây còn triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc phụ nữ, học sinh, thanh niên, và thành lập Liên hiệp Phụ nữ Dân chủ toàn quốc, Đoàn Thanh niên Dân chủ Mới và Tổng Hội Sinh viên toàn quốc. Vì thanh niên Trung Quốc trước đây đã có nhiều tổ chức, để thống nhất các tổ chức này, còn thành lập Liên hiệp Thanh niên toàn quốc và các địa phương, tạm thời làm tổ chức thống nhất phong trào thanh niên.
Công đoàn và các tổ chức phụ nữ của Quốc dân Đảng, cùng với Đoàn Thanh niên Tam Dân Chủ Nghĩa, sau thất bại của Quốc dân Đảng, đã ở vào vị thế bất hợp pháp, nhanh chóng tan rã, các phần tử lãnh đạo của họ đã bỏ trốn hoặc tiêu cực, trong đó các phần tử tốt hơn đã gần gũi chúng ta trước khi Quốc dân Đảng thất bại. Hội Lao động Trung Quốc do Chu Học Phạm[7] lãnh đạo, có một số quần chúng, đã hợp nhất với Tổng Công đoàn toàn quốc.
Đại hội đại biểu toàn quốc của cán bộ văn hóa giáo dục và cán bộ khoa học sẽ sớm được triệu tập tại Bắc Bình, và sẽ thành lập các tổ chức toàn quốc của họ. Họ có thể chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Tháng 2 năm nay, Đồng chí Andrei đã đề xuất ở Trung Quốc cần chú ý tổ chức công tác công nhân, viên chức, thanh niên và phụ nữ. Chúng tôi đồng ý với những ý kiến này. Hiện nay, những công việc này đã được triển khai ở tất cả các thành phố. Nhưng do những công việc này đã bị gián đoạn trong một thời gian dài, ngày nay vẫn cần đào tạo lại cán bộ cho những công việc này (hiện tại mỗi đoàn thể đều có hàng trăm đến hàng nghìn học viên tại các trường đào tạo cán bộ), nên những công việc này tạm thời vẫn chưa thể tiến hành nhanh chóng. Chúng tôi hy vọng có thể có một vài đồng chí Liên Xô có kinh nghiệm đến Trung Quốc giúp đỡ những công việc này.
III. Vấn đề ngoại giao
Gần đây, phía Liên Xô đã chỉ thị cho chúng tôi về các vấn đề ngoại giao và thương mại đối ngoại, vay mượn, v.v., chúng tôi hoàn toàn đồng ý.
Chủ nghĩa đế quốc đã dốc toàn lực giúp đỡ Quốc dân Đảng, chống lại cách mạng Trung Quốc, sau khi thất bại, hiện nay chủ nghĩa đế quốc đang tiếp tục chống lại cách mạng Trung Quốc bằng các phương pháp sau: (1) Tiếp tục viện trợ cho Quốc dân Đảng và các lực lượng có thể khác chống lại cách mạng Trung Quốc; (2) Dùng mọi cách chui vào nội bộ phe cách mạng để phân hóa và phá hoại cách mạng Trung Quốc; (3) Dùng mọi cách kích động mối quan hệ giữa cách mạng Trung Quốc với Liên Xô và phong trào cộng sản thế giới; (4) Dùng nhiều cách tiếp cận Đảng Cộng sản Trung Quốc, mưu đồ lôi kéo Đảng Cộng sản Trung Quốc gần gũi với các nước đế quốc.
Đối với những âm mưu này của chủ nghĩa đế quốc, chúng tôi đã nhìn rõ và đã có kinh nghiệm, tuyệt đối không để âm mưu của chủ nghĩa đế quốc đạt được. Về vấn đề này, chúng tôi đã cảnh báo các đảng phái dân chủ và kêu gọi nhân dân nâng cao cảnh giác.
Tất cả quyền kiểm soát của chủ nghĩa đế quốc ở Trung Quốc, bất kể là kiểm soát quân sự, chính trị, kinh tế hay văn hóa, cách mạng Trung Quốc đều phải phá hủy triệt để. Phương châm này đã được ghi vào quyết định của Hội nghị Trung ương II của chúng tôi[8]. Đây là điều kiên định không thay đổi. Hiện nay, ở những nơi quân đội chúng tôi đến, quyền kiểm soát quân sự và chính trị của chủ nghĩa đế quốc đã bị phá hủy cùng với sự sụp đổ của Quốc dân Đảng, quyền kiểm soát kinh tế và văn hóa của chúng cũng đã bị suy yếu đáng kể. Tuy nhiên, các hoạt động kinh tế và văn hóa do các đế quốc trực tiếp điều hành vẫn còn tồn tại. Nhân viên ngoại giao và phóng viên của họ vẫn còn tồn tại. Về những vấn đề này, nên áp dụng những bước và phương pháp nào để xử lý? Đây là điều đáng suy nghĩ.
Chúng tôi cho rằng các hoạt động ngoại giao trong tương lai của chúng tôi nên được tiến hành dựa trên các nguyên tắc sau: (1) Đấu tranh với các nước đế quốc để thực hiện độc lập hoàn toàn của dân tộc Trung Quốc; (2) Trong các vấn đề quốc tế, đứng cùng Liên Xô và các nước dân chủ mới để chống lại nguy cơ chiến tranh mới, bảo vệ hòa bình và dân chủ thế giới; (3) Tận dụng mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa; (4) Phát triển thương mại giữa Trung Quốc và nước ngoài trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi, đặc biệt là phát triển thương mại với Liên Xô và các nước dân chủ mới.
Tình hình đầu tư của các nước đế quốc tại Trung Quốc chưa được điều tra. Theo điều tra của Nhật Bản năm 1936, tổng số vốn đầu tư của sáu nước Anh, Mỹ, Pháp, Đức, Ý, Bỉ tại Trung Quốc là 1,828 tỷ USD: trong đó Anh chiếm hơn 1 tỷ, Mỹ chiếm 220 triệu, Đức và Ý chiếm hơn 210 triệu. Các khoản vay đường sắt và vay chính trị chiếm hơn 500 triệu, đầu tư tài chính của các ngân hàng nước ngoài tại Trung Quốc hơn 450 triệu, đầu tư thương mại xuất nhập khẩu hơn 380 triệu, đầu tư vào công nghiệp và khai thác mỏ chỉ hơn 360 triệu. Nhưng sau Chiến tranh chống Nhật, các khoản đầu tư của Nhật Bản, Đức và Ý tại Trung Quốc đều bị tịch thu, các khoản đầu tư của Anh, Pháp, Bỉ tại Trung Quốc bị tổn thất một số, Mỹ cũng không tăng đầu tư nhiều. Hiện nay, các hoạt động kinh tế của các nước tại Trung Quốc là: ngành ngân hàng bảo hiểm, ngành thương mại xuất nhập khẩu, tàu biển và bến cảng, kho bãi. Ngoài ra, có mỏ than Khai Loan (sản lượng hàng năm 4 triệu tấn) với một nửa vốn của Anh, các nhà máy thuốc lá của Anh ở Thượng Hải và Thiên Tân, và Công ty điện lực Mỹ ở Thượng Hải cùng một số ngành công nghiệp đô thị khác, chiếm vị trí quan trọng hơn, các ngành khác đều không quan trọng. Các ngành công nghiệp và khai thác mỏ do chủ nghĩa đế quốc trực tiếp điều hành tại Trung Quốc đã không còn vị trí rất quan trọng. Hiện tại, đối với các hoạt động kinh tế của chủ nghĩa đế quốc tại Trung Quốc, ngoài việc hạn chế cần thiết ở một số mặt, nhìn chung vẫn cho phép tiếp tục hoạt động, nhưng một số đế quốc đã rút vốn hoạt động ra nước ngoài, hoặc có thái độ chờ đợi thụ động. Vào thời điểm nào và bằng phương pháp nào để xử lý các khoản đầu tư của chủ nghĩa đế quốc tại Trung Quốc trong tương lai? Tịch thu? Hay áp dụng các phương pháp khác? Về vấn đề này, chúng tôi vẫn chưa quyết định. Hiện tại, chúng tôi đang bận rộn với chiến tranh và các công việc khác, tạm thời chưa kịp xử lý vấn đề này. Nhưng cần có một số chuẩn bị để xử lý vấn đề này.
Các hoạt động tuyên truyền văn hóa của các nước đế quốc tại Trung Quốc, ngoài báo chí, tạp chí và hãng thông tấn của họ ở Trung Quốc, theo tài liệu điều tra cũ, riêng hai nước Anh và Mỹ đã thành lập 31 trường chuyên nghiệp và đại học, 32 trường thần học, 29 thư viện, 26 đoàn thể văn hóa, 324 trường trung học, 2364 trường tiểu học, 3729 nhà thờ, 93 đoàn thể tôn giáo, 147 bệnh viện, 53 tổ chức từ thiện. Đối với các báo chí, tạp chí, hãng thông tấn và phóng viên nước ngoài gốc, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã quyết định ngừng hoạt động và xuất bản của họ, các địa phương đều đã thực hiện. Tuy nhiên, đến Thượng Hải, vì chủ nghĩa đế quốc nắm giữ một số mạch máu kinh tế của Thượng Hải, Trung ương đã chấp thuận đề xuất của các đồng chí Thượng Hải, tạm hoãn thực hiện quyết định này, nhưng sau này vẫn chuẩn bị thực hiện. Đối với các trường học và bệnh viện do các nước đế quốc thành lập ở Trung Quốc, tạm thời cho phép họ tiếp tục hoạt động theo luật pháp của chúng ta, nhưng không được thành lập mới. Khi nhà nước có đủ khả năng tiếp quản các trường học và bệnh viện này trong tương lai, sẽ tiến hành tiếp quản. Đối với các tổ chức tôn giáo, một mặt, cho phép họ tiếp tục hoạt động theo luật pháp của chúng ta, mặt khác, tiến hành một số tuyên truyền chống tôn giáo. Đối với đất đai nhà thờ, sẽ tịch thu và phân phối dưới sự đồng ý của giáo dân. Đất đai của các tổ chức và đoàn thể nước ngoài khác cũng sẽ bị tịch thu và phân phối.
Đối với nhân viên ngoại giao của các nước ở Trung Quốc, chúng tôi không công nhận mà chỉ đối xử như kiều dân. Kết quả của việc thực hiện này đã khiến nhân dân cảm thấy Trung Quốc đã đứng lên, Đảng Cộng sản Trung Quốc không sợ chủ nghĩa đế quốc, giúp chúng ta tránh được nhiều rắc rối, khiến các đảng phái dân chủ không dám tiếp xúc với nhân viên ngoại giao của chủ nghĩa đế quốc, thậm chí người dân bình thường cũng không dám tiếp xúc với người nước ngoài của các nước đế quốc. Nhân viên ngoại giao của các nước đế quốc thì khắp nơi cầu xin và tìm cách đạt được sự công nhận thực tế của chúng tôi. Đây là điều chưa từng dám làm và chưa từng làm trong lịch sử Trung Quốc. Nhưng làm như vậy, kiều dân các nước cảm thấy bất tiện, nhiều người yêu cầu xuất cảnh, đồng thời, bản thân chúng tôi cũng có một số bất tiện.
Kiều dân các nước ở các khu vực đã được giải phóng của Trung Quốc khoảng 120.000 người, trong đó Thượng Hải có hơn 65.000 người, Đông Bắc có 54.000 người. Ở Đông Bắc, kiều dân nước ngoài chủ yếu là người Liên Xô, tiếp theo là người Nhật Bản.
Sau khi chính phủ trung ương mới được thành lập, sẽ nảy sinh vấn đề thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với các nước, vấn đề tham gia Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế khác cùng các hội nghị quốc tế. Các nước đế quốc có thể sẽ có một thời gian không quan tâm đến chúng ta, hoặc đưa ra một số điều kiện ràng buộc chúng ta để đổi lấy sự công nhận. Trong trường hợp đó, chúng ta nên áp dụng chính sách nào? Các điều kiện ràng buộc chúng ta, tất nhiên chúng ta không thể chấp nhận. Nhưng chúng ta có nên áp dụng các biện pháp tích cực để giành được sự công nhận của các nước này, để chúng ta có thể có được địa vị hợp pháp để tiến hành các hoạt động quốc tế? Hay đợi một chút, không vội vàng giành được sự công nhận của các nước này, để dọn dẹp nội bộ, tránh rắc rối? Sau khi chính phủ mới của Trung Quốc được thành lập, liệu Liên Xô và các nước dân chủ mới ở Đông Âu có thể nhanh chóng công nhận chính phủ mới của Trung Quốc, ngay cả khi các nước đế quốc áp dụng chính sách không quan tâm đến chúng ta.
Nếu các nước đế quốc áp dụng chính sách công nhận chính phủ mới của Trung Quốc, thì chúng ta phải chuẩn bị thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước này. Khi đó, chúng tôi hy vọng Liên Xô có thể công nhận chúng tôi trước các nước này.
Đối với các hiệp ước và thỏa thuận khác nhau mà Quốc dân Đảng đã ký với nước ngoài, chúng tôi chuẩn bị xem xét lại và xử lý riêng. Nguyên tắc là: những gì có lợi cho nhân dân Trung Quốc và hòa bình dân chủ thế giới, chúng tôi đều chuẩn bị công nhận và kế thừa, ví dụ: Hiến chương Liên Hợp Quốc[9], Tuyên bố Cairo[10], Hiệp ước Hữu nghị và Liên minh Xô-Trung[11], v.v. Những gì bất lợi cho nhân dân Trung Quốc và hòa bình dân chủ thế giới, chúng tôi đều chuẩn bị bãi bỏ. Ví dụ: Hiệp ước Thương mại và Hàng hải Xô-Mỹ[12], v.v. Một số khác, thì chuẩn bị sửa đổi rồi công nhận.
Sau khi các nước công nhận Tân Trung Quốc, chúng tôi chuẩn bị tham gia Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế khác, đặc biệt là các tổ chức quốc tế liên quan đến Nhật Bản. Trong chính sách hoạt động quốc tế, chúng tôi nhất định phải nhất quán với Liên Xô. Về điểm này, chúng tôi đã giải thích một số điều cho các đảng phái dân chủ. Một số người ngoài đảng từng phê phán chính sách của chúng tôi là "ngả về một phía" sang Liên Xô. Đồng chí Mao Trạch Đông đã trả lời họ rằng: Chính sách của chúng ta chính là "ngả về một phía" sang Liên Xô. Nếu không cùng với Liên Xô, đứng về phe chống đế quốc, mà lại mưu toan đi theo con đường trung lập, đó là sai lầm. Sau những giải thích này, các đảng phái dân chủ đã cùng với Đảng Cộng sản Trung Quốc công bố tuyên bố chung chống lại Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương[13].
Về các vấn đề ngoại giao nêu trên, chúng tôi hy vọng nhận được chỉ thị của Đồng chí Stalin và Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô.
IV. Vấn đề quan hệ Xô-Trung
Tình hữu nghị vững chắc giữa hai dân tộc Xô-Trung có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với cả hai nước và đối với thế giới, đặc biệt có ý nghĩa quyết định đối với độc lập và xây dựng của Trung Quốc. Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc hoàn toàn hiểu rõ tầm quan trọng này. Đảng Cộng sản Trung Quốc nhất định sẽ nỗ lực không ngừng để tăng cường và củng cố tình hữu nghị giữa hai dân tộc vĩ đại.
Hiệp ước Hữu nghị và Liên minh Xô-Trung trong quá khứ đã mang lại sự giúp đỡ to lớn cho nhân dân Trung Quốc. Trong tương lai, chính phủ mới của Trung Quốc kế thừa hiệp ước này, sẽ có đóng góp vĩ đại hơn nữa cho nhân dân hai nước Xô-Trung, đặc biệt là nhân dân Trung Quốc. Chúng tôi hoàn toàn sẵn lòng kế thừa hiệp ước này.
Khi Liên Xô và Tân Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao, hiệp ước này sẽ cần được xử lý. Cách thức xử lý có lẽ không ngoài ba cách sau: (1) Chính phủ Trung Quốc mới tuyên bố hoàn toàn công nhận hiệp ước này tiếp tục có hiệu lực, không sửa đổi gì. (2) Dựa trên tinh thần của hiệp ước gốc, đại diện chính phủ hai nước ký kết lại một hiệp ước hữu nghị và liên minh Xô-Trung mới, để có thể bổ sung hoặc giảm bớt về mặt từ ngữ và nội dung tùy theo tình hình mới. (3) Đại diện chính phủ hai nước trao đổi văn bản, tạm thời duy trì hiện trạng của hiệp ước này, nhưng chuẩn bị ký kết lại vào thời điểm thích hợp. Trong ba cách này, nên chọn cách nào là tốt nhất?
Trong các đảng phái dân chủ, sinh viên và công nhân, có người đã nêu vấn đề Liên Xô đóng quân ở Lữ Thuận, độc lập của Mông Cổ và Liên Xô vận chuyển máy móc ở Đông Bắc. Chúng tôi đã giải thích với những người này rằng: khi chúng ta còn chưa thể tự bảo vệ bờ biển của mình, nếu không tán thành việc Liên Xô đóng quân ở Lữ Thuận, đó là giúp đỡ chủ nghĩa đế quốc. Về vấn đề Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ, chúng tôi nói: Nhân dân Mông Cổ yêu cầu độc lập, dựa trên nguyên tắc dân tộc tự quyết, chúng ta nên công nhận độc lập của Mông Cổ, nhưng nếu Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ muốn liên kết với Trung Quốc, chúng ta tự nhiên hoan nghênh. Chỉ có nhân dân Mông Cổ mới có quyền quyết định vấn đề này.[14] Về vấn đề Liên Xô vận chuyển máy móc, chúng tôi nói: Những máy móc này là của người Nhật, Liên Xô vận chuyển những thứ này đi như chiến lợi phẩm để xây dựng chủ nghĩa xã hội, tránh rơi vào tay bọn phản động để chống lại nhân dân Trung Quốc, điều đó hoàn toàn đúng đắn. Những lời giải thích trên không biết có đúng không?
Về các vấn đề liên quan đến thông tin liên lạc (bưu chính, điện tín), giao thông đường bộ, và hàng không giữa Liên Xô và Trung Quốc, chúng tôi hy vọng có thể xử lý nhanh chóng, và sẵn lòng hợp tác với Liên Xô để thành lập một hãng hàng không chung. Những việc này nên tiến hành như thế nào?
Về việc thiết lập quan hệ và thương mại với các nước dân chủ mới ở Đông Âu, nên tiến hành như thế nào?
Chúng tôi đã sống lâu trong môi trường chiến tranh du kích ở nông thôn, biết rất ít về các vấn đề bên ngoài. Hiện tại, chúng tôi phải quản lý một quốc gia lớn như vậy, tiến hành xây dựng kinh tế và các hoạt động ngoại giao. Chúng tôi vẫn cần học hỏi rất nhiều điều. Về mặt này, chỉ thị và sự giúp đỡ mà Liên Xô dành cho chúng tôi là vô cùng quan trọng. Chúng tôi khẩn thiết cần những chỉ thị và sự giúp đỡ này. Ngoài việc Liên Xô cử chuyên gia đến Trung Quốc giúp đỡ chúng tôi, chúng tôi còn hy vọng cử một số giáo sư đến Trung Quốc giảng dạy, và Trung Quốc cử một số đoàn tham quan đến Liên Xô tham quan và học hỏi, cử một số sinh viên đến Liên Xô học tập.
Về vấn đề quan hệ giữa Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đồng chí Mao Trạch Đông và Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc hiểu như sau: tức là Đảng Cộng sản Liên Xô là Bộ Tổng tham mưu của phong trào cộng sản thế giới, còn Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ là Bộ Tư lệnh của một mặt trận. Dựa trên lợi ích cục bộ phục tùng lợi ích thế giới, Đảng Cộng sản Trung Quốc chúng tôi phục tùng quyết định của Đảng Cộng sản Liên Xô, ngay cả khi không còn tổ chức Quốc tế Cộng sản[15], Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng không tham gia Cục Thông tin các Đảng Cộng sản châu Âu[16]. Trong một số vấn đề, nếu Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Liên Xô xảy ra tranh cãi, sau khi Đảng Cộng sản Trung Quốc trình bày ý kiến của mình, chúng tôi sẵn sàng phục tùng và kiên quyết thực hiện quyết định của Đảng Cộng sản Liên Xô.[17] Chúng tôi cho rằng cần tăng cường mối liên hệ qua lại giữa hai đảng, cử các đại diện chính trị có trách nhiệm thích hợp để xử lý các vấn đề liên quan đến hai đảng và tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai đảng.
Đồng chí Mao Trạch Đông hy vọng có thể đến thăm Moscow, nhưng hiện tại ông không thể bí mật đến Moscow, chỉ có thể đợi đến khi Liên Xô và Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao thì mới có thể công khai đến thăm. Thời điểm và cách thức ông đến Moscow, hy vọng sẽ được xem xét.
Kính xin chỉ thị về các vấn đề nêu trên.
Về khoản vay 300 triệu USD mà Liên Xô dành cho Trung Quốc, chúng tôi hoàn toàn đồng ý với các điều kiện mà Đồng chí Stalin đã đưa ra[18], và cảm ơn Liên Xô đã giúp đỡ Trung Quốc.
Hy vọng Đồng chí Stalin và Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô có thể thường xuyên, không khách khí chỉ thị và phê bình công tác và chính sách của Đảng Cộng sản Trung Quốc.[19]
Lưu Thiếu Kỳ
Trưởng đoàn đại biểu Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc
Ngày 4 tháng 7 năm 1949
[1] Từ cuối tháng 6 đến giữa tháng 8 năm 1949, Lưu Thiếu Kỳ dẫn đầu phái đoàn Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc bí mật thăm Liên Xô, giới thiệu tình hình cách mạng Trung Quốc cho Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik) và Stalin, tìm kiếm sự ủng hộ và giúp đỡ về chính trị, kinh tế và đạo đức của Liên Xô và cộng đồng quốc tế đối với nước Trung Quốc mới sắp thành lập; đồng thời, chuẩn bị cho chuyến thăm Liên Xô của Mao Trạch Đông. Bài này là báo cáo bằng văn bản được đệ trình lên Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik) và Stalin sau cuộc hội đàm sơ bộ giữa phái đoàn Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik) do Stalin đứng đầu.
[2] Tây Khang, tên tỉnh cũ, bao gồm khu vực phía tây tỉnh Tứ Xuyên ngày nay và phía đông khu tự trị Tây Tạng, đã bị bãi bỏ vào năm 1955.
[3] Hội nghị toàn thể lần thứ nhất Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc được tổ chức tại Bắc Bình từ ngày 21 đến ngày 30 tháng 9 năm 1949.
[4] Nhậm Bích Thời, lúc bấy giờ là Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Bí thư Ban Bí thư Trung ương Đảng.
[5] Xem bài diễn văn của Stalin "Về tương lai của Cách mạng Trung Quốc" tại cuộc họp của Ủy ban Trung Quốc của Quốc tế Cộng sản vào ngày 30 tháng 11 năm 1926. Nguyên văn: "Tôi cho rằng chính quyền cách mạng tương lai của Trung Quốc, về bản chất, sẽ gần giống như chính quyền mà chúng ta đã nói đến vào năm 1905, tức là một chính quyền kiểu chuyên chính dân chủ của giai cấp vô sản và nông dân, tuy nhiên, điểm khác biệt là đây chủ yếu sẽ là một chính quyền chống đế quốc." (Tuyển tập Stalin, tập thượng, Nhà xuất bản Nhân dân, 1979, tr. 489).
[6] Andrei, là bút danh của A. I. Mikoyan, lúc bấy giờ là Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik). Từ ngày 31 tháng 1 đến ngày 7 tháng 2 năm 1949, Mikoyan được Stalin cử đến Tây Bá Pha, huyện Bình Sơn, tỉnh Hà Bắc, nơi đặt trụ sở của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, để tìm hiểu tình hình cách mạng Trung Quốc. Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức, Chu Ân Lai, Nhậm Bích Thời và các nhà lãnh đạo Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khác đã tiến hành nhiều cuộc hội đàm với ông.
[7] Chu Học Phạm, từng là Chủ tịch Hội Lao động Trung Quốc, lúc bấy giờ là Phó Chủ tịch Tổng Công đoàn toàn quốc Trung Quốc.
[8] Nghị quyết của Hội nghị toàn thể lần thứ hai của Ủy ban Trung ương khóa VII Đảng Cộng sản Trung Quốc được tổ chức từ ngày 5 đến 13 tháng 3 năm 1949 tại làng Tây Bá Pha, huyện Bình Sơn, tỉnh Hà Bắc, đã chỉ ra: "Ở mỗi thành phố và mỗi nơi mà quân đội Quốc dân Đảng bị tiêu diệt và chính phủ Quốc dân Đảng bị lật đổ, quyền kiểm soát chính trị của các đế quốc cũng theo đó bị đánh đổ, quyền kiểm soát kinh tế và văn hóa của họ cũng bị suy yếu đáng kể. Tuy nhiên, các doanh nghiệp kinh tế và văn hóa do các đế quốc trực tiếp điều hành vẫn còn tồn tại, và các nhân viên ngoại giao và nhà báo được Quốc dân Đảng công nhận vẫn còn tồn tại. Đối với những vấn đề này, chúng ta phải giải quyết đúng đắn theo thứ tự ưu tiên và mức độ khẩn cấp."
[9] Hiến chương Liên Hợp Quốc, tức "Hiến chương Tổng quát Tổ chức Liên Hợp Quốc", được xây dựng bởi "Hội nghị Quốc tế về Tổ chức Liên Hợp Quốc" diễn ra từ ngày 25 tháng 4 đến ngày 26 tháng 6 năm 1945, gồm 19 chương, 111 điều. Hiến chương quy định mục đích của Liên Hợp Quốc là: duy trì hòa bình và an ninh quốc tế; phát triển các mối quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia dựa trên nguyên tắc tôn trọng quyền bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc; thực hiện hợp tác quốc tế để giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa và nhân đạo giữa các quốc gia, đồng thời thúc đẩy tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do cơ bản; là trung tâm điều phối hành động của các quốc gia để đạt được các mục đích chung nêu trên. Để thực hiện các mục đích trên, Hiến chương quy định Liên Hợp Quốc và các quốc gia thành viên phải tuân thủ các nguyên tắc sau: tất cả các quốc gia thành viên đều bình đẳng về chủ quyền; giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng phương pháp hòa bình; trong quan hệ quốc tế không được đe dọa vũ lực hoặc sử dụng vũ lực đối với các quốc gia khác; hỗ trợ mọi hành động của Liên Hợp Quốc theo Hiến chương; Liên Hợp Quốc không được can thiệp vào các vấn đề thuộc thẩm quyền nội bộ của các quốc gia, v.v. Hiến chương cũng quy định nghĩa vụ và quyền lợi của các quốc gia thành viên và phạm vi chức năng của sáu cơ quan chính của Liên Hợp Quốc.
[10] Tuyên bố Cairo, từ ngày 22 đến 26 tháng 11 năm 1943. Các nhà lãnh đạo Trung, Mỹ, Anh đã tổ chức hội nghị tại Cairo. Thảo luận về kế hoạch tác chiến chung chống Nhật và cách xử lý Nhật Bản sau khi đánh bại Nhật Bản. Ngày 1 tháng 12, Tuyên bố Hội nghị Cairo của ba nhà lãnh đạo đã được công bố. Nội dung chính là: Mục đích chiến tranh của ba nước chống Nhật là ngăn chặn và trừng phạt sự xâm lược của Nhật Bản; tước đoạt tất cả các đảo mà Nhật Bản đã chiếm hoặc chiếm đóng ở Thái Bình Dương kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bắt đầu, trả lại các lãnh thổ Trung Quốc bị Nhật Bản xâm lược như Đông Bắc, Đài Loan, quần đảo Bành Hồ cho Trung Quốc; trục xuất Nhật Bản khỏi tất cả các vùng đất mà nước này đã chiếm bằng vũ lực hoặc lòng tham; làm cho Triều Tiên tự do và độc lập; kiên quyết buộc Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện.
[11] Hiệp ước Hữu nghị và Liên minh Xô-Trung, được Chính phủ Trung Quốc và Chính phủ Liên Xô ký kết tại Moscow vào ngày 14 tháng 8 năm 1945. Nội dung chính là: Hai nước sẽ hỗ trợ lẫn nhau mọi sự giúp đỡ quân sự và các sự giúp đỡ khác trong cuộc chiến chống Nhật; sau chiến tranh sẽ cùng nhau thực hiện các biện pháp ngăn chặn Nhật Bản tái xâm lược. Cùng ngày, hai bên còn ký kết các phụ lục như "Hiệp định về Đường sắt Trường Xuân Trung Quốc", "Hiệp định về Đại Liên", "Hiệp định về Cảng Lữ Thuận", và trao đổi công hàm về vấn đề Ngoại Mông. Phía Liên Xô từ đó giành được một số quyền lợi đặc biệt ở Trung Quốc. Hiệp ước ban đầu quy định có hiệu lực 30 năm. Sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập, theo quy định trao đổi văn bản của "Hiệp ước Hữu nghị, Liên minh và Hỗ trợ Xô-Trung" ký kết vào tháng 2 năm 1950, hiệp ước này đã hết hiệu lực.
[12] Hiệp ước Thương mại và Hàng hải Trung-Mỹ, tức "Hiệp ước Hữu nghị Thương mại" Trung-Mỹ, được ký kết tại Nam Kinh vào ngày 4 tháng 11 năm 1946. Hiệp ước quy định: Trung Quốc mở cửa toàn bộ lãnh thổ cho Hoa Kỳ, Hoa Kỳ có quyền cư trú, đi lại và kinh doanh, sản xuất, chế biến, khoa học, giáo dục, tôn giáo và từ thiện trên toàn Trung Quốc; hàng hóa Hoa Kỳ tại Trung Quốc, về thuế, bán hàng, phân phối hoặc sử dụng, được hưởng ưu đãi không kém bất kỳ quốc gia thứ ba nào và hàng hóa Trung Quốc; tàu thuyền Hoa Kỳ, bao gồm cả tàu chiến, có thể đi qua lãnh hải Trung Quốc và neo đậu tại các cảng của Trung Quốc gần như không bị hạn chế. Các điều khoản và quy định này đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Trung Quốc và bị nhân dân Trung Quốc phản đối kịch liệt.
[13] Tuyên bố chống Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, tức tuyên bố chung do Mao Trạch Đông, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, và các nhà lãnh đạo Trung ương của Ủy ban Cách mạng Quốc dân Đảng Trung Quốc, Liên minh Dân chủ Trung Quốc, Hiệp hội Kiến quốc Dân chủ Trung Quốc, Hiệp hội Tiến bộ Dân chủ Trung Quốc, Liên hiệp Đồng chí Tam Dân Chủ Nghĩa Quốc dân Đảng Trung Quốc, Đảng Dân chủ Công nông Trung Quốc, Hội Cứu quốc Nhân dân Trung Quốc, Hội Tiến bộ Dân chủ Quốc dân Đảng Trung Quốc, Đảng Trí Công Trung Quốc và các đảng phái dân chủ khác, công bố vào ngày 3 tháng 4 năm 1949 để phản đối Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương. Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương là một hiệp ước liên minh quân sự, được ký kết tại Washington vào ngày 4 tháng 4 năm 1949 bởi 12 quốc gia bao gồm Mỹ, Anh, Pháp. Tuyên bố chung viết: Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương là một hiệp ước nhằm mục đích kích động một cuộc chiến tranh xâm lược thế giới mới. Nếu tập đoàn xâm lược đế quốc dám kích động một cuộc chiến tranh phản động gây nguy hiểm cho toàn thể nhân dân thế giới, Đảng Cộng sản Trung Quốc và các đảng phái dân chủ sẽ đoàn kết toàn thể nhân dân cả nước, "tay trong tay với Liên Xô, đồng minh của Trung Quốc, và các lực lượng hòa bình dân chủ trên thế giới", đánh bại quân xâm lược, lật đổ toàn bộ hệ thống đế quốc, và thực hiện hòa bình vĩnh cửu cho toàn nhân loại.
[14] Hiệp định Yalta được ký kết bởi Liên Xô, Mỹ và Anh vào tháng 2 năm 1945 quy định rằng Liên Xô sẽ tham gia cuộc chiến chống Nhật trong vòng hai hoặc ba tháng sau khi chiến tranh ở châu Âu kết thúc, với điều kiện đầu tiên là: "Hiện trạng của Ngoại Mông (Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ) phải được duy trì." Hiệp định cũng quy định rằng các hiệp định liên quan đến quy chế Ngoại Mông và cảng Đại Liên, cảng Lữ Thuận của Trung Quốc, cùng với các tuyến đường sắt Trung Đông và Nam Mãn Châu, phải được sự đồng ý của Tưởng Giới Thạch. Vào ngày 14 tháng 8 năm 1945, cùng với việc ký kết "Hiệp ước Hữu nghị và Liên minh Trung-Xô", Chính phủ Trung Quốc và Chính phủ Liên Xô đã trao đổi công hàm về vấn đề Ngoại Mông. Phía Chính phủ Trung Quốc bày tỏ, sau khi Nhật Bản thất bại, nếu cuộc trưng cầu dân ý của công dân Ngoại Mông xác nhận mong muốn độc lập của họ, "Chính phủ Trung Quốc sẽ công nhận độc lập của Ngoại Mông". Sau đó, thông qua cuộc trưng cầu dân ý của Ngoại Mông, Chính phủ Trung Quốc đã công nhận độc lập của Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ.
[15] Quốc tế Cộng sản, tức Đệ Tam Quốc tế, được thành lập dưới sự lãnh đạo của Lênin vào tháng 3 năm 1919. Năm 1922, Đảng Cộng sản Trung Quốc gia nhập Quốc tế Cộng sản, trở thành một chi bộ của nó. Tháng 5 năm 1943, Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản đã thông qua quyết định đề xuất giải tán Quốc tế Cộng sản, và vào tháng 6 cùng năm, Quốc tế Cộng sản chính thức tuyên bố giải thể.
[16] Cục Thông tin các Đảng Cộng sản châu Âu, tức Cục Thông tin các Đảng Cộng sản và Công nhân. Được thành lập tại Hội nghị đại biểu các Đảng Cộng sản và Công nhân của chín quốc gia bao gồm Bulgaria, Romania, Hungary, Ba Lan, Liên Xô, Pháp, Tiệp Khắc, Ý, Nam Tư, tổ chức tại Warsaw, Ba Lan vào tháng 9 năm 1947. Mục đích của nó là tăng cường liên hệ và trao đổi kinh nghiệm giữa các đảng, và nếu cần thiết, phối hợp hành động giữa các đảng trên cơ sở thỏa thuận lẫn nhau. Cơ cấu của Cục Thông tin bao gồm hai đại biểu được mỗi Ban Chấp hành Trung ương Đảng cử ra. Các đại biểu được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bổ nhiệm và điều chuyển. Ban đầu, Cục Thông tin đặt trụ sở tại Belgrade. Sau khi quan hệ Liên Xô-Nam Tư xấu đi, nó chuyển đến Bucharest vào tháng 6 năm 1948. Cơ quan ngôn luận là "Vì hòa bình lâu dài, vì dân chủ nhân dân!". Tháng 4 năm 1956, Cục Thông tin tuyên bố ngừng hoạt động.
[17] Khi gặp phái đoàn Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc do Lưu Thiếu Kỳ dẫn đầu vào ngày 11 tháng 7 năm 1949, Stalin bày tỏ không đồng ý với đoạn văn trong báo cáo về mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Trung Quốc, nói rằng: Một đảng của một quốc gia phục tùng đảng của một quốc gia khác! Điều này chưa từng xảy ra, và không được phép. Ngày hôm sau, Lưu Thiếu Kỳ điện báo ý kiến của Stalin cho Mao Trạch Đông. Ngày 14 tháng 7, Mao Trạch Đông phúc đáp điện cho Lưu Thiếu Kỳ: "Cách diễn đạt của các đồng chí về mối quan hệ giữa hai đảng, là một sự xử lý hoặc thái độ cần thiết trên thực tế chứ không phải trên hình thức, trong tình hình hiện nay khi hai đảng không có tổ chức kiểu Quốc tế Cộng sản hay Cục Thông tin, và hiện tại cũng không thích hợp để khôi phục hay thành lập các tổ chức như vậy. Sự xử lý hoặc thái độ này, không nên được đưa vào bất kỳ nghị quyết hay ghi chép bằng văn bản nào, càng không nên công bố rộng rãi trong và ngoài đảng. Do đó, xin các đồng chí thảo luận với Stalin và đồng chí Mã, nếu họ cho rằng cần thiết, các đồng chí có thể rút lại đoạn văn đó khỏi báo cáo bằng văn bản, nhưng chúng ta vẫn làm như vậy trên thực tế, để có lợi cho sự phát triển của phong trào cộng sản. Việc trên có phù hợp không, xin Stalin và đồng chí Mã quyết định." Theo chỉ thị của Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ đã lần lượt giải thích cho Malenkov, Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik) và Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, và Stalin cùng các lãnh đạo khác của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik).
[18] Ở đây chỉ các điều kiện do phía Liên Xô đưa ra tại cuộc hội đàm giữa phái đoàn Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik) vào ngày 27 tháng 6 năm 1949. Các điều kiện chính bao gồm: Khoản vay 300 triệu USD được cung cấp cho Trung Quốc dưới hình thức thiết bị, máy móc và các loại vật liệu, hàng hóa khác nhau, với lãi suất 1% mỗi năm, trung bình 60 triệu USD mỗi năm, trong thời hạn 5 năm; Trung Quốc sẽ hoàn trả khoản vay trong vòng 10 năm sau khi khoản vay có hiệu lực hoàn toàn.
[19] Sau khi nhận được báo cáo này của Lưu Thiếu Kỳ và bức thư của Lưu Thiếu Kỳ gửi Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik) và Stalin vào ngày 6 tháng 7 về vấn đề học tập kinh nghiệm xây dựng đảng và nhà nước từ Liên Xô (xem trang 23-27 của cuốn sách này), Stalin đã tổ chức hội đàm với phái đoàn Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc vào tối ngày 11 tháng 7 về các vấn đề liên quan. Ngày 18 tháng 7, Lưu Thiếu Kỳ và các thành viên phái đoàn Cao Cương, Vương Gia Tường đã cùng nhau điện báo cho Trung ương và Mao Trạch Đông, báo cáo tình hình cuộc hội đàm này (xem trang 30-37 của cuốn sách này).