Đảng Cộng sản Việt Nam và vấn đề đấu tranh thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình. P3
Đảng Cộng sản Việt Nam và vấn đề đấu tranh thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình
Tướng Giáp “thi đua hòa bình”
Nếu mà nói thi đua hòa bình, thì không chỉ mỗi tướng Giáp thi đua hòa bình, mà còn cả Bác Hồ, cả đồng chí Lê Duẩn cũng tán thành thi đua hòa bình, hợp tác hòa bình và chung sống hòa bình. Điều đó có lẽ rất đỗi ngạc nhiên với một số người. Nhưng thực chất, nó chẳng có gì xa lạ nếu như chúng ta hiểu và biết về Chủ nghĩa Lenin bàn về vấn đề hòa bình.
Trong bài “Nói chuyện với nhân dân thủ đô về thành công của Đại hội lần thứ XXI của Đảng Cộng sản Liên Xô” ngày 19/2/1959, Bác nói : “Cuộc thách thi đua hòa bình giữa hai chế độ và ý chí kiên quyết của Liên Xô vượt qua Mỹ đã làm rung động cả thế giới, nhất là Mỹ. Chúng ta còn nhớ rằng khi Liên Xô đặt kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, các báo chí và chính khách tư sản phương Tây đều chế giễu và cho đó là “không tưởng” và “nhất định thất bại”. Nhưng ngày nay, thái độ của họ đã khác hẳn. Họ buộc phải thừa nhận rằng kế hoạch 7 năm của Liên Xô sẽ thành công” (Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, 2011, t.12, tr.84).
Đấy, thi đua hoà bình đã có từ hồi những năm 1926-1928 kia kìa. Làm thế nào có thể nói rằng đó chỉ là sản phẩm của chủ nghĩa xét lại Khrushchev được ?
Trong bài phát biểu “Tăng cường đoàn kết nhất trí, tiến tới những thắng lợi mới” của Tổng bí thư Lê Duẩn Về hội nghị các Đảng cộng sản và công nhân ở Moskva, được đọc tại Hội nghị TW3 khóa III (5-7/1/1961), đồng chí có nói: “Chúng ta phải đặt và giải quyết các vấn đề quan trọng của thời đại dưới ánh sáng của tình hình đó. Trong điều kiện trên thế giới có hệ thống xã hội chủ nghĩa và hệ thống tư bản chủ nghĩa, thì chung sống hòa bình và thi đua hòa bình giữa hai hệ thống một hình thức quan trọng của cuộc đấu tranh giai cấp giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Chúng ta cần ra sức đấu tranh để thực hiện chung sống hoà bình và thi đua hoà bình giữa hai hệ thống, do đó mà làm cho hệ thống xã hội chủ nghĩa lớn mạnh nhanh chóng, tiến tới giành được ưu thế tuyệt đối so với hệ thống tư bản chủ nghĩa” (Văn kiện Đảng toàn tập, tập 22, Nxb CTQG, 2002, tr.61-62.)
Vậy tướng Giáp có điểm chung gì với Khrushchev không ?
1) Võ Nguyên Giáp có phải xem phương pháp hòa bình là nguyên tắc cao nhất (tuyệt đối) hay không?
Võ Nguyên Giáp khi trả lời cho câu hỏi có thể dùng phương pháp hòa bình để thắng lợi hay không, ông đã nói: “Có thể. Chủ trương của ta là thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình, và chúng ta nhận định rằng trong điều kiện trong nước và thế giới hiện nay, sự nghiệp thống nhất nước nhà của Việt Nam ta có khả năng hoàn thành bằng phương pháp hòa bình”. (PGS.TSKH Bùi Loan Thúy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vị tướng của hòa bình, Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn, ấn bản 2009, tr.151)
Có thể thấy, tướng Giáp xác định rằng phương pháp hòa bình là một trong những khả năng để thực hiện mục tiêu cao nhất đó là thống nhất đất nước. Tướng Giáp chỉ giới hạn phương pháp này trong khả năng “Có thể” và “có khả năng” chứ không xem đó là tuyệt đối, là nguyên tắc cao nhất để giải quyết mọi vấn đề.
Về điểm này không có gì giống với thuyết “Chung sống hòa bình” theo kiểu Khrushchev cả.
2) Võ Nguyên Giáp có xem Phương pháp hòa bình có phải là đường lối duy nhất đúng TRONG bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào hay không? (nói chính xác hơn là tướng Giáp có trông chờ tuyệt đối vào nền hòa bình – không chiến tranh như lời Khrushchev nói không?).
Tướng Giáp nói: “Và trong tình thế hiện nay, chủ trương đó là chủ trương chính xác duy nhất. Nhận định trên hoàn toàn phù hợp với sự phân tích tình hình thế giới của Đại hội lần thứ XX của Đảng Cộng sản Liên Xô: Đại hội nêu ra những hình thức mới tiến lên chủ nghĩa xã hội, trong đó có cđường lối hòa bình phát triển, không dùng đến vũ trang đấu tranh” (PGS.TSKH Bùi Loan Thúy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vị tướng của hòa bình, Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn, ấn bản 2009, tr.151).
Đây là một nhận định gây nhiều tranh cãi, và làm nhiều người hiểu sai lệch, vì nó liên quan đến Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô. Như chúng ta biết, tại Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô, dưới sự lãnh đạo của Khrushchev, Đảng Cộng sản Liên Xô đã có những sai lầm, trong các vấn đề lý luận lẫn các hoạt động tổ chức của Đảng. Song, không thể phủ nhận hết rằng, Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô vẫn đánh dấu có những bước phát triển mới trong vấn đề tư duy và phát triển lý luận, chí ít là ở một mức độ nhất định. Tuyệt nhiên, không thể cho rằng Khrushchev có sai lầm, thì dấu ấn của Đại hội XX có thể bị phủi sạch. Chúng ta cần nên nhớ rằng, phải sau khi hết 2/3 thời gian của Đại hội, sau khi Khrushchev đã nắm chắc trong tay vị trí Bí thư thứ nhất, ông ta mới lên kế hoạch soạn thảo một bài phát biểu bí mật chống Stalin (trong thực tế phần lớn thời lượng của Đại hội, người ta vẫn ca ngợi Stalin là nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và Nhà nước Xô viết).
Có hai điều đáng ghi nhận ở Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô:
Trước hết, đó là nhận thức đúng về xu hướng hòa bình. Tất nhiên, nói như thế không phải là đến Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô, thì mới nhận thức về xu hướng này, mà thực tế, xu hướng này hiện hữu từ sau khi Chiến tranh thế giới thứ 2 kết thức và ngày càng được củng cố với sự hình thành hai hệ thống chính trị xã hội đối lập. Ngay từ năm 1954, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và nhiều nước thế giới thứ ba đã xác nhận các nguyên tắc hòa bình quốc tế rồi, thì không có lý gì Đại hội Đảng lần thứ XX của Đảng Cộng sản Liên Xô lại không nhận thức được.
Thứ hai, đó là nhận thức về các hình thức mới của quá độ cách mạng. Do xu hướng hòa bình ngày càng phát triển và phong trào đòi hòa bình do Liên Xô và các nước nước xã hội chủ nghĩa khởi xướng gặt hái nhiều thành công, làm thế và lực của lực lượng yêu chuộng hòa bình có nhiều sự phát triển, đồng thời làm xuất hiện các khả năng mới, khả năng quá độ hòa bình hay khả năng có thể sử dụng các phương pháp, cách thức theo con đường hòa bình để tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô đã chỉ rõ các hình thức đó, chủ yếu là con đường nghị viện. Điều này hoàn toàn không sai, chúng ta không nên quên rằng Lenin cũng có thời kỳ ủng hộ những đảng viên bolsheviks gia nhập Duma Nga để tranh đấu vạch mặt chế độ Nga hoàng.
Tuy nhiên, trong hai cái đáng ghi nhận đó, cũng tồn tại những quan điểm không đúng đắn của Khrushchev, đấy là cơ sở sau này bị Đảng Cộng sản Trung Quốc bác bỏ:
Thứ nhất, bên cạnh việc xác định xu hướng hòa bình, Khrushchev lại xem chủ nghĩa đế quốc đã sẵn sàng cho công cuộc hòa bình, và xem rằng trong kỷ nguyên của vũ khí nguyên tử sẽ không thể phát sinh chiến tranh. Vì chiến tranh là con đường diệt vong của nhân loại. Quan điểm này không được cộng đồng quốc tế đón nhận.
Thứ hai, bên cạnh xác định các hình thức mới đúng đắn của con đường quá độ, trong đó có con đường nghị viện. Có thể nói, trong điều kiện một quốc gia nào đó phù hợp với con đường này, thì con đường nghị viện vẫn có thể được sử dụng miễn là đem lại lợi ích cuối cùng cho cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản. Lenin cũng có lúc ủng hộ con đường nghị viện, tất nhiên là trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Cái không đúng của Khrushchev là ở chỗ ông ta cổ súy cho hình thức đó và xem đó là hình thức duy nhất trong thời đại hòa bình, khi đặt “hòa bình” và nguyên tắc cao nhất trong việc giải quyết các vấn đề thế giới. Từ đó, đẩy các đảng cộng sản ở một loạt các quốc gia như Tây Ban Nha, Pháp và một số nước khác có hoàn cảnh, điều kiện không phù hợp với phương pháp hòa bình, đã rơi vào thế bị động, bị các đảng tư sản đánh bại và loại khỏi chính trường. Đó là một trong những tổn thất to lớn của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Có thể thấy, tướng Giáp đã xác định một cách rõ ràng rằng, phương pháp hòa bình bên cạnh là một khả năng, một hình thức để thực hiện mục tiêu cao nhất, thì nó phải tương thích với một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định. Tướng Giáp đã viết khá rõ “Và trong tình thế hiện nay, chủ trương đó là chủ trương chính xác duy nhất”. Có nghĩa là trong tình hình hiện tại của cách mạng Việt Nam (7/1956) thì con đường thống nhất nước nhà trong điều kiện lịch sử đặc biệt của nước Việt Nam như thế, không thể có con đường nào khác ngoài con đường hòa bình.
Về điểm này không có gì giống với thuyết “Chung sống hòa bình” theo kiểu Khrushchev cả.
3) Võ Nguyên Giáp có tin rằng đế quốc Mỹ sẽ mong muốn hòa bình, và sẵn sàng đàm phán hòa bình?
Thực tế quá rõ ràng là không.
Trong bài nói “Tổ Quốc Việt Nam chúng ta nhất định sẽ thống nhất” ngày 9/7/1956, tướng Giáp có viết: “Từ khi hòa bình được lập lại đến nay, lực lượng của nhân dân ta đã lớn mạnh lên rất nhiều, nhưng trong lúc đó đế quốc Mỹ cũng ngày càng tăng cường can thiệp vào miền Nam, chính quyền tay sai của đế quốc Mỹ ở miền Nam đã dùng mọi phương sách để củng cố lực lượng của chúng. Chính quyền đó là đại biểu cho bộ phận thân Mỹ phản động nhất trong giai cấp đại địa chủ và tư sản mại bản ở miền Nam. Đế quốc Mỹ là một chủ nghĩa đế quốc cực kỳ hung bạo. Do đó mà muốn hoàn thành nhiệm vụ phản đế và phản phong ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà thì nhất định phải trãi qua một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ”. (PGS.TSKH Bùi Loan Thúy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vị tướng của hòa bình, Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn, ấn bản 2009, tr.149)
Ngoài ra, trong bài nói và các bài viết, hồi ký về sau, nhiều lần Võ Nguyên Giáp đều chỉ ra tính “không đáng tin cậy” của chủ nghĩa đế quốc. Đều này chứng tỏ ông không xem Mỹ hay các cường quốc phương Tây thực sự mong muốn hòa bình và sẵn sàng đàm phán hòa bình.
Về điểm này không có gì giống với thuyết “Chung sống hòa bình” theo kiểu Khrushchev cả.
4) Võ Nguyên Giáp có cổ súy cho hình thức nghị viện hay xem hình thức nghị viện là hình thức duy nhất đúng trong phong trào chính trị hay không?
Không chỉ riêng trong bài nói “Tổ Quốc Việt Nam chúng ta nhất định sẽ thống nhất” ngày 9/7/1956, mà trong tất cả các bài viết của tướng Giáp trước và sau đó đều không nhắc đến hình thức Nghị viện, và cổ súy cho hình thức đó là hình thức duy nhất đúng để quá độ hòa bình lên chủ nghĩa xã hội.
Về điểm này cũng không có gì giống với thuyết “Chung sống hòa bình” theo kiểu Khrushchev cả.
5) Võ Nguyên Giáp có phải không muốn bạo lực cách mạng giải phóng miền Nam hay không?
Thực tế hoàn toàn không phải. Bản chất của phương pháp hòa bình vẫn là bạo lực cách mạng, song bạo lực cách mạng đó dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng nhân dân làm nòng cốt chứ không phải lực lượng vũ trang. Không nên đánh đồng: bạo lực cách mạng thì phải sử dụng lực lượng vũ trang. Bạo lực cách mạng của quần chúng là cuộc đấu tranh giành chính quyền của quần chúng nhân dân bằng mọi phương pháp có thể, đôi lúc là dùng các hình thức chính trị cơ bản, nhưng đôi lúc là hoạt động vũ trang, … miễn sao là giành được chính quyền để thiết lập chế độ mới, tùy những điều kiện hoàn cảnh mà ta có sách lược phù hợp (Phong trào Thanh niên Tiền phong trong Cách mạng tháng Tám là một ví dụ cho phong trào chính trị và việc sử dụng nhuần nhuyễn các phương pháp cách mạng vừa chính trị, vừa vũ trang).
Cần nhận thức sự khác biệt giữa đường lối hòa bình và đường lối chủ nghĩa cải lương, đường lối cải lương chính là lối cổ súy Nghị viện, trông cậy vào pháp luật, hiến pháp của kẻ thù và phủ nhận đi tính bạo lực cách mạng để giành chính quyền. Con đường cải lương nhằm thực hiện những cải cách chế độ, chứ không phải lật đổ chế độ. Do đó, đường lối hòa bình của tướng Giáp hoàn toàn khác hẳng đường lối cổ súy Nghị viện của Khrushchev.
Còn con đường đấu tranh vũ trang khi đó được toàn Đảng chúng ta xem là chưa có điều kiện để vận dụng, (thực tế là từ Hội nghị BCHTW lần 6 (tháng 6/1954) cho đến Hội nghị BCHTW lần 14 (tháng 11/1958) chúng ta vẫn chưa đả động gì đến bạo lực vũ trang cách mạng miền Nam, do đó cho đến Hội nghị BCHTW lần thứ 10 (tháng 10/1956) Đảng ta vẫn căn cứ trên Nghị quyết của Bộ Chính trị tháng 9/1954 trong đó kiên quyết thực thi Hiệp định Geneva đến cùng. Chính vì thế, không có con đường nào khác ngoài con đường đấu tranh thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình vào thời điểm đấy. Ngay cả trong Đề cương Cách mạng miền Nam của Lê Duẩn cũng viết: “Đấu tranh cách mạng theo lối hòa bình có nghĩa là lấy lực lượng chính trị của nhân dân làm chỗ dựa căn bản chứ không phải lấy lực lượng vũ trang của nhân dân để đấu tranh với chính quyền hiện hữu nhằm đạt mục đích của cách mạng”. (Lê Duẩn, Tuyển tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007 – báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam). Tại Hội nghị BCHTW lần thứ 9 (4/1956), Hồ chủ tịch đã chỉ thị rằng bên cạnh việc đấu tranh bằng phương pháp hòa bình, nhưng chúng ta cần thiết phải chuẩn bị cho lực lượng vũ trang để sau này có điều kiện có thể dùng.
Nhiều người bài xích tướng Giáp thường hiểu sai lệch khi cho rằng tướng Giáp nói “Và trong tình thế hiện nay, chủ trương đó (phương pháp hòa bình) là chủ trương chính xác duy nhất” là hành động xét lại theo Khrushchev. Điều đó là không đúng. Họ quên rằng, trước Hội nghị BCHTW lần thứ 15 (từ 1954 – 1959), trong tất cả các văn kiện của Đảng về vấn đề miền Nam đều không chủ trương “đấu tranh vũ trang”, … Ngay cả trong Nghị quyết BCHTW 15 và văn kiện Đại hội III, các thuật ngữ này cũng sử dụng hạn chế. Chính vì thế, trong bài phát biểu của tướng Giáp hồi 9/7/1956, căn bản không thể đề cập đến con đường đấu tranh vũ trang vì vẫn phải tuân thủ theo Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9/1954 và các Nghị quyết Hội nghị BCH TW lần thứ 7, thứ 8, thứ 9 Khóa 2 (đều dùng Nghị quyết BCT tháng 9/1954 làm cơ sở).
Quan điểm của tướng Giáp trong bài phát biểu 9/7/1956 khá tương đồng với quan điểm của Lê Duẩn trong tác phẩm Đề cương cách mạng Miền Nam về việc sử dụng phương pháp hòa bình để giải quyết vấn đề cách mạng miền Nam và chưa chủ trương sử dụng bạo lực vũ trang (Tất nhiên, Đề cương đề cập sâu sắc hơn và cụ thể hơn về đối tượng và hình thức cách mạng). Và cơ sở của cả 2 đều xuất phát từ Nghị quyết 9/1954 của Bộ Chính trị - thi hành Hiệp định Geneva.
Và cả điểm này, tướng Giáp không có gì giống với thuyết “Chung sống hòa bình” theo kiểu Khrushchev cả.
Một vấn đề khác được đặt ra là:
Tại sao có mỗi đồng chí Lê Duẩn từ năm 1956 trong Đề cương Cách mạng Miền Nam đã viết rõ về chuyển sang bạo lực cách mạng vũ trang, mà đồng chí Võ Nguyên Giáp và trong toàn Đảng ta, không có bất kỳ nơi nào đề cập trước đó ?
Ở đây, một số người hết sức nhầm lẫn khi không hiểu rằng Đề cương Cách mạng Miền Nam là loại văn kiện gì. Đề Cương cách mạng Miền Nam trên thực tế là báo cáo chính trị của xứ ủy Nam Bộ nhằm trình bày trước Trung Ương, kiến nghị cho Trung Ương, tham mưu cho Trung Ương về cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam. Nội dung của nó phải bao hàm sự phân tích tổng thể của cách mạng Miền Nam, phân tích tương quan lực lượn giữa địch ta, đề ra phương hướng chính cho cách mạng miền Nam. Do đó, nó không thể và không thể giống các văn kiện khác của Đảng trong suốt thời gian từ Hội nghị Bộ Chính trị 9/1954 đến trước Hội nghị TW 15.
Còn các bài báo, bài phát biểu của tướng Giáp trên báo nhân dân hay đọc trước các cuộc mít-tinh của nhân dân thủ đô Hà Nội không phải là báo cáo chính trị, trên thực tế là nội dung tuyên truyền căn cứ trên các Nghị quyết của Đảng ta như Hội nghị Bộ Chính trị 9/1954; Hội nghị TW 9; Hội nghị TW 10; Hội nghị TW 12, cho nên KHÔNG THỂ và KHÔNG NỀN đề cập bất cứ nội dung gì trái với đường lối chung của Đảng ta. Và không phải chỉ có mỗi tướng Giáp, mà trên thực tế là toàn Đảng ta đều không tuyên truyền bất kỳ nội dung gì tương tự như nội dung của Đề Cương cách mạng Miền Nam.
Vậy thì đến khi nào Trung Ương mới đề cập đến chuyển sang đấu tranh vũ trang ở Miền Nam ?
Đó là khi bắt đầu chuẩn bị dự thảo cho Hội nghị TW 15. Đầu năm 1957, Bộ Chính trị giao nhiệm vụ này cho đồng chí Võ Nguyên Giáp soạn thảo với sự giúp đỡ của đồng chí Trần Quang Huy (lúc ấy là Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, Phó ban thường trực Ban Tuyên huấn Trung ương) và đồng chí Hoàng Tùng (lúc ấy là Tổng Biên tập báo Nhân Dân, Phó ban Ban Tuyên huấn Trung ương).
Đồng chí Hoàng Tùng, sau này kể lại: "Mở đầu buổi làm việc đầu tiên, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã đặc biệt nhắc nhở Trần Quang Huy và tôi phải thấm nhuần ý tưởng NHÂN DÂN TA CÒN PHẢI TIẾP TỤC CHỐNG MỸ và ý tưởng TRANH THỦ MỌI THỜI CƠ ĐỂ Hòa BÌNH THỐNG NHẤT NƯỚC NHÀ của Bác Hồ. Đó chính là ánh sáng chỉ đạo toàn bộ quá trình chấp bút bản dự thảo. Anh Võ Nguyên Giáp nhắc chúng tôi như vậy.
Do phong cách làm việc dân chủ vốn có, anh Võ Nguyên Giáp thường chủ động mời hai chúng tôi phát biểu trước, rồi sau đó, anh mới trình bày ý kiến của mình. Chính vì vậy, tại Đồ Sơn, trong quá trình soạn thảo, khi hai chúng tôi được anh hỏi ý kiến thì tôi đã nêu lên hai vấn đề cơ bản của Dự thảo Nghị quyết 15 (Khóa hai).
Thứ nhất: Sử dụng phương pháp đấu tranh vũ trang, đấu tranh bằng bạo lực cách mạng. Chúng ta buộc phải sử dụng phương pháp này bởi vì Mỹ _ Diệm ngày càng tăng cường lùng sục và giết hại những người kháng chiến cũ ở miền Nam và luôn miệng hô hào “Bắc tiến”.
Về vấn đề thứ nhất, Trần Quang Huy cũng suy nghĩ như tôi.
Thứ hai: Tập hợp sức mạnh toàn thể dân tộc để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Về vấn đề thứ hai, tôi trình bày với Đại tướng như sau: Ở Việt Nam, cần phải tập trung thực hiện nhiệm vụ thống nhất toàn thể dân tộc, đoàn kết toàn thể dân tộc hơn là thực hiện một cuộc đấu tranh giai cấp. Muốn giải phóng miền Nam, ngoài việc thực hiện phương pháp đấu tranh vũ trang, phải thống nhất toàn thể dân tộc, tập hợp toàn thể dân tộc, đoàn kết toàn thể dân tộc theo đúng tư tưởng Bác Hồ.
Đồng chí Võ Nguyên Giáp hoàn toàn nhất trí với hai vấn đề cơ bản nêu ở trên" (Nghị quyết TW về giải phóng miền Nam ra đời như thế nào, Báo Tiền phong, 29/4/2007).
Sở dĩ bản dự thảo cho Hội nghị TW 15 do các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Trần Quang Huy và Hoàng Tùng lại đề cập phương pháp giống như Đề Cương cách mạng miền Nam của đồng chí Lê Duẩn, mà lại không giống các văn kiện khác của Đảng ta trong thời điểm này. Đó là do bản dự thảo này cũng đóng vai trò như một báo cáo chính trị trình trước Trung Ương, kiến nghị cho Trung Ương, tham mưu cho Trung Ương về cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam.
Tại sao lại có đến hai văn kiện đặc biệt như thế cùng tồn tại ?
Đó là vì tính chất đặc biệt của cách mạng Việt Nam thời điểm đó, khi đất nước chia làm hai miền riêng biệt và tổ chức Đảng phải tổ chức sao cho phù hợp với điều kiện đó. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, do đó các tỉnh ủy và thành ủy bộ thuộc Trung ương đều làm việc trực tiếp dưới Ban chấp hành Trung ương Đảng. Còn điều kiện miền Nam thì khác biệt, các tỉnh ủy và thành ủy bộ trung ương ở miền Nam phải nằm dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Nam Bộ; Xứ ủy vừa chấp hành Trung ương lãnh đạo, nhưng đồng thời là lãnh đạo trực tiếp các đảng bộ cấp dưới (thành hai cấp lãnh đạo) cho nên chắc năng chính trị của Xứ ủy lớn hơn nhiều so với tỉnh ủy, và thành ủy trung ương ở miền Bắc. Tính chất đặc biệt đó làm Đảng ta phải xây dựng hai báo cáo chính trị - 1) của Xứ ủy, cơ quan lãnh đạo trực tiếp Cách mạng miền Nam và 2) Trung ương, cơ quan lãnh đạo Cách mạng toàn quốc.
Điều thú vị chính là ở chỗ, mặc dù đồng chí Võ Nguyên Giáp và đồng chí Lê Duẩn đều không chưa có dịp đọc các văn kiện lẫn nhau, nhưng phương hướng là tương đồng.
Đồng chí Hoàng Tùng viết: "Nhân đây, tôi cũng muốn nhấn mạnh: trong quá trình chấp bút dự thảo Nghị quyết 15 (Khóa Hai), cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp và hai chúng tôi đều hoàn toàn chưa được biết là tại cơ quan Xứ ủy Nam Bộ (số 290 Huỳnh Khương Ninh, Sài Gòn), từ khoảng cuối mùa khô 1955 đến tháng 8/1956, đồng chí Lê Duẩn đã chủ động viết và cơ bản hoàn thành bản Đề cương cách mạng miền Nam.
Chúng tôi cũng không được biết tháng 12/1956 và mấy tháng đầu năm 1957, tại Nông Pênh, bản Đề cương cách mạng miền Nam được thảo luận kỹ (nhưng chưa được chính thức thông qua) trong Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ mở rộng. Do đó, cả anh Võ Nguyên Giáp và hai chúng tôi đều chưa được đọc bản Đề cương ấy.
Trong Đề cương, anh Lê Duẩn sớm nêu lên ý tưởng sâu sắc sử dụng bạo lực cách mạng cùng với ý tưởng tập hợp toàn thể các tầng lớp nhân dân, ý tưởng tổng khởi nghĩa giành chính quyền để giải phóng miền Nam.
Như vậy, giữa Đề cương cách mạng miền Nam của đồng chí Lê Duẩn và dự thảo Nghị quyết 15 (Khóa hai) do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ đạo tôi và Trần Quang Huy chấp bút có sự trùng hợp cơ bản về ý tưởng dùng bạo lực cách mạng và ý tưởng tập hợp toàn thể dân tộc để giải phóng miền Nam. Sự khác nhau giữa hai bản thuộc về lời văn và một vài vấn đề cụ thể." (Nghị quyết TW về giải phóng miền Nam ra đời như thế nào, Báo Tiền phong, 29/4/2007)
Sự tương đồng này có phải là do trùng hợp ?
Hoàn toàn không. Sự tương đồng này xuất phát từ sự gần gũi về mặt tư tưởng về quan điểm đấu tranh bằng phương pháp hòa bình theo tư tưởng Hồ Chí Minh và sự phát triển của tình hình lịch sử cách mạng miền Nam khi đứng trước những đợt khủng bố của Mỹ - Diệm. Tình thế đã cho thấy rằng khi chế độ Mỹ - Diệm đã kiên quyết không tán thành đường lối hòa bình, không nắm lấy bàn tay hòa bình mà Đảng và Chính phủ Việt Nam chìa ra, thì không có con đường nào khác ngoài con đường bạo lực cách mạng vùng lên đánh đổ chế độ Mỹ - Diệm, thiết lập chính quyền chân chính cho nhân dân Miền Nam và tiến tới tổng tuyển cử hòa bình thống nhất nước nhà.
Đồng chí Hoàng Tùng kể rằng: "Khi bản dự thảo cuối cùng nói trên được chuyển lên xin ý kiến Bác Hồ, Bác xem và cơ bản tán thành. Sau đó, Người chỉ thị: chuyển chú Ba xem. (Ba là tên gọi thân mật của anh Lê Duẩn).
Chấp hành chỉ thị của Bác Hồ, đồng chí Lê Duẩn xem và cơ bản nhất trí. Sau đó, anh Lê Duẩn gọi tôi và Trần Quang Huy đến giúp anh viết một số ý kiến bổ sung vào bản dự thảo cuối cùng Nghị quyết Trung ương lần thứ 15 (Khóa hai) nói trên. Trong quá trình bổ sung một số ý kiến vào bản dự thảo cuối cùng này, đồng chí Lê Duẩn chỉ đạo tôi và Trần Quang Huy làm việc nhiều lần ở Hà Nội, Đồ Sơn và lần cuối cùng ở Bãi Cháy (Quảng Ninh)" (Nghị quyết TW về giải phóng miền Nam ra đời như thế nào, Báo Tiền phong, 29/4/2007).
Đồng chí Hoàng Tùng cũng cho biết: "Bác Hồ khai mạc và tổng kết hội nghị. Người cũng trực tiếp chủ toạ hội nghị suốt hai đợt họp.Tại hội nghị, Người đề nghị các đại biểu thẳng thắn nêu rõ ý kiến của mình và thực hiện tranh luận dân chủ để đi tới sự nhất trí cuối cùng. Người khẳng định: Hòa bình thống nhất nước nhà là nguyện vọng tha thiết của toàn dân, vì vậy, phải tranh thủ mọi thời cơ để thống nhất đất nước một cách hoà bình. Vũ trang đấu tranh, theo lời Người, là điều mà toàn dân ta buộc phải thực hiện một khi không có con đường nào khác" (Nghị quyết TW về giải phóng miền Nam ra đời như thế nào, Báo Tiền phong, 29/4/2007) .
Như vậy, chúng ta đều thấy rõ rằng, cả hai văn kiện trên, trên thực tế là việc tư duy vận dụng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà theo phương pháp hòa bình.
Sự thống nhất tư duy đó, không chỉ thể hiện ở đồng chí Lê Duẩn, đồng chí Võ Nguyên Giáp, đồng chí Trần Quang Huy, đồng chí Trần Tùng, ... mà còn trong toàn Đảng ta tại Hội nghị Trung ương 15 lịch sử.
Sự thống nhất của Đảng về mặt tư tưởng và tổ chức là NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH đến sự thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ.
Không có một thế lực phản động nào có thể xuyên tạc được sự thống nhất đó dưới chiêu bài vu cáo nội bộ Đảng ta chia rẽ theo hai phe - chủ hòa và chủ chiến.
=============================