ĐẠI CƯƠNG LƯỢC SỬ VỀ PHÁI ĐỐI LẬP TRONG ĐẢNG CỘNG SẢN (B) LIÊN XÔ
ĐẠI CƯƠNG LƯỢC SỬ VỀ PHÁI ĐỐI LẬP TRONG ĐẢNG CỘNG SẢN (B) LIÊN XÔ
Lịch sử của Đảng Bolshevik là lịch sử của đấu tranh nội bộ
Có thể nói không ngoa, lịch sử của Đảng Bolshevik là lịch sử đấu tranh giữa các mâu thuẫn trong nội bộ đảng, lịch sử của sự khắc phục mâu thuẫn đó, và của sự củng cố, khắc phục những mâu thuẫn đó.
Khác với các Đảng cộng sản hình thành muộn, đảng Bolshevik là đảng đầu tiên vận hành theo nguyên tắc tổ chức đảng vô sản của Lenin. Nhưng không phải khi mới ra đời đảng mang bản chất đó, mà trong một khoảng thời gian rất dài, thông qua cuộc đấu tranh nội bộ trong đảng mà những nguyên tắc đó mới từng bước xác lập. Do đó, chúng ta có thể thấy, Đảng cộng sản Việt Nam lại có ít mâu thuẫn nội bộ hơn Đảng cộng sản Liên Xô; cốt yếu là do tiền đề hình thành các đảng này khác nhau. Và đấu tranh trong nội bộ của đảng Bolshevik không phải là nguyên lý chung cho các hoạt động của đảng khác, mà nó chỉ là những đặc thù riêng, những sản phẩm được nặn đẻ ra từ những tiền đề lịch sử nhất định.
Thời kỳ đầu tiên, tức thời kỳ báo Tia Lửa hay thời kỳ của Đại hội II (1903), khi ấy đảng còn là Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga, lúc ấy mới là đảng của tập hợp những người xã hội dân chủ thuần thúy, chưa có đặc tính của chủ nghĩa Bolshevik và Chủ nghĩa Lenin. Đảng đã bị chia làm hai phái, phái Bolshevik (Lenin) và phái Menshevik (Plekhanov, Martov). Hồi ấy, lúc ban đầu Lenin bị họ cô lập, nhưng lịch sử đấu tranh của Đảng đã cho thấy những quan điểm của Lenin là đúng đắn. Thực tiễn đã minh chứng cho quan điểm của Lenin rằng: chất lượng quan trọng hơn số lượng; vấn đề không phải là sự thống nhất hình thức, mà là sự thống nhất về mặt nguyên tắc. Cuộc đấu tranh của Lenin đã đi đến chỗ đặt ra những nền tảng đầu tiên cho sự ra đời của một đảng cách mạng chân chính.
Thời kỳ thứ hai, tức đêm trước của cuộc cách mạng 1905. Thời kỳ này, Bolshevik và Menshevik có hai cương lĩnh khác nhau. Để tránh một cuộc phân liệt, Bolshevik đã triệu tập Đại hội III, và tại đây đã giành thắng lợi chiếm đa số và đấu tranh để khắc phục những bất đồng ý kiến và củng cố về mặt nguyên tắc hoạt động của Đảng. Giúp Đảng chuẩn bị về mặt tổ chức để tham gia trực tiếp vào Cách mạng 1905.
Thời kỳ thứ ba, tức giai đoạn thoái trào cách mạng 1907, khi một bộ phận những người Bolshevik cũ tách rời khỏi Lenin và gia nhập vào hàng ngũ phái Menshevik. Nhưng những người Bolshevik còn lại không đi đến chỗ diệt vong, mà trái lại, củng cố hơn nữa về mặt tổ chức, loại bỏ những phần tử chưa thực sự giác ngộ và chưa thấm nhuần chủ nghĩa Lenin ra khỏi hàng ngũ Bolshevik.
Thời kỳ thứ tư, thời kỳ 1911-1912, thời kỳ này phái Bolshevik không chỉ khôi phục lại hệ thống tổ chức mà còn khai trừ phái Menshevik ra khỏi Đảng tại Hội nghị Praha 1912, chính thức đánh dấu cho sự ra đời của một Đảng cách mạng - Đảng Bolshevik.
Thời kỳ thứ năm, thời kỳ trước Cách mạng tháng Mười. Lúc bấy giờ, một số lãnh tụ Bolshevik đã đâm ra dao động, và không muốn tiến hành khởi nghĩa tháng Mười, họ coi khởi nghĩa là hành động phiêu lưu. Và lúc đó, Trung ương Đảng tại Đại hội VI và các hội nghị tháng Mười đã đập tan những quan điểm đó của những lãnh tụ Bolshevik dao động đó - chính là Kamenev và Zinoviev. Thực tiễn đã chứng minh rằng Khởi nghĩa tháng Mười đã thành công, Lenin đã đúng, còn họ thì sai.
Nguồn gốc của các mâu thuẫn
Có hai nguyên nhân:
Một là, áp lực của giai cấp tư sản và của hệ tư tưởng tư sản đối với giai cấp vô sản và đảng của giai cấp vô sản trong hoàn cảnh đấu tranh giai cấp đang trong giai đoạn cao trào, - những tầng lớp kém kiên định nhất trong giai cấp vô sản, và sau đó là những tầng lớp kém kiên định nhất trong đảng vô sản. Đảng vô sản hoàn toàn không tách biệt mình với xã hội. Giai cấp vô sản là bộ phận khăng khít của xã hội, gắn liền với mọi tầng lớp xã hội. Mà đảng là một bộ phận của giai cấp vô sản, cho nên đảng cũng có các mối liên hệ với xã hội, có mối liên hệ với mọi tầng lớp, có mối liên hệ với chính cả tư sản và các giai cấp tư sản, và do đó cũng chịu sự tác động nào đó.
Áp lực của giai cấp tư sản và của hệ tư tưởng tư sản đối với giai cấp vô sản và đảng vô sản là ở chỗ những quan niệm, phong tục, tập quán, tác động nhất định đến một số tầng lớp nhất định trong giai cấp vô sản, bằng cách này hay cách khác, thâm nhập vào giai cấp vô sản và cả đảng của giai cấp vô sản.
Hai là, tính chất phân hóa của một giai cấp. Sự tồn tại của nhiều tầng lớp trong nội bộ một giai cấp là một hiện tượng thực tế. Trong giai cấp vô sản tồn tại một bộ phận mang tính chất giai cấp kiên quyết, đoạn tuyệt hẳn với giai cấp tư sản, và đó là chỗ dựa vững chắc của phong trào công nhân và phong trào cộng sản. Tầng lớp khác chính là những người trước đây là phi vô sản, họ có thể là nông dân, họ có thể là các nhà tư sản (vừa mới bị tước đoạt), tiểu tư sản, … vừa mới từ bỏ hàng ngũ mà gia nhập vào giai cấp vô sản, mang vào trong lòng giai cấp vô sản những truyền thống, tập quán, tư tưởng, sự do dự và dao động. Cuối cùng là lớp công nhân “quý tộc”, những công nhân đứng trên đầu công nhân, hay những công nhân khá giả, họ có khuynh hướng thỏa hiệp với giai cấp tư sản. Nói các khác, tầng lớp thứ hai và tầng lớp thứ ba là miếng mồi, mảnh đất béo bở cho sự phát sinh của những thứ chủ nghĩa tạp nham phi chủ nghĩa Mác trong giai cấp công nhân, và cả trong đảng.
Nhưng mà có thể tránh được những mâu thuẫn và bất đồng ý kiến trong nội bộ đảng không ? - Dĩ nhiên là không. Bởi vì không thể bảo rằng trong đảng, mọi người cùng suy nghĩ giống nhau, do đó đảng cần sự dân chủ. Nhưng dân chủ không có nghĩa là thích làm gì thì làm thích nói gì thì nói, nghĩa nó không phải là cái chợ để hội họp tranh cãi, mà đây là đảng chính trị, một tổ chức chính trị, do đó nó cần sự tập trung. Do đó, nguyên tắc tập trung dân chủ trở thành nền tảng của đảng: Tập trung trong sự dân chủ!
Lịch sử đấu tranh chống Đảng của các phái đối lập
Việc phản bội của một số lãnh tụ trong hàng ngũ Bolshevik ngay trước những ngày khởi nghĩa tháng Mười chính là mầm mống của phe đối lập trong Đảng. Ngay sau Cách mạng tháng Mười, trong Đảng xuất hiện những phần tử đối chọi với Ban chấp hành Trung ương và Lenin, họ tập họp nhau lại trong các nhóm, trong các tiểu tổ của một tổ chức đảng cơ sở nào đấy và tự gọi mình dưới tên gọi “các nhóm đối lập”, tức các nhóm bất đồng với nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Sự hình thành của phái đối lập là rất sớm.
Ngay sau Khởi nghĩa tháng Mười, một nhóm những người đối lập bắt đầu tập hợp gồm có: Kamenev, Zinoviev, Rykov, Shlyapnikov và một số khác. Họ bất đồng với Trung ương trong việc thành lập Chính phủ xã hội chủ nghĩa, chủ yếu là về vấn đề thành phần. Họ đòi hỏi phải liên minh với phái Menshevik và xã hội cách mạng cánh tả. Phái đối lập quên béng đi rằng, mới hôm qua, Đảng Bolshevik vừa bắt giam toàn bộ Chính phủ Lâm thời tư sản gồm những tay Menshevik và xã hội cách mạng cánh tả, thì hôm nay họ lại đòi đưa đám đấy vào Chính phủ, đưa những kẻ mà vừa mới hôm qua còn tuyên bố rằng nhấn chìm những người Bolshevik trong biển máu, đòi tuyên án tử cho Lenin, đòi thiết lập trật tự tư sản. Ngày 15 tháng Mười một 1917, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ra nghị quyết bác bỏ việc hợp tác với những kẻ phản bội kia. Thì ngày 17 tháng Mười môt 1917, Kamenev, Zinoviev, Rykov, Milyutin đã tuyên bố rút khỏi Ban chấp hành Trung ương (bất bình vì mình là thiểu số), đồng thời cũng Nogin, Rykov, Milyuntin, Teodorovich, Shlyapnikov, Ryazanov, Yurenev và Larin đã tuyên bố không tán thành với nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương và xin ra khỏi Hội đồng dân ủy nhân dân (Chính phủ). Ngay trong giờ phút gam go nhất của cách mạng, ngay khi Chính phủ Xô viết vừa thành lập, còn chưa được củng cố thì họ tuyên bố “đào ngũ” khỏi hàng ngũ của các cơ quan Trung ương Đảng và Nhà nước, giáng một đòn nặng nề vào hệ thống chính trị non trẻ của nước Cộng hòa Xô viết.
Vấn đề thứ hai, đó là hòa ước Brest-Litovsk. Nguyên nhân của việc phải ký kết hòa ước đó chính là quân đội Nga Sa hoàng đang tan rã, chưa kịp củng cố và tổ chức quân đội mới của giai cấp công nhân; nền kinh tế quốc dân bị tàn phá và nhân dân mệt mỏi vì chiến tranh và đang trong tình trạng đói nghèo, một ước tính sơ bộ đã diễn ra, nước Nga Sa hoàng đã mất khoảng 40% tổng khối lượng tài sản quốc dân cho cuộc chiến đó, chưa kể các gánh nặng khác về nợ nần cho giới chủ tư bản của Anh và Pháp; chiến tranh đã làm cho quần chúng nổi dậy bóp chết chế độ Sa hoàng, sau đó Chính phủ tư sản lâm thời không những từ bỏ mà còn tiếp tục chiến tranh, và chính nhân dân lại một lần nữa bóp chết chế độ tư sản, nếu không kịp thời củng cố và tổ chức nền kinh tế mới để ổn định đời sống nhân dân, thì một cuộc chiến tranh tiếp nữa bóp chết nước Nga cách mạng. Hòa ước hay là chết. Đó là một vấn đề then chốt của tình thế cách mạng Nga lúc bấy giờ, mà Lenin đã kiên quyết phải ký kết hòa ước, nhằm tạo ra một thời kỳ hòa bình nhất định để củng cố chính quyền Xô viết, xây dựng lực lượng vũ trang mới của giai cấp công nhân và tổ chức lại hệ thống kinh tế để có thể tổ chức cho cuộc chiến tranh tiếp theo, đủ sức mạnh để có thể bảo vệ Tổ quốc.
Tất cả các thế lực phản cách mạng đều ủng hộ việc không ký kết hòa ước, từ bọn Menshevik, xã hội cách mạng, bạch vệ, tư sản, địa chủ, các tầng lớp phong kiến cũ, …, tất cả đều muốn mượn tay Đế quốc Đức hòng mưu toan đập tan Chính phủ Bolshevik. Trong thời điểm đó, bên trong hàng ngũ của Đảng cũng xuất hiện những kẻ đồng lõa và tán thành những quan điểm của tất thảy bọn phản cách mạng: phái “cộng sản cánh tả”. Họ gồm có: Trotsky, Bukharin, Radek, Pitakov. Họ đấu tranh cực liệt chống quan điểm hòa ước của Lenin, đòi tiếp tục chiến tranh. Ngày 10 tháng Hai 1918, theo mệnh lệnh của Ban chấp hành Trung ương chỉ thị buộc phải ký hòa ước, Trotsky, trưởng phái đoàn Xô viết tại Brest - Litovsk đã vi phạm mệnh lệnh của Trung ương Đảng, tự ý tuyên bố từ chối ký kết hiệp ước hòa bình và đồng thời tự tuyên bố giải ngũ quân đội mặc cho việc Đức có đồng ý hay không. Kết quả, đế quốc Đức xé bỏ việc đình chiến và tung những cú đấm vào hàng ngũ quân đội Nga đang trên đường tan rã, kết quả là những tổn thất nghiêm trọng đã xảy ra, quân Đức chiếm nhiều vùng trọng yếu và uy hiếp thủ đô Petrograd. Sự vi phạm mệnh lệnh của Đảng của Trotsky đã đẩy nước Nga vào những tổn thất lớn hơn và phải chịu cái giá là một bản hiệp ước đình chiến bất lợi, và dã man hơn, mất toàn bộ vùng Baltic, Ba Lan, Ukraina và phải bồi thường phí chiến tranh. Trong những ngày ấy Lenin đã nói rằng Trotsky và Bukharin “thực tế giúp bọn Đức và ngăn cản bước tiến và sự phát triển của cách mạng Đức” (Lenin toàn tập, tập XXII, tiếng Nga, tr.307)
Nhưng phái “cộng sản cánh tả” không chấp nhận thực sự rằng họ đã sai, rằng họ đã gây tổn thất cho sự nghiệp cách mạng không chỉ của nước Nga Xô viết, mà còn của Đức. Họ tiếp tục dấn sâu vào con đường chống Lenin và chống Đảng. Tỉnh ủy Moskva ngày đó tạm thời do “cộng sản cánh tả” nắm đa số, gồm có Bukharin, Ossinsky, Yakoleva, Stukov và Mantsev, đã thông qua một nghị quyết chia rẽ rằng họ không tín nhiệm Ban chấp hành Trung ương. Chưa bao giờ, từ hồi đảng Bolshevik mới thực sự thành lập (1912) cho đến năm 1918, một sự phản bội và chống Trung ương Đảng như thế lại xảy ra. Và chúng ta đều biết, việc tỉnh ủy Moskva ra nghị quyết như vậy là vi phạm Điều lệ của Đảng, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Để đập tan những hành động lạ lùng và nguy hại ấy, Đảng đã triệu tập Đại hội VII (6/3/1918). Tại Đại hội Lenin đã nhấn mạnh:
<< ...Cuộc khủng hoảng nặng nề mà đảng ta đương trải qua do sự hình thành nhóm đối lập phái tả trong đảng là một trong những cuộc khủng hoảng trầm trọng nhất mà cách mạng Nga đã trải qua >> (Lenin toàn tập, XXII, tiếng Nga, tr.321)
Với 30 phiếu thuận, 12 phiếu chống và 4 phiếu trắng, Nghị quyết về hòa ước Brest-Litovsk do Lenin đề xuất đã được thông qua. Đại hội đã lên án lập trường của Trotsky và Bukharin, và đảng đã cô lập hoàn toàn nhóm “cộng sản phái tả”. Việc ký kết hòa ước đã tạo cho nước Nga Xô viết một thời gian hòa bình ngắn để tái tổ chức lại, lập ra đội quân công nông, tổ chức nền kinh tế, ….chính là những cơ sở, nguồn lực cho những năm Nội chiến. Không có hòa ước Brest-Litovsk, cách mạng Nga sẽ bị quân thù đè bẹp trong vũng máu của các cuộc tàn sát.
Công tác quan trọng nhất trong năm 1918 đó chính là bước đầu củng cố và phát triển nền kinh tế Xô viết, chính là triển vọng của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước Nga. Tất cả những vấn đề đó đã được diễn giải trong tác phẩm nổi tiếng của Lenin, “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết”. Nhưng phái đối lập “cộng sản phái tả” lại tiếp tục chống Lenin trên những vấn đề này. Bukharin, Ossinsky và nhiều kẻ khác đã chống lại việc thực hiện chế độ kỷ luật, chống lại việc thi hành chế độ nhất trưởng trong xí nghiệp, chống lại việc sử dụng chuyên gia trong công nghiệp, chống lại việc hạch toán kinh tế. Họ coi các chính sách ấy là thiết lập lại trật tự của giai cấp tư sản, đáng lẽ là phải đập tan nó đi, đồng thời họ tán thành quan điểm nước Nga không thể xây dựng Chủ nghĩa xã hội của Trotsky, một quan điểm Menshevik đã có từ 1915, trước cả khi Trotsky đầu quân sang Đảng Bolshevik.
Đại hội VIII của Đảng tổ chức vào tháng 3/1919. Tại Đại hội này, phái đối lập vẫn không ngừng chống Lenin. Cụ thể, Đại hội đã chấp nhận đề nghị của Lenin khi nói về chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn cao nhất của chủ nghĩa tư bản, thì ghi thêm trong Cương lĩnh chính trị của Đảng một đoạn nói về chủ nghĩa tư bản công nghiệp và nền kinh tế hàng hóa đơn giản. Bukharin đã không tán thành điều đó và đòi xóa bỏ nó, không tán thành việc nói về chủ nghĩa tư bản, về kinh tế hàng hóa nhỏ, và về trung nông. Đại hội đã bác bỏ quan điểm đó của Bukharin. Đại hội còn bác bỏ quan điểm phi Bolshevik về vấn đề dân tộc của Bukharin và Pitakov. Cả hai đều phản đối việc ghi vào cương lĩnh đoạn nói về quyền tự quyết dân tộc, phản đối sự bình đẳng và pháp luật của các dân tộc, viện dẫn rằng nó sẽ cản trở thắng lợi của cách mạng vô sản quốc tế. Lenin đã bác bỏ những quan điểm sô-vanh nước lớn đó. Vấn đề xây dựng Hồng quân công nông có một vị trí quan trọng, phe đối lập xuất hiện dưới tên gọi phái “đối lập quân sự”, thực chất đây là những thành viên của phái “cộng sản phái tả” cũ, sau khi bị tan rã, họ tập trung trong một tổ chức mới, nhằm chống lại các vấn đề mới. Nhưng “đối lập quân sự” không đi cùng Trotsky, tại Đại hội VIII, họ chống lại Trotsky, khi ấy là Tổng tư lệnh Hồng quân. Họ bất bình với sự lãnh đạo của Trotsky, phản đối việc Trotsky tôn sùng các chuyên gia quân sự quân đội Sa hoàng, chống lại thái độ thù địch của Trotsky đối với các đồng chí Bolshevik cũ trong quân đội, việc Trotsky đề nghị xử bắn và trấn áp quá tay các đồng chí trong quân đội, buộc Trung ương phải can thiệp. Không chỉ đấu tranh chống “cộng sản phái tả”, “Trotsky”, Trung ương Đảng còn phải đấu tranh chống phái “đối lập quân sự” trên một số vấn đề như, chống tàn tích của chủ nghĩa du kích trong quân đội, đấu tranh cho việc thành lập Hồng quân chính quy, củng cố kỷ luật, dùng chuyên gia quân sự.
Tháng 3/1919, Đại hội IX của Đảng được triệu tập, lần này nhiệm vụ của Đảng là đánh tan một nhóm mới nổi, nhóm “tập trung dân chủ chủ nghĩa”. Họ phản đối chế độ thủ trưởng và chế độ trách nhiệm cá nhân của giám đốc trong công nghiệp, bênh vực chế độ tập thể vô hạn và sự vô trách nhiệm trong việc lãnh đạo công nghiệp. “Lãnh tụ” của các phái này gồm có Sapronov, Ossinsky, Smirov. Nhóm này được Tomsky và Rykov ủng hộ tại Đại hội IX.
Sau khi Nội chiến kết thúc, nước Nga Xô viết cần chuyển sang hòa bình xây dựng kinh tế và do đó phải thanh toán chế độ cộng sản thời chiến. Tuy nhiên, chính trong thời điểm chuyển giao này, các phái đối lập tiếp tục công kích Trung ương Đảng. Trotsky, nhóm “đối lập công nhân”, “cộng sản phái tả”, “tập trung dân chủ”,... tất cả đều dao động hoang mang trước những khó khăn của con đường chuyển sang hòa bình xây dựng kinh tế. Trong đảng lúc bấy giờ có nhiều loại “cựu”, những người trước kia là Menshevik, xã hội chủ nghĩa cách mạng, Bun Do Thái, phái “Đấu tranh” và các nhà dân tộc chủ nghĩa các miền biên thùy của Nga. Nội chiến thắng lợi đã đưa một loạt các thành phần đủ loại gia nhập vào hàng ngũ của Đảng, họ những người chưa được rèn luyện qua thử thách của cách mạng, những người chưa rèn luyện tinh thần của chủ nghĩa Lenin và còn chưa biết chủ nghĩa Lenin là gì. Ngày hôm qua họ còn là địch, là những kẻ nằm chờ thời, ngày nay họ xin vào Đảng vì Đảng đang mạnh và giữ chính quyền và sẽ còn giữ chính quyền trong một thời gian dài. Những kẻ đó mang theo mầm mống của chủ nghĩa cơ hội vào trong Đảng.
Trotsky là người khởi xướng cuộc tranh luận và cuộc đấu tranh chống Lenin và Ban chấp hành Trung ương. Trotsky phát biểu trong cuộc họp các đại biểu đảng viên cộng sản dự hội nghị đại biểu V của các công đoàn toàn Nga đầu tháng Mười một 1920, nêu ra khẩu hiệu “xiết chặt đinh ốc” và “rũ sạch các công đoàn”. Các Trotskyist đã đi đến chỗ đòi “Nhà nước hóa công đoàn”, phản đối phương pháp thuyết phục quần chúng công nhân, dùng phương pháp cưỡng bách, pháp lệnh; phản đối mở rộng dân chủ trong công đoàn; phản đối chế độ bầu cử các cơ quan công đoàn.
Nhóm “đối lập công nhân” do Shlyapnikov, Medvedyev, Kollontai cầm đầu, đã đưa ra khẩu hiệu trao quyền quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân cho “Đại hội những người sản xuất toàn Nga”. Nhóm này phủ định vai trò của đảng, phủ nhận vai trò của chuyên chính vô sản trong việc xây dựng kinh tế. Nhóm này đem đối lập công đoàn với Đảng và Nhà nước Xô viết, xem công đoàn là hình thức tổ chức cao nhất, nhóm này có khuynh hướng sa vào con đường của các nhà vô chính phủ công đoàn chủ nghĩa.
Nhóm “tập trung dân chủ” gồm Sapronov, Drobnis, Boguslasky, Ossinsky, Smirnov cầm đầu, đòi tự do hoàn toàn cho các phái và nhóm nhỏ. Phái này đi lại vết xe đổ của đám Menshevik từ hồi 1903-1905, thực chất là họ đứng hẳn trên lập trường tiểu tổ của chủ nghĩa Menshevik. Nhóm này chống Lenin kịch liệt.
Nhóm “cộng sản phái tả” gồm có Bukharin, Preobrazhensky, Serebryakov và Sokolnikov cầm đầu. Nhóm này thực chất là đi theo con đường của Trotsky và ủng hộ lập trường của Trotsky, chống lại lập trường công đoàn của Lenin.
Lenin và Ban chấp hành Trung ương Đảng đã đấu tranh bảo vệ vấn đề công đoàn, xem công đoàn là trường học quản lý, trường học làm chủ, trường học chủ nghĩa cộng sản. Công đoàn hoạt động bằng lối thuyết phục quần chúng. Trong cuộc đấu tranh bảo vệ vấn đề công đoàn, gay gắt nhất là ở Moskva. Hầu hết phe đối lập tập trung tại đây, và họ mưu toan chiếm đa số trong Ban chấp hành tỉnh đảng bộ thủ đô Moskva. Nhưng cuối cùng thất bại, tỉnh đảng bộ Moskva đã ủng hộ Lenin và Ban chấp hành Trung ương. Ngoài ra những nơi khác đều ngả hẳn về Trung ương. Ví dụ như ở Ukraina, đồng chí Molotov và Ban chấp hành Trung ương Đảng Ukraina đã giành chiến thắng trước những Trotskyist và Shlyapnikovist. Ở Baku (Azerbaijan), đồng chí Ordjonikidze đã đập tan phái đối lập. Ở Trung Á, Kaganovich cũng đập tan phe đối lập. Kết quả, hầu hết các địa phương trong cả nước đều ủng hộ lập trường của Lenin và Ban chấp hành Trung ương, bác bỏ các đề nghị của các phái đối lập.
Tháng 3/1921, Đại hội X của Đảng đã khai mạc. Tại Đại hội, Lenin đã lên án tất cả các phái đối lập và cho rằng sự tồn tại của các phái đối lập đe dọa sự thống nhất trong Đảng. Đại hội đã thông qua báo cáo của Lenin và chỉ thị ngay lập tức giải tán tất cả các nhóm bè phái và các nhóm đối lập trong Đảng, bất cứ ai không chấp hành nghị quyết của Đại hội sẽ lập tức khai trừ khỏi Đảng. Nghị quyết Đại hội ghi rõ:
<<Tuy vậy, ngay từ trước khi có cuộc tranh luận về vấn đề công đoàn trong toàn đảng, trong đảng đã có những dấu hiệu bè phái, nghĩa là đã thấy xuất hiện những nhóm có lập trường riêng và có xu hướng muốn đứng riêng rẽ đến một mực nào đấy và muốn lập ra kỷ luật riêng của nhóm mình. Cần phải làm sao cho tất cả những công nhân giác ngộ nhận thức rõ rằng bất kỳ thứ bè phái nào, thì cũng đều có hại và không thể dung thứ được, vì hoạt động bè phái thực tế nhất định sẽ đưa đến chỗ làm suy yếu sự hòa hợp trong công tác và làm cho kẻ thù đang bám lấy đảng chấp chính tăng cường việc lặp lại những mưu toan khoét sâu sự chia rẽ và lợi dụng sự chia rẽ ấy để đạt mục đích phản cách mạng>> (Nghị quyết Đại hội X của Đảng Cộng sản (B) Liên Xô)
Đại hội X đã thông qua một chủ trương lớn của Đảng, đó là Chính sách kinh tế mới (NEP). Chính sách kinh tế mới là “một sự tụt lùi tạm thời” so với chính sách Cộng sản thời chiến, nói đúng hơn, nó tụt lại đúng vị trí đáng ra phải đứng, còn chủ nghĩa cộng sản thời chiến lại là một dấu hiệu tả hơi quá, nó đi trước cái vị trí đáng lẽ ra nó phải đứng. Nhưng không phải ai trong đảng cũng hiểu Chính sách kinh tế mới của Lenin, những kẻ đối lập tiếp tục công kích. Có hai loại. Một loại như Lominadze, Shatskin, … chứng minh rằng Chính sách kinh tế mới là một sự phản bội đối với Cách mạng tháng Mười, rằng đang trên con đường quay trở lại chủ nghĩa tư bản; Một loại như Trotsky, Radek, Zinoviev, Kamenev, Shlyapnikov, Sokolnikov, Bukharin, Rykov, … những người không tin rằng nước Nga có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trong phạm vi một nước.
Hai loại ấy đều xa lạ với Chủ nghĩa Lenin. Và Lenin, đã tiến hành cuộc thanh đảng vào năm 1921 nhằm loại khỏi đảng <<...những tên ăn cắp, những tên quan liêu hóa, những tên gian dối không trung thực, những đảng viên mềm yếu không kiên quyết, và những tên Menshevik bên ngoài đã thay đổi “bộ mặt” nhưng trong thâm tâm vẫn là Menshevik>> (Lenin toàn tập, tập XXVII, tiếng Nga, tr.13). Kết quả là có 170.000 người bị khai trừ khỏi Đảng, tức 25% tổng số đảng viên. Việc thanh đảng làm cho đảng mạnh hơn, củng cố thành phần và tăng tính kỷ luật.
Đại hội XII của Đảng họp tháng Tư 1923, tại Đại hội này, lần đầu tiên, Lenin vắng mặt, Người ốm nặng. Nhưng những lời giáo huấn của Lenin vẫn tiếp tục là kim chỉ nam cho Đảng. Stalin đã thay mặt Lenin trở thành đại diện của Ban chấp hành Trung ương Đảng tranh luận với các thành viên đối lập. Đại hội đã bác bỏ những đề nghị của phái đối lập khi quan niệm rằng Chính sách kinh tế mới là sự ly khai khỏi lập trường xã hội chủ nghĩa. Đại hội còn phê phán các ý kiến của Radek, Krassin thuộc nhóm Trotsky đã đưa ra luận điệu đó. Đại hội cũng bác bỏ quan điểm của Bukharin và Sokolnikov khi đề nghị từ bỏ độc quyền ngoại thương. Đại hội lên án việc Trotsky đề nghị một chính sách tai hại cho nông dân, sự không thừa nhận liên minh công - nông. Đại hội còn đi đến chỗ đập tan những xu hướng dân tộc chủ nghĩa trong đảng như Mdivani, Sultan Galiev, Faizulla Khodjayev.
Trong suốt thời kỳ sau đó, tình hình sức khỏe của Lenin chuyển biến xấu, gần như Người không thể tham gia các phiên họp, Stalin thường xuyên trực tiếp đến gặp Lenin để trao đổi về tình hình Đảng. Lợi dụng lúc Lenin vắng mặt, phái đối lập đã tiếp tục mở ra những cuộc tranh luận mới. Trotsky đã cầm đầu phái đối lập thảo ra cái gọi là Cương lĩnh phái đối lập hay Tuyên bố của 46 người đối lập nhằm chống lại các nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng. Thành phần của họ gồm có tàn dư của tất cả các nhóm đối lập cũ : cộng sản phái tả, tập trung dân chủ, đối lập công nhân. Tiếp tục là những khẩu hiệu cũ rích đã bị Lenin đánh bại tại Đại hội X, và Đại hội XI, sau đó là Đại hội XII. Họ tiếp tục kêu gào rằng cách mạng Nga không thể giành thắng lợi, thất bại của cách mạng Đức và Hungary đã cho thấy khả năng không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi một quốc gia (vì họ trông chờ vào cách mạng Tây Âu); họ đòi cho phép thành lập các nhóm, tiểu tổ đối lập. Như vậy, phái đối lập đã đi đến chỗ không chấp hành Nghị quyết Đại hội X, mưu toan xé bỏ nghị quyết cấm bè phái của Lenin. Trotsky không ngừng công kích và bôi nhọ bộ máy của Đảng và Nhà nước và Trung ương Đảng. Ông ta viết một bức thư trong đó rêu rao rằng bộ máy Đảng đã thoái hóa, bôi nhọ các đảng viên Bolshevik, tự tâng bốc mình như một vai trò dẫn dắt Đảng trong tương lai. Bản Cương lĩnh 46 người và bức thư do Trotsky viết, đã được phái đối lập sao thành nhiều bản và gửi đi khắp các cấp bộ, chi bộ cơ sở của Đảng trong toàn quốc hòng tổ chức một cuộc tranh luận mới trong Đảng.
Cần phải nói là tình hình Liên Xô năm 1924 còn rất nhiều khó khăn, kinh tế đang khôi phục từng bước, chưa thanh lý hết tất thảy tàn tích của Nội chiến. Nhưng Đảng vẫn một lòng hướng đến sự hòa giải và thống nhất nên đã chấp thuận việc tổ chức các cuộc tranh luận do phái đối lập khởi xướng. Có hai nguyên nhân: Đảng muốn thông qua cuộc tranh luận này mà phân biệt cho mọi người thấy đâu là Chủ nghĩa Lenin, đâu là chủ nghĩa Trotsky; Đảng muốn thông qua cuộc tranh luận này mà giáo dục cho các lớp đảng viên trẻ, những đoàn viên thanh niên cộng sản, những người chưa từng trải qua những năm tháng cách mạng hay kinh nghiệm còn ít, những người chưa thực sự trưởng thành về mặt lý luận; Đảng muốn đập tan nát những mớ lý luận và quan điểm sáo rỗng của phái đối lập, trên một cơ sở là tranh luận công khai và dân chủ, để toàn đảng, toàn dân, toàn quân biết phái đối lập là những kẻ như thế nào. Kết quả là, giống như trước, phe đối lập thất bại hoàn toàn trong các cuộc tranh luận, chỉ một số ít chi bộ trường đại học và một số cơ quan bỏ phiếu (do các thành viên phe đối lập nắm đa số), còn trong công nhân và quần chúng, họ một lòng ủng hộ Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Tháng Giêng 1924, hội nghị XIII của Đảng họp sau khi Lenin vừa mất. Hội nghị bày tỏ đối với sự mất mát to lớn mà Đảng vừa phải trải qua. Lãnh tụ không còn nữa, nhưng phe đối lập thì tấn công điên cuồng. Chính tại Hội nghị này, Ban chấp hành Trung ương đã thông qua một tuyên bố lên án những hành động của phe đối lập vừa qua và xem đó là những khuynh hướng tiểu tư sản đi chệch khỏi chủ nghĩa Mác trong Đảng. Đại hội V của Quốc tế Cộng sản đã tán thành những nghị quyết của Hội nghị XIII, trong phong trào công nhân và cộng sản quốc tế do Quốc tế Cộng sản lãnh đạo bắt đầu quá trình thanh lọc những phần tử bị tiêm nhiễm tư tưởng của phe đối lập.
Mùa thu năm 1924, Trotsky vẫn chưa chịu chấp nhận sự thật rằng ông ta đã thất, ông ta đã viết cuốn sách có nhan đề “Những bài học tháng Mười”, trong đó mưu toan xét lại một số quan điểm của Lenin và hành động của Lenin trong thời kỳ tổ chức khởi nghĩa tháng Mười; mưu toan thay thế Chủ nghĩa Lenin bằng Chủ nghĩa Trotsky; tự tâng bốc vai trò cá nhân của mình với tư cách là Chủ tịch Xô viết Petrograd hòng đánh lập con đen rằng chính ông ta mới là người lãnh đạo cuộc Khởi nghĩa tháng Mười. Toàn Đảng bức xúc với tác phẩm đó của Trotsky, ngay cả trong hàng ngũ những thành viên phe đối lập, có những người từng tham gia trong thời kỳ ấy cũng không tán thành. Tiêu biểu là vợ của Lenin - Krupskaya, mặc dù là thành viên của phe đối lập, nhưng trong một bài phát biểu, bà đã lên án và chỉ trích về những hành động xuyên tạc của Trotsky và mưu toan thay thế Chủ nghĩa Lenin bằng Chủ nghĩa Trotsky của ông ta. Để đáp trả những hành động đó của Trotsky, Stalin đã thay mặt Trung ương Đảng viết tác phẩm “Những nguyên lý của Chủ nghĩa Lenin”, trong đó đồng chí đã bảo vệ về mặt tư tưởng của Chủ nghĩa Lenin, về sự khác biệt giữa Chủ nghĩa Lenin và Chủ nghĩa Trotsky là gì. Không dừng lại, Stalin còn liên tục viết những bài viết chất lượng như “Chủ nghĩa Trotsky hay Chủ nghĩa Lenin” đọc tại hội nghị của đảng đoàn trong Hội đồng Trung ương các công đoàn Liên Xô, hay tác phẩm “Cách mạng tháng Mười và sách lược của những người cộng sản Nga” trong đó, Stalin đã trích dẫn các nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng trong thời kỳ Khởi nghĩa tháng Mười, minh chứng cho thấy rằng những lời nói của Trotsky trong cuốn sách “Những bài học tháng Mười” là những câu chuyện hoang đường, Stalin còn chứng minh cho mọi người thấy rằng Trotsky khi đó mặc dù là Chủ tịch Xô viết Petrograd nhưng thực chất cũng chỉ giống như bao đảng viên khác của Đảng Bolshevik, đều chấp hành các nghị quyết của Trung ương, và cơ quan đảng lãnh đạo khởi nghĩa Cách mạng tháng Mười được bầu ngày 16 tháng Mười, trong đó không hề có tên của Trotsky. Như vậy, thực chất, tác phẩm “Những bài học tháng Mười” của Trotsky chỉ là những câu chuyện mà ông ta bịa ra nhằm tâng bốc bản thân. Đại hội XIII của Đảng được triệu tập vào tháng Năm 1924, Đại hội dựa trên sự thắng lợi của Hội nghị Trung ương XIII, đã đi đến chỗ lên án Cương lĩnh của phe đối lập, phê phán khuynh hướng chống và xét lại Chủ nghĩa Lenin, lên án những hoạt động của Trotsky.
Năm 1925 có ý nghĩa to lớn trong cuộc đấu tranh của Đảng chống phái đối lập. Trước mắt, năm 1925, Liên Xô căn bản đã khôi phục xong những tàn tích của chiến tranh, mặc dù sức sản xuất chỉ mới đạt ¾ mức trước chiến tranh, nhưng cũng đủ mở ra những khả năng, phương hướng mới trong việc phát triển kinh tế, xây dựng những cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Chính thời điểm này, vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đã trở thành một vấn đề thực tiễn. Và đây cũng chính là vấn đề then chốt, vấn đề mâu thuẫn chủ yếu giữa phái đối lập với Ban chấp hành Trung ương Đảng. Trước đây, vấn đề này chưa được đề cập nhiều, nguyên nhân là vì nó chưa tới lúc, chưa có những cơ sở thực tiễn, nhưng đến năm 1925, khi những tiền đề, cơ sở đã xuất hiện thì vấn đề này trở thành một trong những vấn đề chủ chốt. Mà ở đây như chúng ta đã biết, cầm đầu phe đối lập là Trotsky luôn có thái độ chống quan điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi một nước của Lenin, từ hồi những năm 1915.
Lần này các phái đối lập tấn công và mưu toan tấn công mãnh liệt hơn nữa vào Đảng. Nhóm do Trotsky cầm đầu thì chủ trương thuyết “Cách mạng thường trực” trông chờ vào cách mạng Tây Âu và chế giễu rằng không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhóm do Bukharin cầm đầu thì chủ trương tiếp tục phát triển kinh tế tư nhân với khẩu hiệu “Hãy làm giàu đi”. Nhưng nhóm nổi trội nhất lần này là nhóm của Zinoviev và Kamenev. Tại Đai hội XIV, họ đã triệu tập ở Leningrad cái gọi là “phái đối lập mới”. Khác với trước kia, có thể nói, lần này là rất nghiêm trọng. Nếu trước kia phái đối lập chỉ tập trung trong các nhóm, tiểu tổ nhỏ, thì lần này họ tập trung trong một Trung tâm lớn của Đảng ở thành phố Leningrad, mưu toan chống Ban chấp hành Trung ương.
Tháng Mười hai 1925, Đại hội XIV của Đảng được triệu tập. Trong Đại hội, Zinoviev và Sokolnikov đã đề xuất một kế hoạch kinh tế như sau: Liên Xô tiếp tục là một nước nông nghiệp với sản xuất chủ yếu là nguyên liệu và lương thực, xuất khẩu những thứ đó và nhập về những loại máy móc mà ở Liên Xô không có khả năng chế tạo. Hay nói cách khác, biến Liên Xô phụ thuộc vào thị trường các nước đế quốc chủ nghĩa thù địch. Và tất yếu, kế hoạch đó sẽ đi đến chỗ đẩy Liên Xô vào con đường diệt vong vì phụ thuộc vào hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa. Còn kế hoạch khác do Stalin chủ trương đó là tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, với ý định mau chống biến Liên Xô trở thành một cường quốc công nghiệp; tạo ra những cơ sở sản xuất xã hội chủ nghĩa có trình độ phát triển cao, năng suất lớn hòng từng bước đánh bại những thành phần kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tiểu nông; hòng tạo ra những cơ sở cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tương lai. Đại hội XIV đã đi đến chỗ tán thành kế hoạch kinh tế của Stalin. Trong bài kết luận của báo cáo Ban chấp hành Trung ương ngày 23/12/1925, đồng chí Stalin đã vạch trần những quan điểm chống lại “khả năng có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội” trong phạm vi một nước của Zinoviev và Kamenev, Stalin đã chứng minh rằng lập trường của Zinoviev và Kamenev thực chất chỉ là quanh đi quẩn lại lập trường Menshevik của Trotsky, xung quanh cái lập trường chống Lenin đã bị Lenin đập nát.
Thất bại tại Đại hội XIV đã làm Zinoviev tỏ ra bất mãn. Phái đối lập mới đã triệu tập Ban chấp hành tỉnh đoàn thanh niên cộng sản Leningrad. Dưới sự ủng hộ của Zinoviev, Zalutsky, Bakayev, Yevdokimov, Kuklin, Safarov, và tại đây, một nghị quyết chưa từng có trong lịch sử đã ra đời. Ban chấp hành tỉnh đoàn thanh niên cộng sản Leningrad đã ra nghị quyết không phục tùng các nghị quyết của Đại hội XIV của Đảng. Nhưng, những quan điểm đó không phải là sự phản ánh của đoàn thanh niên cộng sản ở Leningrad, mà chỉ phản ánh tâm trạng bất mãn của các lãnh đạo của họ trong tổ chức này, và chính bởi vì nó thiếu cơ sở ủng hộ rộng rãi của quần chúng, cho nên những kẻ bất mãn này nhanh chóng bị loại khỏi tổ chức, bắt đầu từ những chi bộ nhỏ đi lên. Trung ương Đảng còn phái các đồng chí Molotov, Kirov, Voroshilov, Kalinin, Andreyev và một số đồng chí đã đến Leningrad, diễn thuyết, giải thích các quan điểm của Trung ương Đảng cho các chi bộ, tiểu tổ hiểu đúng và rõ quan điểm của Trung ương Đảng. Hội nghị bất thường của Đảng bộ Leningrad được triệu tập và tại đây, với 97% sự ủng hộ, Hội nghị đã bác bỏ những quyết nghị của Ban chấp hành tỉnh đảng bộ đoàn thanh niên cộng sản Leningrad, phái đối lập tại đây tan rã.
Stalin đã viết:
<<Ý nghĩa lịch sử của Đại hội XIV của Đảng cộng sản Liên Xô là ở chỗ nó bóc trần tận gốc những sai lầm của phái đối lập mới, vứt bỏ sự ngờ vực và than vãn của phe đối lập, vạch rõ ràng và rành mạch con đường đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội, đem lại triển vọng thắng lợi cho đảng, và do đó vũ trang cho giai cấp vô sản lòng tin vững chắc vào thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội>> (Stalin, Những vấn đề của chủ nghĩa Lenin).
Sự thất bại hoàn toàn về mặt chính trị của phái đối lập tại Đại hội XIV đã đẩy phái đối lập đi đến một hình thức chống đảng cao hơn trước đây. Phái đối lập, từ chỗ là các tiểu tổ, các tổ chức nhỏ, thì nay quyết định hình thành như một trung tâm Đảng trong lòng nội bộ của Đảng Cộng sản Liên Xô. Nó đi đến chỗ là những thiểu số bất đồng trong Đảng đến chỗ trực tiếp chà đạp lên Điều lệ tổ chức của Đảng Cộng sản Liên Xô. Do đó, khác với tất cả các cuộc đấu tranh chống phe đối lập trước đây, Đảng Cộng sản Liên Xô đi từ chỗ lên án, ra nghị quyết, cảnh cáo (chưa hề thi hành kỷ luật) thì nay đến chỗ phải căn cứ vào Điều lệ Đảng để tống khỏi Đảng những phần tử chống Đảng, những phần tử mưu toan bè phái chống Đảng. Tất cả những việc đó, là căn cứ trên chỉ thị của Lenin tại Đại hội Đảng lần thứ X.
Nếu trước đây, các phái đối lập là những nhóm, tổ chức tách rời cùng chống Ban chấp hành Trung ương, nhưng không phải lúc nào cũng thống nhất. Họ có thể đồng tình với nhau trong một số vấn đề, nhưng đồng thời cũng bất đồng với nhau trong những vấn đề khác. Do đó, chúng ta thường thấy, mỗi nhóm tranh luận với Ban chấp hành Trung ương ở một số vấn đề khác nhau, riêng rẽ hoặc có khi cùng chống Ban chấp hành Trung ương trong một số vấn đề chủ yếu. Nhưng từ mùa hạ năm 1926, các phái đối lập này liên minh lại với nhau và hình thành cái gọi là liên minh phái đối lập. Phái này bí mật hoạt động, họ tổ chức các nhà in bất hợp pháp, và tự thu phí “phái đối lập” (tức là đảng phí trong đảng phí, vừa đóng đảng phí Đảng, vừa đóng đảng phí phái đối lập). Những việc này đã bị bóc mẽ, nhiều kẻ bị cảnh cáo, nhưng liên minh phái đối lập đã không chấp nhận mà tiếp tục công bố cái gọi là Cương lĩnh của 83 người và mưu toan kéo Đảng tiếp tục vào cuộc tranh luận mới. Tháng Mười 1927, tức là hai tháng trước khi khai mạc Đại hội XV, Ban chấp hành Trung ương Đảng quyết định mở cuộc tiến công cuối cùng hòng đập tan phái đối lập hoàn toàn về mặt chính trị. Kết quả của cuộc tranh luận đã khiến Trotsky - Zinoviev chuốc lấy thất bại nhục nhã. Với 724.000 đảng viên tán thành chính sách Trung ương Đảng, 4.000 đảng viên tán thành cái gọi là Cương lĩnh 83 người, tức là phái đối lập chưa chiếm nổi 1% trong Đảng. Trung ương Đảng đã đi đến chỗ bác bỏ Cương lĩnh của phái đối lập, và đồng thời trên cơ sở rằng phái đối lập đã vi phạm nghiêm trọng điều lệ của Đảng Cộng sản Liên Xô, vi phạm nghị quyết Đại Hội X về tính chất bè phái, tự tổ chức nhà in bí mật và thu đảng phí “đối lập”. Ngày 14 tháng Mười một 1927, hội nghị liên tịch Ban chấp hành Trung ương và Ban giám sát Trung ương đã khai trừ Trotsky và Zinoviev ra khỏi Đảng, những kẻ còn lại bị cảnh cáo và kỷ luật. Đảng chỉ đuổi bọn đầu sỏ, còn những kẻ khác, Đảng vẫn tạo điều kiện cho họ chuộc lỗi. Đến thời điểm này, phái đối lập đã đi đến chỗ “đếm trước” của sự tan rã.
Đại hội XV khai mạc tháng Mười hai 1927, trên cơ sở của những thắng lợi bước đầu của chính sách kinh tế và thắng lợi trong việc loại khỏi hàng ngũ cộng sản những tên đầu sỏ chống Đảng. Đại hội đã quyết định thanh toán và thủ tiêu về mặt tổ chức hoàn toàn khối chống Đảng gồm những phần tử theo Trotsky và Zinoviev. Đại hội nhấn mạnh:
<<Phái đối lập đã đoạn tuyệt với chủ nghĩa Lenin về mặt tư tưởng; nó thoái hóa thành một nhóm Menshevik, đi vào con đường đầu hàng trước sức mạnh giai cấp tư sản quốc tế và trong nước, và khách quan biến thành công cụ của lực lượng thứ ba chống lại chuyên chính của giai cấp vô sản>> (Đảng cộng sản (B) Liên Xô qua các nghị quyết, phần II, tiếng Nga, tr.232).
Đại hội XV đã tán thành việc khai trừ Trotsky và Zinoviev ra khỏi Đảng, đồng thời quyết định khai trừ Radek, Preobrazhensky, Rakovsky, Pitakov, Serebryakov, I. Smirnov, Kamenev, Sarkis, Safarov, Lifshitz, Mdivani, Smilga, Sapronov, V. Smirnov, Boguslasky, Drobnis. Nói cách khác, những kẻ cầm đầu và tham gia tích cực và liên minh phái đối lập đều bị khai trừ khỏi Đảng. Đại hội XV đã đấm vỡ về mặt tổ chức của phái đối lập, làm tan rã những hình thức tổ chức công khai của họ. Ít lâu sau, trong hàng ngũ phái đối lập cũng bắt đầu xẻ lẻ, một số kẻ tuyên bố đoạn tuyệt với Chủ nghĩa Trotsky, cắt đứt liên hệ với Trotsky và Zinoviev, xin gia nhập lại Đảng. Nhưng chắc chắn một điều rằng Ban chấp hành Trung ương không thể tín nhiệm họ một lần nữa, do đó họ chỉ có thể hoạt động trong các chi bộ nhỏ, không nắm các vai trò chủ chốt, do đó từ đó về sau vĩnh viễn không thể tác động và tham gia vào các cơ cấu của các cơ quan Trung ương Đảng. Đảng đã cho họ một cơ hội sửa chửa sai lầm như thế.
Tại các phiên khôi phục đảng tịch, những kẻ từng là thành viên của liên minh phái đối lập đã tuyên bố:
- Công khai lên án Chủ nghĩa Trotsky, xem đó là hệ tư tưởng phi chủ nghĩa Bolshevik và chống Liên Xô.
- Tuân thủ và chấp hành duy nhất các nghị quyết của Trung ương Đảng và tuân theo điều lệ Đảng.
- Chấp nhận thời gian thử thách.
Đến đây, liên minh phái đối lập tan rã hoàn toàn. Hiện tượng các nhóm đối lập và bè phái trong Đảng đến đây chấm dứt tan rã. Vụ Bukharin về sau không phải là phái đối lập, đó là một khuynh hướng trong Đảng, cho nên ở đây tôi tạm không đề cập tới.
==========
Tóm:
- Trên mạng nó có những mẩu truyện "truyền thuyết" như: Stalin liên minh với Bukharin để đánh bại Trotsky-Zinoviev-Kamenev. Người ta cố ý biến Đảng Bolshevik trở thành một tập hợp của các bè phái đánh nhau. Nhưng sự thật thì không phải vậy, Stalin từ trước và sau đều đứng về phía Ban chấp hành Trung ương Đảng, còn các lãnh tụ khác thì hoạt động một cách bè phái, lập nhóm chống Ban chấp hành Trung ương. Sự thật đây chỉ là vấn đề giữa Trung ương Đảng và các nhóm bè phái và chắc chắn rằng kết cục sẽ đi đến chỗ các phe phái, bè phái đối lập tan rã.
- Trên mạng có những kiểu "truyền thuyết" như: Stalin đã sử dụng những thủ đoạn abc nào đó hòng đoạt chiếm quyền lực Đảng trong tay, đàn áp phe đối lập. Sự thật đã cho thấy phương pháp mà Đảng đánh tan phái đối lập là phương pháp hoàn toàn công khai và dân chủ - bằng các cuộc tranh luận và biểu quyết - kết quả là phe đối lập thua một cách nhục nhã khi chưa chiếm nổi 1% trong Đảng. Chỉ có những kẻ đầu óc không bình thường mới đi ảo tưởng về thế và lực của phái đối lập trong Đảng cộng sản (B) Liên Xô.
- Chúng ta thấy rõ, phái đối lập đã phát triển đến chừng nào: từ chỗ là các nhóm, tiểu tổ đến chỗ trở thành một mặt trận liên minh giữa các phái đối lập; từ chỗ là phương pháp đấu tranh bằng cách không thực thi mệnh lệnh, mở tranh luận, đến chỗ ra nghị quyết đơn phương (Leningrad), ra Cương lĩnh chính trị, tổ chức nhà in bí mật, thu đảng phí riêng, phái đối lập đã đi đến chỗ đã có cơ sở trở thành đảng chính trị riêng biệt rồi. Tất nhiên, nó sẽ tỉ lệ thuận đối với thái độ và cách phản ứng của Trung ương Đảng, đi từ chỗ: giải quyết bằng cách tranh luận, hòa giải, thuyết phục đến chỗ phải khai trừ khỏi Đảng vì các lãnh tụ phái đối lập đã vi phạm Điều lệ Đảng Cộng sản (B) Liên Xô, đã nhiều lần bị cảnh cáo nhưng không từ bỏ. Thế thì trách gì được ? Rõ ràng là tại Đại hội XII, đại hội lần đầu vắng mặt Lenin, Trung ương đã thắng, và các đại hội sau đó vẫn thắng, nhưng đã không trì chiết hay khai trừ phái đối lập mà hết lần này đến lần khác nhân nhượng, thuyết phục, thậm chí là nhiều lần đồng ý tranh luận với phe đối lập. Thế thì đâu phải là lỗi của Stalin và Ban chấp hành Trung ương khi khai trừ đảng đối với phe đối lập ? ; đâu phải là lỗi của Stalin và Ban chấp hành Trung ương khi phe đối lập mất uy tín trong đảng ?
- Stalin đóng một vai trò rất quan trọng trong việc đánh tan phái đối lập, và dĩ nhiên, đồng chí ấy trở thành mục tiêu mà phải đối lập không thể nào "tha thứ" được và không ngừng bôi nhọ đồng chí ấy trên khắp các mặt trận truyền thông và tuyên truyền. Từ năm 1924 cho đến năm 1926, trong tất cả các bài diễn văn tranh luận, Stalin đã thay mặt Ban chấp hành Trung ương tranh luận với phái đối lập, và kết quả cho thấy rằng các lãnh tụ Trotsky, Zinoviev, Kamenev và những người khác đều thất bại trước Stalin. Có thể nói, việc Stalin đập tan lý luận của phái đối lập Trotsky, Zinoviev, Kamenev có ý nghĩa giống như việc Lenin đập tan mớ lý luận Menshevik của Plekhanov, Martov, Trotsky và những người khác thời kỳ trước Hội nghị Praha 1912 (hội nghị khai trừ phái Menshevik ra khỏi đảng). Stalin đã củng cố về mặt tư tưởng cho Đảng, và củng cố lập trường của Chủ nghĩa Lenin trong Đảng sau khi Lenin qua đời. Vai trò của Stalin có một ý nghĩa quan trọng như thế.
- Việc Hội nghị XV và Đại hội XV của Đảng Cộng sản (B) Liên Xô khai trừ Trotsky, Zinoviev, Kamenev và những đầu sỏ khác ra khỏi hàng ngũ của Đảng có vai trò và tầm quan trọng không thua kém Hội nghị Praha 1912, khi đó Lenin và đảng Bolshevik quyết định khai trừ phái Menshevik ra khỏi Đảng. Điều đó củng cố Đảng về mặt tổ chức, làm Đảng trở nên mạnh mẽ hơn, làm Đảng trở nên thống nhất hơn. Vai trò của Hội nghị XV và Đại hội XV có một ý nghĩa quan trọng như thế.
- Việc khai trừ những kẻ đầu sỏ trong phái đối lập, đồng thời sau đó chấp nhận cho họ gia nhập Đảng nhưng buộc phải thử thách đã cho thấy Đảng không tin tưởng lắm vào những kẻ đối lập, và do đó ảnh hưởng chính trị của phe đối lập trong Đảng là không tồn tại trong thời gian sau đó. Phe đối lập không bao giờ được bầu lại vào Ban chấp hành Trung ương Đảng, tức là được vào lại cơ quan quyền lực của Đảng, hay nói cách khác: KHÔNG TỒN TẠI MẦM MỐNG CHO CUỘC ĐẤU TRANH TRONG ĐẢNG VỚI PHE ĐỐI LẬP TRONG TƯƠNG LAI, tức là ở đây tôi muốn nói các sự kiện 1934-1938 hoàn toàn không phải là do sợ phe đối lập abc nào đó mà phải tiến hành thanh trừng trong Đảng, tiến hành đấu tranh nội bộ trong Đảng, đó là những câu chuyện hoang tưởng của những kẻ chống chính quyền Xô viết.
Các giai đoạn của liên minh đối lập
Như đã nói, trước đây phái đối lập tồn tại không phải một tổ chức, mà nhiều tổ chức với các lãnh tụ khác nhau. Họ đôi khi đồng lòng ở một số vấn đề nhưng đôi khi lại bất đồng với nhau trong một số vấn đề. Tuy nhiên, không phải chỉ có thế, mà ngược lại, đôi khi Ban chấp hành Trung ương lại phải hòa giải bất đồng giữa các nhóm đối lập, đôi khi Ban chấp hành Trung ương phải bênh vực một số quan điểm của phái đối lập nếu như quan điểm đó là đúng. Chứ không phải tuyệt nhiên, Ban chấp hành Trung ương chống vô điều kiện với phe đối lập. Đồng thời cũng có lúc phái đối lập này tán đồng với quan điểm của Ban chấp hành Trung ương để chống phái đối lập khác. Lúc đó hoàn toàn không phải là sự liên minh nào cả, mà chỉ đơn thuần, phái này hay phái khác tán thành hoặc không tán thành quan điểm đó. Tôi lấy một số ví dụ.
Cuối năm 1924, một số đồng chí Bolshevik ở đảng ủy Leningrad đã yêu cầu khai trừ Trotsky ra khỏi Đảng. Tỉnh ủy Leningrad đã thông qua một quyết định đề nghị khai trừ Trotsky. Nhưng Ban chấp hành Trung ương Đảng đã phủ quyết đề nghị đó. Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã cử các đại biểu đến Tỉnh Leningrad, mở các cuộc tranh luận nhỏ và thuyết phục tỉnh ủy Leningrad xóa bỏ điểm nói về khai trừ Trotsky. Sau đó, Tỉnh ủy Leningrad cũng như nhóm đối lập của Kamenev cũng có yêu cầu khai trừ Trotsky khỏi Bộ Chính trị vì liên quan đến cuốn sách xuyên tạc Đảng “Những bài học tháng Mười”, nhưng Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã kiên quyết bác bỏ những đề xuất đó, chỉ cách chức Trotsky khỏi chức vụ ủy viên Bộ dân ủy Quốc phòng. Trung ương Đảng khi đó không đồng ý với đề nghị khai trừ Trotsky của Zinoviev và Kamenev, không vì sự bất đồng trong giữa các quan điểm trong Đảng mà đi đến chỗ khai trừ, trù dập nhóm đối lập này hay nhóm khác. Trung ương coi phương pháp thiếu tính dân chủ đó là phương pháp không đúng trong Đảng, không thể loại trừ người này hay người kia chỉ vì họ bất đồng trong Đảng được.
Một vấn đề khác là mâu thuẫn giữa Sarkis và Bukharin tại một Hội nghị ở Leningrad tháng Giêng 1925. Sarkis đã cáo buộc Bukharin đã rơi vào lập trường chủ nghĩa công đoàn:
<<Chúng tôi đã đọc trong báo Sự thật Moskva bài báo của Bukharin nói về những thông tín viên công nông. Những quan điểm như quan điểm mà Bukharin đang phát triển thì trong tổ chức chúng ta, tuyệt không có một ai tán thành cả. Song những quan điểm ấy, những quan điểm mà người ta có thể nói là có tính chất công đoàn chủ nghĩa, không Bolshevik, thù địch với Đảng, những quan điểm đó vẫn còn tồn tại ngay cả trong một số đồng chí có trách nhiệm. Những quan điểm đó chủ trương để cho các tổ chức xã hội của quần chúng công nhân và nông dân thoát ly Đảng Cộng sản và không chịu sự chi phối của Đảng>> (Biên bản tốc ký hội nghị đại biểu Leningrad)
Ban chấp hành Trung ương đã cho rằng Sarkis đã sai lầm trong việc này, trước nhất là mặc dù Bukharin có nhiều sai lầm trong vấn đề công đoàn, từng chống Lenin trong vấn đề công đoàn, nhưng không đồng nghĩa các lập luận đều đó sai, trong vấn đề thông tín viên công nông Bukharin đã tỏ ra là hoàn toàn có lý; thứ hai việc phản đối của Sarkis đã vi phạm nguyên tắc thảo luận trên tinh thần đồng chí mà Đảng đã quy định. Và sau đó, Sarkis đã công khai xin lỗi trên báo chí về vấn đề này. Rõ ràng Ban chấp hành Trung ương không thiên vị cho bất kỳ ai.
Hay hồi mùa hè 1925, phái đối lập Kamenev và Zinoviev đã lên án những khẩu hiệu “Hãy làm giàu đi” của Bukharin. Trung ương Đảng cũng không đồng tình khẩu hiệu đó của Bukharin và thuyết phục Bukharin nhận sai lầm. Tuy nhiên, phái đối lập Kamenev và Zinoviev làm quá vấn đề và công kích Bukharin. Trung ương Đảng đã nhắc lại rằng, chính Kamenev và Zinoviev đã nhiều lần được Đảng tha thứ vì những khuyết điểm và các hành động chống Đảng trong quá khứ của họ, từ hồi Khởi nghĩa tháng Mười 1917.
Trên đây là một ví dụ điển hình. Tiếp sau đây tôi nói đến các giai đoạn hình thành của liên minh phái đối lập hay thực chất là việc Trotskyist hóa các phái đối lập. Các giai đoạn này sẽ cho chúng ta thấy rằng, các phái đối lập từ chỗ bất đồng với nhau, chuyển hẳn sang tình trạng thống nhất, trước là thống nhất về mặt tư tưởng, sau đó là sẽ thống nhất về mặt tổ chức và hình thành những hoạt động bí mật chống Đảng. Và từ chỗ này, các nhóm đối lập dao động, có xu hướng dân chủ xã hội sẽ từng bước rơi vào lập trường chủ nghĩa Trotsky và đi đến chỗ thống nhất với Trotsky thành một tổ chức thống nhất.
GIAI ĐOẠN THỨ NHẤT: Tức trong thời gian họp Hội nghị tháng Tư của toàn thể Ban chấp hành Trung ương hồi tháng tháng Tư 1926, những bước đầu tiên của việc hình thành khối liên minh đối lập đã được chuẩn bị. Lúc đó “phái đối lập mới” của Kamenev và Zinoviev đã đạt những sự ủng hộ với phái Trotsky. Tuy nhiên, lúc này giữa hai phái vẫn còn bảo lưu một số ý kiến bất đồng, và thống nhất hành động chống Ban chấp hành Trung ương trong một số vấn đề thống nhất. Đặc điểm của nó làm cho chúng ta nhớ lại về sự tồn tại của cái gọi là Khối tháng Tám trong thời kỳ trước cách mạng tháng Mười, tức một liên minh đối lập gồm những người Menshevik và một số cựu Bolshevik đã tách rời khỏi Lenin, họ mưu toan xóa bỏ Đảng sau khi Cách mạng 1905-1907 thất bại. Thì nay, phái đối lập mới và phái Trotsky mưu tính hình thành một liên minh chính trị như thế trong Đảng hòng chống lại Ban chấp hành Trung ương.
Nhưng liên minh phái đối lập lúc đó chưa thống nhất hoàn toàn, những bất đồng giữa họ được gọi là “ý kiến bảo lưu”. Ý kiến bảo lưu đó là gì ? Xin trích một số lời của Trotsky và Kamenev để có thể hình dung:
Trotsky : <<Tôi cho rằng thiếu sót trong những điểm sửa đổi của đồng chí Kamenev là ở chỗ trong những điểm sửa đổi ấy vấn đề phân hóa của nông thôn đã được nêu lên một cách có thể nói là phần nào không phụ thuộc vào vấn đề công nghiệp hóa. Nhưng thực ra ý nghĩa và ảnh hưởng xã hội của sự phân hóa và của nhịp độ phân hóa trong nông thôn lại là do ảnh hưởng của sự phát triển và nhịp độ của công nghiệp hóa đối với toàn bộ nông thôn, quyết định>> (Biên bản Hội nghị tháng Tư Ban chấp hành Trung ương 1926).
Sau đó, Kamenev phát biểu: <<Tôi không thể tán thành phần sửa đổi của họ (tức là phần của Trotsky đối với dự thảo nghị quyết của Rykov) trong đó họ đánh giá chính sách kinh tế trước đây của đảng, tức là chính sách mà tôi hoàn toàn bảo vệ>> (Biên bản Hội nghị tháng Tư Ban chấp hành Trung ương 1926)
“Phái đối lập mới” do Kamenev và Zinoviev cầm đầu lấy làm khó chịu vì bị Trotsky phê bình chính sách kinh tế trước đây, trong thời kỳ mà Kamenev đang làm Phó chủ tịch Hội đồng dân ủy. Còn Trotsky thì không đồng tình về việc phái đối lập mới tách bạch vấn đề nông dân khỏi vấn đề công nghiệp hóa.
GIAI ĐOẠN THỨ HAI: tức là thời kỳ Hội nghị tháng Bảy 1926 của toàn thể Ban chấp hành Trung ương. Thời kỳ này, liên minh các phái đối lập chính thức hình thành, họ không còn tranh cãi về những bất đồng của nhau, mà trở thành một mặt trận thống nhất chống Ban chấp hành Trung ương, cùng nhau thảo ra Cương lĩnh của phe đối lập. Nhóm của Zinoviev đã đi đến chỗ cho rằng nhóm Trotsky đã đúng trong vấn đề về sự thoái hóa của đảng, điều đó đồng nghĩa, nhóm Zinoviev đã chấp nhận lập trường của Chủ nghĩa Trotsky. Ngược lại, Trotsky cũng ra một tuyên bố mà ở đây ông ta cho rằng những điểm nói về Zinoviev và Kamnenev là phái hữu trong Đảng trong tác phẩm “Những bài học tháng Mười” là sai lầm, rằng nguồn gốc của khuynh hướng trong đảng và sự thoái hóa trong đảng không phải là ở Kamenev và Zinoviev, mà là Ban chấp hành Trung ương, trong đó có Stalin.
Zinoviev đã phát biểu như sau: <<Chúng tôi cho rằng hiện nay không thể nghi ngờ gì nữa cả, hạt nhân cơ bản của phái đối lập 1923 - như quá trình tiến triển của đường lối lãnh đạo của phái đã chỉ rõ - đã tỏ ra là đúng, khi nó dè trước về nguy cơ đi chệch đường lối vô sản, về sự phát triển khủng khiếp của chế độ quan liêu>> ((Biên bản Hội nghị tháng Bảy Ban chấp hành Trung ương 1926)
Ở đây chính Zinoviev lại tự đi phủ định chính mình, trong thời kỳ Đại hội XIII, cũng chính Zinoviev là người lên án Trotsky và cho rằng Trotsky xét lại Chủ nghĩa Lenin, rằng Chủ nghĩa Trotsky là khuynh hướng tiểu tư sản. Giờ đây Zinoviev xí xóa và nói ngược lại. Zinoviev đã đi đến chỗ tự phủ định mình.
Còn Trotsky thì tuyên bố: <<Không nghi ngờ gì cả, trong “Những bài học tháng Mười” tôi đã gắn liền những biến động cơ hội chủ nghĩa trong chính sách với tên tuổi của Zinoviev và Kamenev. Như kinh nghiệm đấu tranh tư tưởng trong Ban chấp hành Trung ương đã chứng minh, đó là một sai lầm nghiêm trọng. Nguyên nhân của sai lầm đó là ở chỗ tôi không có khả năng theo dõi cuộc đấu tranh tư tưởng trong nội bộ của bộ bảy và không kịp thời nhận định được rằng những biến động cơ hội chủ nghĩa là xuất phát từ nhóm do đồng chí Stalin đứng đầu nhằm chống lại các đồng chí Zinoviev và Kamenev>> (Biên bản Hội nghị tháng Tư Ban chấp hành Trung ương 1926)
Sự phản bội của Zinoviev và Kamenev khi công khai việc khởi nghĩa của Đảng Bolshevik trên báo chí Menshevik và tư sản đã bị Lenin coi là một hành động phản bội đê hèn, ấy vậy mà ngày nay Trotsky lại coi đó không phải là sai lầm. Trước mắt ở đây Trotsky vừa phủ định lại chính bản thân ông ta là những người tham gia trực tiếp Bộ Chính trị và cùng bỏ phiếu trong Hội nghị liên tịch ngày 16 tháng Mười, ông ta quá hiểu rõ các hành động của Zinoviev và Kamenev; sau đó đồng thời ông ta cũng phủ định quan điểm của Lenin khi lên án Zinoviev và Kamenev; đồng thời cũng tự ông ta phủ định luôn các quan điểm của mình trong tác phẩm “Những bài học tháng Mười”. Như vậy, để bênh vực cho các đồng minh trong phe đối lập, Trotsky đã tự phủ định kinh nghiệm hoạt động cách mạng, vai trò vị trí của mình trong Đảng, trong thời gian gần 10 năm (1917-1926).
Rõ ràng đây đều là các hành động vô nguyên tắc. Đểu đấu tranh chính trị bè phái, cả hai nhóm Zinoviev-Kamenev và Trotsky đã từ bỏ các quan điểm đối lập trước đây, có tính nguyên tắc về mặt nhận thức, để liên minh lại hòng chống Ban chấp hành Trung ương - đấy là nhân tố chủ yếu của việc hình thành khối liên minh đối lập.
GIAI ĐOẠN THỨ BA: tức thời kỳ mà khối liên minh đối lập đã tổ chức cuộc tấn công công khai chống lại Ban chấp hành Trung ương cuối tháng Chín, đầu tháng Mười 1926. Đó là thời kỳ các thủ lĩnh của khối liên minh đi khắp các chi bộ trong cả nước để tuyên truyền, mở các cuộc tranh luận trong các chi bộ, đảng bộ nhằm lôi kéo lực lượng của mình, và sau đó sẽ quay trở về Trung ương mở cuộc tấn công công khai. Tuy nhiên, hầu hết các cuộc tranh luận này phe đối lập đều thất bại nặng nề, kết quả đó làm phe đối lập không thể mở một cuộc tranh luận công khai chống Ban chấp hành Trung ương sớm được. Buộc họ phải tổ chức hình thức khác chống Ban chấp hành Trung ương, đó là bằng cách thảo ra Cương lĩnh của phe đối lập.
Như vậy, ở đây liên minh các phái đối lập đã hình thành như thế, và ở đây “phái đối lập mới” của Zinoviev và Kamenev cũng chuyển hẳn sang lập trường của Chủ nghĩa Trotsky. Nhưng để làm sáng tỏ hơn nữa, chúng tôi sẽ giải thích ở phần sau.
Phái đối lập mới ngả theo Chủ nghĩa Trotsky
Vấn đề về khả năng xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi quốc gia được nêu lại và đặt rõ ràng vào năm 1925, khi Liên Xô căn bản đã khôi phục kinh tế và bước vào giai đoạn phát triển. Vấn đề này, Ban chấp hành Trung ương gặp phải sự phản đối của các phe phái đối lập, và nó trở thành cơ sở cho việc hình thành khối liên minh đối lập mai sau. Nhưng trước hết cần thấy rõ, phái đối lập mới của Zinoviev và Kamenev lúc này đã bắt đầu chuyển sang lập trường của Chủ nghĩa Trotsky. Tức, phủ nhận khả năng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội tại Liên Xô. Ban chấp hành đảng bộ Moskva hồi tháng Mười hai 1925 đã có tuyên bố như sau:
<<Cách đây không lâu ở trong Bộ Chính trị, Kamenev và Zinoviev đã bảo vệ quan điểm cho rằng chúng ta không thể khắc phục được những khó khăn trong nước do tình trạng lạc hậu về kỹ thuật và kinh tế, nếu cuộc cách mạng quốc tế không cứu thoát chúng ta. Còn chúng tôi cũng như đa số Ban chấp hành Trung ương thì lại nghĩ rằng chúng ta có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội, đang xây dựng và sẽ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, mặc dù chúng ta có lạc hậu kỹ thuật (ngay lúc này) đi nữa. Đương nhiên, chúng tôi cho rằng công cuộc xây dựng ấy sẽ được tiến hành một cách chậm hơn nhiều so với trong hoàn cảnh thắng lợi trên phạm vi thế giới, tuy vậy chúng ta đang và sẽ tiến lên phía trước. Chúng tôi cũng quan điểm của Kamenev và Zinoviev biểu lộ tâm trạng mất tin tưởng vào lực lượng nội bộ của giai cấp công nhân nước ta và của quần chúng nông dân đi theo giai cấp công nhân. Chúng tôi cho rằng quan điểm ấy xa rời lập trường leninist>> (Lời phúc đáp, đảng bộ Moskva, 12/1925).
Cuốn sách Chủ nghĩa Lenin xuất bản vào tháng Chín 1925 của Zinoviev, đã đánh dấu việc xa rời Chủ nghĩa Lenin và sa vào lập trường tư tưởng của Chủ nghĩa Trotsky trong vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội. Zinoviev viết:
<<Ít nhất cũng phải hiểu rằng thắng lợi cuối cùng của chủ nghĩa xã hội như sau: 1) thủ tiêu các giai cấp và do đó cũng là 2) thủ tiêu nền chuyên chính của một giai cấp, trong trường hợp này là nền chuyên chính vô sản>>. Zinoviev nói tiếp: <<Để hiểu rõ hơn xem năm 1925 vấn đề đó ở Liên Xô đã được đặt ra như thế nào, cần phải phân biệt hai điểm: 1) khả năng đảm bảo có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội, - tất nhiên khả năng xây dựng chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn có thể trong phạm vi một nước, và 2) xây dựng xong hoàn toàn và củng cố chủ nghĩa xã hội, tức là thực hiện chế độ xã hội chủ nghĩa, xã hội xã hội chủ nghĩa>> (Zinoviev, Chủ nghĩa Lenin, tiếng Nga, tr.291 và 293).
Nếu đọc lướt qua, khó có ai nhận ra rằng Zinoviev đã có một quan niệm sai lầm. Trước hết, tôi xin tóm tắt lại rằng vấn đề chủ nghĩa xã hội trong phạm vi một nước theo quan điểm của Lenin được hiểu như sau: 1) Xây dựng thành công và thắng lợi của Chủ nghĩa xã hội trong phạm vi một quốc gia. Có nghĩa là Liên Xô không chỉ có thể tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, mà còn có thể làm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi ở Liên Xô, hình thành xã hội xã hội chủ nghĩa. 2) Chủ nghĩa xã hội thắng lợi triệt để và hoàn toàn. Có nghĩa là sau khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì không có nghĩa là chủ nghĩa xã hội đã thắng lợi hoàn toàn và triệt để, nguyên nhân là vì chủ nghĩa xã hội mới chỉ thắng lợi trong phạm vi một nước, cho nên nó chưa đủ để xóa bỏ nguy cơ can thiệp vũ trang từ bên ngoài đối với nước xã hội duy nhất đó, vì nó đang sống giữa vòng vây của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội thắng lợi hoàn toàn và triệt để chính là ở chỗ nó xóa bỏ nguy cơ bị can thiệp vũ trang, bằng cách tạo ra một hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, hay chủ nghĩa xã hội đạt đến quy mô khu vực và thế giới chứ không còn trong phạm vi quốc gia.
Đoạn trích đầu tiên Zinoviev cho rằng thắng lợi cuối cùng của chủ nghĩa xã hội là xóa bỏ giai cấp và xóa bỏ chuyên chính vô sản, điều đó không đúng, nó phải là xóa bỏ nguy cơ can thiệp vũ trang bên ngoài. Đồng thời mối liên hệ giữa đoạn trích thứ nhất và đoạn trích thứ hai cũng sẽ đi đến chỗ không đúng khác. Đoạn trích thứ hai hàm ý rằng thắng lợi hoàn toàn (và triệt để) của chủ nghĩa xã hội là khi đã có xã hội xã hội chủ nghĩa, nó có nghĩa là khi đã có được xã hội xã hội chủ nghĩa thì sẽ chấm dứt chuyên chính vô sản (liên hệ với đoạn trích thứ nhất). Nó hoàn toàn khác với Chủ nghĩa Lenin.
Chủ nghĩa Lenin đi đến kết luận rằng thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa xã hội là khi xóa bỏ được nguy cơ can thiệp vũ trang từ bên ngoài, tức là mặc dầu Liên Xô có xây dựng được xã hội xã hội chủ nghĩa thì chủ nghĩa xã hội vẫn chưa kết thúc, nó chỉ mới thanh toán khả năng phục hồi của chủ nghĩa tư bản, chứ chưa thể thanh toán nguy cơ can thiệp của chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài vào. Do đó, nếu kết thúc chuyên chính vô sản và đi đến chỗ sự tan rã của Nhà nước trong điều kiện còn nằm trong vòng vây của Chủ nghĩa tư bản. Điều đó hết sức tai hại. Chúng ta có thể hình dung như sau: Năm 1936, Liên Xô xây dựng thành công chế độ xã hội chủ nghĩa, thực hiện xã hội xã hội chủ nghĩa. Nếu như công thức của Zinoviev là đúng thì Liên Xô sẽ bắt đầu xóa bỏ chuyên chính vô sản và giải thể (lụi tàn) Nhà nước. Vậy khi Chiến tranh Vệ quốc 1941 nổ ra thì ai tổ chức và quản lý toàn bộ hệ thống kinh tế có tính chất tập trung trong thời chiến ?
Cái công thức đó của Zinoviev đã sai lệch như thế, cố nhiên, nó vẫn chưa phải là đi đến chỗ phủ định khả năng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trong phạm vi quốc gia.
Nhưng tại Đại hội XIV (12/1925), Zinoviev đã phát biểu như sau:
<<Các đồng chí hãy xem xem, chẳng hạn đồng chí Yakolev đã đi đến chỗ nói nhảm nhí như thế nào tại hội nghị đại biểu gần đây của tỉnh đảng bộ Kursk. Đồng chí ấy hỏi: “Ở một nước bị kẻ thù tư bản chủ nghĩa bao vây tứ phía, liệu rằng chúng ta có thể xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở một nước trong những điều kiện như thế, hay không ?”. Và đồng chí tự trả lời: “Căn cứ vào tất cả những điều trình bày, chúng ta có thể nói rằng không những đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà chúng ta sẽ nhất định xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, mặc dù tạm thời còn đơn độc, tạm thời còn là một nước Xô viết duy nhất, một quốc gia xô viết duy nhất trên thế giới (Sự thất Kursk, số 279, 8/12/1925)”.....Phải chăng đó là cách đặt vấn đề một cách leninist ? Chả phải ở đây đã toát lên cái tinh thần hẹp hòi dân tộc hay sao ?>>
Nếu như trong tác phẩm Chủ nghĩa Lenin hồi tháng Chín 1925, Zinoviev chỉ phạm sai lầm đó là hiểu lệch Chủ nghĩa Lenin. Thì tại Đại hội XIV, Zinoviev đi đến chỗ khẳng định lại những lời lẽ Trotsky phê phán Lenin hồi năm 1915, tức là cho rằng cổ súy cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trong một quốc gia tức là “mắc bệnh dân tộc hẹp hòi”. Chính ở điểm này, Zinoviev đã ngả về Trotsky về mặt tư tưởng, chuyển sang lập trường Chủ nghĩa Trotsky. Và đó cũng chính là cơ sở chính trị cho sự ra đời của liên minh phái đối lập của “phái đối lập mới” của Zinoviev - Kamenev và phái Trotsky.
Lược sử vấn đề “khả năng thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội trong phạm vi quốc gia”
Lenin là người đầu tiên và phân tích sâu nhất về chủ nghĩa đế quốc trong giai đoạn mới, và từ đó Người đã đặt ra vấn đề về khả năng chủ nghĩa xã hội có thể thắng lợi trong riêng từng nước tư bản chủ nghĩa và từ đó Người đi đến chỗ khẳng định rằng có thể. Vào năm 1915, trên tờ báo Người dân chủ xã hội, cơ quan báo Trung ương của Đảng Bolshevik đã đăng tải một bài viết do Lenin là tác giả, có nhan đề “Bàn về khẩu hiệu Liên bang Châu Âu”. Trong đó Người viết:
<< Song, nếu coi khẩu hiệu Liên bang thế giới là một khẩu hiệu độc lập, thì khẩu hiệu đó không đúng, thứ nhất là vì khẩu hiệu đó sẽ lẫn lộn với chủ nghĩa xã hội; thứ hai, vì khẩu hiệu đó có thể đẻ ra một lối giải thích KHÔNG ĐÚNG CHO RẰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHÔNG THỂ THẮNG LỢI TRONG MỘT NƯỚC DUY NHẤT ĐƯỢC và giải thích không đúng về quan hệ giữa nước đó với nước khác.
Sự phát triển không đều về kinh tế và chính trị là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản. Do đó, chúng ta thấy rằng chủ nghĩa xã hội có thể trước tiên thắng lợi trong một số ít nước tư bản chủ nghĩa hoặc ngay cả trong độc một nước tư bản chủ nghĩa nữa. Giai cấp vô sản chiến thắng của nước đó, SAU KHI ĐÃ TỊCH THU TÀI SẢN CỦA BỌN TƯ BẢN VÀ ĐÃ TỔ CHỨC NỀN SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG NƯỚC MÌNH sẽ đứng lên chống lại cái phần thế giới còn lại, tức là thế giới tư bản chủ nghĩa, bằng cách lôi cuốn những giai cấp bị áp bức ở các nước khác theo mình, bằng cách thúc đẩy họ nổi dậy chống bọn tư bản, bằng cách sử dụng khi cần, ngay cả những lực lượng quân sự, để chống lại các giai cấp bóc lột và Nhà nước của chúng>> (Lenin toàn tập, t.21, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1963, tr.339)
Thế nào là quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản, cái quy luật mà trong điều kiện đế quốc chủ nghĩa có tác dụng làm cho chủ nghĩa xã hội có khả năng thắng lợi trong một nước ?
Khi nói đến quy luật đó, Lenin xuất phát từ vấn đề là: chủ nghĩa tư bản đã phát triển thành chủ nghĩa đế quốc; nền kinh tế thế giới đã bắt đầu trong điều kiện các nhóm đế quốc chủ yếu nhất tiến hành cuộc cạnh tranh điên cuồng để chiếm lấy lãnh thổ, thị trường và nguyên liệu… dẫn đến quá trình phân chia thế giới; sự phát triển của các nước tư bản đã diễn ra không đều, có nước cao, nước thấp, có nước giàu, có nước nghèo; trình tự đó tất yếu sẽ dẫn đến các cuộc xung đột và phân chia lại thế giới; sự xung đột đó sẽ làm cho chủ nghĩa đế quốc yếu đi, và do đó mặt trận đế quốc yếu đi, và cách mạng có thể nổ ra ở một số nước hoặc thậm chí một nước. Hãy liên hệ thực tiễn, trước thế chiến thứ nhất, rõ ràng là Anh là đế quốc hùng mạnh nhất, sau đó là các đế quốc trẻ nổi lên, sự cạnh tranh và đòi chia lại thị trường giữa các đế quốc trẻ và đế quốc già đã làm nổ ra Chiến tranh đế quốc chủ nghĩa - Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918). Chiến tranh đã làm bần cùng hóa nước Nga, biến nước Nga trở thành mắt xích yếu nhất trong hệ thống các nước đế quốc chủ nghĩa và do đó tạo ra cơ sở cho Cách mạng nổ ra lật đổ chế độ Sa hoàng, sau đó là lật đổ Chính phủ lâm thời, thành lập Nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới. Vị tất, sự ra đời của nước Nga Xô viết đã minh chứng rằng công thức của Lenin là đúng đắn và hợp thời đại.
Tất nhiên, công thức của Lenin đã làm cho những người dân chủ xã hội, phái Menshevik khó chịu. Và chính vì thế nổ ra cuộc luận chiến với Trotsky hồi năm 1915. Và đây là những lời Trotsky phản đối Lenin, được đăng trên tờ báo “Lời nói của chúng ta” - một tờ báo Menshevik do Trotsky làm chủ bút ở Pari - cũng vào năm 1915, sau này nó được đăng lại trong các tuyển tập các bài viết của Trotsky dưới nhan đề “Cương lĩnh hòa bình”, xuất bản tháng Tám 1917:
<<Cái lý do thứ nhất, phần nào cụ thể, có tính chất lịch sử, để chống lại khẩu hiệu Liên bang, đã được diễn đạt trong tờ Người xã hội dân chủ ở Thụy sĩ, bằng một câu như sau: “Tình trạng phát triển không đều về mặt kinh tế và chính trị là một quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản”. Do đó, tờ báo Người xã hội dân chủ đã kết luận rằng chủ nghĩa xã hội có khả năng thắng lợi ở trong một nước duy nhất, và bởi vậy không phải cứ có Liên bang châu Âu, mới có thể thực hiện được chuyên chính vô sản trong từng nước riêng biệt. Sự phát triển tư bản chủ nghĩa ở các nước diễn ra một cách không đều, đó là một ý kiến hoàn toàn không thể tranh cãi được. Nhưng bản thân tính chất không đều ấy cũng lại hết sức không đều. Trình độ phát triển tư bản chủ nghĩa ở Anh, ở Áo, ở Đức hoặc ở Pháp, là không như nhau. Nhưng so với châu Phi và châu Á thì tất cả những nước này lại là cái “Châu Âu” tư bản chủ nghĩa đã trưởng thành để có thể tiến hành được một cuộc cách mạng xã hội. Trong cuộc đấu tranh của mình, không một nước nào nên “chờ đợi” các nước khác, đó thật là một điều sơ đẳng mà người ta nên và cần nhắc lại để cho tư tưởng chờ đợi tiêu cực trên quốc tế khỏi thay thế cho tư tưởng hoạt động đồng thời trên quốc tế. Không cần phải chờ đợi các nước khác, chúng ta bắt đầu và theo đuổi cuộc chiến tranh trên địa hạt quốc gia với tinh thần hoàn toàn chắc chắn rằng sáng kiến của chúng ta sẽ thúc đẩy cuộc đấu tranh trong các nước khác; và nếu sự thật lại sẽ không như thế, thì KHÔNG CÓ MỘT HY VỌNG NÀO ĐỂ TIN TƯỞNG ĐƯỢC - đó là điều mà kinh nghiệm lịch sử và suy luận lý luận đã chứng minh là đúng - rằng, chẳng hạn, nước Nga cách mạng sẽ có khả năng đương đầu được với châu Âu bảo thủ, hay nước Đức xã hội chủ nghĩa sẽ đứng đơn độc được ở giữa một thế giới tư bản chủ nghĩa. Đứng trên phạm vi dân tộc mà xem xét những triển vọng của một cuộc cách mạng xã hội, như thế là MẮC BỆNH DÂN TỘC HẸP HÒI, bệnh này là thực chất của chủ nghĩa xã hội ái quốc >> (Trotsky, 1917, tập III, phần thứ nhất, tiếng Nga, tr.89-90)
Có thể thấy rằng quan điểm của Trotsky và Lenin là hoàn toàn đối lập nhau. Lenin thì cho rằng chủ nghĩa xã hội có thể thắng lợi trong một nước, còn Trotsky thì cho rằng không. Lenin cho rằng giai cấp vô sản sau khi giành chính quyền sẽ trở thành một lực lượng tích cực và sáng tạo, có khả năng tổ chức nền kinh tế xã hội chủ nghĩa và tiến xa hơn nữa. Ngược lại, Trotsky cho rằng sau khi giành chính quyền, giai cấp vô sản sẽ biến thành một lực lượng bán thụ động, trông chờ vào cách mạng Châu Âu, và không có cơ hội nào có thể tồn tại nếu không có cách mạng Châu Âu.
Năm 1921, khi Đảng Cộng sản Bolshevik Nga chủ trương áp dụng chính sách kinh tế mới (NEP), Lenin lại một lần nữa nêu ra vấn đề khả năng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội dưới những hình thức cụ thể hơn, tức là khả năng có thể xây dựng được các cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Thời điểm đó, nhóm đối lập “công nhân đối lập” đã cáo buộc Lenin rằng đó là một chủ trương xa rời con đường chủ nghĩa xã hội. Để lý giải những vấn đề đó, Lenin đã viết “Bàn về thuế lương thực” và những bài viết bài nói khác liên quan đến Chính sách kinh tế mới để lý giải cho mọi người hiểu về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, trong đó có việc phải dựa vào liên minh công - nông.
Để tỏ thái độ phản đối quan điểm đó của Lenin, tháng Giêng 1922, Trotsky đã cho in “Lời nói đầu” viết cho cuốn Năm 1905, trong đó Trotsky đã phủ định khối liên minh công - nông, và phủ định khả năng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga. Trotsky viết:
<<Sau khi cướp chính quyền rồi, giai cấp vô sản sẽ có những sự xung đột thù địch không những với tất cả các tập đoàn tư sản đã ủng hộ nó trong thời kỳ đầu của cuộc đấu tranh cách mạng mà nó tiến hành, mà còn với cả đông đảo quần chúng nông dân đã giúp nó nắm chính quyền>> hay <<ở một nước lạc hậu mà đại đa số dân cư là nông dân thì những mâu thuẫn trong địa vị của chính phủ công nhân chỉ có thể được giải quyết trên phạm vi quốc tế, trên vũ đại cách mạng vô sản thế giới>> (Trotsky, “Lời nói đầu” viết cho cuốn Năm 1905, viết năm 1922)
Ở đây, hai vấn đề này cũng hết sức đối lập, Lenin cho rằng cùng với nông dân có thể xây dựng cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước Nga, thì ngược lại Trotsky cho rằng giai cấp công nhân không thể cùng đi với nông dân, và sẽ xung đột với nhau và chỉ có thể giải quyết trên vũ đài cách mạng thế giới mà thôi.
Năm 1922, trong hội nghị toàn thể của Xô viết Moskva, Lenin đã phát biểu về khả năng xây dựng chủ nghĩa xã hội:
<<Hiện nay chủ nghĩa xã hội không còn là vấn đề một tương lai xa xôi, hoặc là một bức tranh trừu tượng nào đó, hoặc là một ngẫu tượng nào đó nữa. Về ngẫu tượng, chúng ta vẫn giữ ý kiến cũ, hết sức xấu. Chúng ta đã đưa chủ nghĩa xã hội vào trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta cần nhận rõ điều này. Đó là nhiệm vụ trước mắt của chúng ta, của thời đại chúng ta. Để kết thúc, xin cho phép tôi biểu lộ niềm tin vững chắc rằng dù nhiệm vụ này có khó khăn như thế nào đi nữa, có mới mẻ như thế nào đi nữa so với nhiệm vụ trước đây, và dù nhiệm vụ ấy có gây nhiều khó khăn cho chúng ta như thế nào đi nữa, nhưng tất cả chúng ta, qua vài năm nữa chứ không phải là ngày mai, tất cả chúng ta sẽ cùng nhau giải quyết cho bằng được nhiệm vụ đó, để nước Nga chính sách kinh tế mới sẽ trở thành nước Nga xã hội chủ nghĩa>> (Lenin toàn tập, tập XXVII, tiếng Nga, tr.366)
Để đáp lại lời đó của Lenin, Trotsky đã xuất bản “Lời bạt” cho cuốn Cương lĩnh hòa bình, trong đó có viết:
<<Đối với một số độc giả, thì hình như kinh nghiệm gần năm năm của nước Cộng hòa xô viết của chúng ta đã chứng minh rằng lời khẳng định nói rằng cuộc cách mạng vô sản không thể nào kết thúc một cách thắng lợi trong phạm vi quốc gia được, tức là lời khẳng định đã được lặp đi lặp lại nhiều lần trong “Cương lĩnh hòa bình”, là một lời khẳng định không đúng. Nhưng kết luận như vậy là vô căn cứ. Nhà nước công nhân chống với toàn thế giới đã đứng vững được trong một nước duy nhất, mà lại là một nước lạc hậu, điều đó chứng tỏ sức mạnh vĩ đại của giai cấp vô sản là giai cấp, trong những nước khác tiền tiến hơn và văn minh hơn, sẽ thật sự có khả năng làm nổi những việc phi thường. Nhưng về phương diện Nhà nước, thì tuy chúng ta đứng vững về mặt chính trị và quân sự, nhưng không phải vì thế mà chúng ta đã đạt tới chỗ sáng lập ra được một xã hội xã hội chủ nghĩa, ngay cả gần đạt được tới chỗ đó, chúng ta cũng chưa đạt được. Cuộc đấu tranh để duy trì Nhà nước cách mạng của chúng ta, suốt trong thời kỳ đó, đã khiến cho những lực lượng sản xuất bị giảm sút một cách phi thường; thế mà chỉ có dựa vào sự tiến triển và sự phát đạt của những lực lượng sản xuất đó thì mới có thể xây dựng được chủ nghĩa xã hội. Những cuộc đàm phán mậu dịch với các Nhà nước tư sản, những tô nhượng, hội nghị Geneva,... là một bằng chứng quá rõ rệt rằng KHÔNG THỂ NÀO XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI MỘT CÁCH ĐƠN ĐỘC, TRONG PHẠM VI QUỐC GIA CỦA NHÀ NƯỚC ĐƯỢC...Sự phát triển chân chính của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước Nga chỉ có thể thực hiện được sau khi giai cấp vô sản trong những nước chủ yếu ở châu Âu đã giành được thắng lợi>> (Trotsky toàn tập, tập III, phần 1, tiếng Nga, tr.92-93)
Ở đây quan điểm giữa Lenin và Trotsky cũng khác biệt. Lenin cho rằng dù còn khó khăn thì nhất định nước Nga Chính sách kinh tế mới sẽ trở thành nước Nga xã hội chủ nghĩa. Còn Trotsky thì phủ định điều đấy và trông chờ vào cách mạng châu Âu.
Cuối cùng là bút ký “Bàn về chế độ hợp tác”, có thể coi là những lời di huấn chính trị của Lenin để lại cho Đảng trước khi Người tạ thế. Trong tác phẩm “Về cuộc cách mạng của chúng ta” Người viết:
<<..Chúng (những người dân chủ xã hội Quốc tế II) đã viện một lý lẽ hết sức tầm thường mà chúng đã học thuộc lòng trong thời kỳ phát triển của phái xã hội dân chủ phương Tây, lý lẽ cho rằng chúng ta chưa được thành thục để có thể thực hiện chủ nghĩa xã hội, rằng theo lời một số những nhân vật “thông thái” của chúng thì chúng ta chưa có những tiền đề kinh tế khách quan để thực hiện chủ nghĩa xã hội. Chưa thấy ai tự hỏi rằng: đứng trong một hoàn cảnh cách mạng, như hoàn cảnh đã diễn ra trong thời kỳ chiến tranh đế quốc chủ nghĩa lần thứ nhất, đứng trước một tình thế không lối thoát, thử hỏi dân tộc đó lại không có thể lăn mình vào một cuộc đấu tranh để mang lại cho mình, dù chỉ đôi chút hy vọng là đạt được những điều kiện không hẳn là thông thường, đặng phát triển nền văn minh của mình hay sao>>
<<Nếu muốn thiết lập chủ nghĩa xã hội cần phải có một trình độ văn hóa nhất định, thế thì tại sao chúng ta lại không bắt đầu trước hết bằng cách dùng biện pháp cách mạng mà giành lấy những điều kiện tiên quyết cho trình độ nhất định đó đã, rồi sau đó mới dựa trên những cơ sở một chính quyền công nông và chế độ Xô viết, mà chuyển bước để đuổi kịp được những dân tộc khác>>
<<Các anh nói là muốn tạo ra Chủ nghĩa xã hội thì phải có trình độ văn minh. Đứng lắm. Nhưng tại sao chúng ta lại không có thể bắt đầu tạo ra ở nước ta những điều kiện tiên quyết ấy của văn minh, bằng cách đuổi cổ bọn địa chủ, đuổi cổ bọn tư bản ra khỏi nước Nga, để rồi bắt đầu tiến lên chủ nghĩa xã hội ? Các anh đã học trong những quyển sách nào đấy, mà nói rằng những thay đổi như thế trong trình tự lịch sử thông thường là không thể thừa nhận được, không thể có được ?>> (Lenin toàn tập, tập XXVII, tiếng Nga, tr.399-401).
Còn trong bài Bàn về chế độ hợp tác, Lenin viết:
<<Thật vậy, việc chính quyền Nhà nước chi phối hết thảy mọi tư liệu sản xuất chủ yếu, việc giai cấp vô sản nắm giữ chính quyền Nhà nước, việc giai cá6p vô sản liên minh với hành triệu và hàng triệu tiểu nông và tiểu nông, việc giai cấp vô sản nắm vững quyền lãnh đạo nông dân … - phải chăng những việc đó không phải là tất cả những thứ cần thiết để có thể xây dựng, với việc hợp tác hóa và chỉ riêng với việc hợp tác hóa mà trước đây chúng ta coi là có tính chất con buôn, và bây giờ đây, dưới Chính sách kinh tế mới, về một vài mặt nào đó, chúng ta vẫn có quyền coi như thế - PHẢI CHĂNG NHỮNG VIỆC ĐÓ KHÔNG PHẢI LÀ TẤT CẢ NHỮNG THỨ CẦN THIẾT ĐỂ XÂY DỰNG MỘT XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TOÀN VẸN HAY SAO ? Đó chưa phải là xây dựng xong xã hội xã hội chủ nghĩa, nhưng đó là tất cả những cái cần thiết và đầy đủ để làm việc xây dựng đó>> (Lenin toàn tập, tập XXVII, tiếng Nga, tr.392).
Trên đây là hai lý luận khác nhau và đối nghịch nhau giữa Lenin và Trotsky. Trong đó, Lenin đặt ra vấn đề có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trong phạm vi một nước, còn Trotsky thì phủ định vấn đề này.
=============
Tóm:
- Lenin là đầu tiên đề cập đến vấn đề "khả năng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trong phạm vi quốc gia", chứ không phải Stalin, và do đó nó là một phần của Chủ nghĩa Lenin.
- Chính vì nó không phải là sáng tạo của Stalin, thì do đó không thể kết luận rằng Stalin đi chệch hướng khỏi Chủ nghĩa Lenin, mà rõ ràng Stalin đã đấu tranh để bảo vệ Chủ nghĩa Lenin trong phạm vi chủ đề này trước âm mưu thay thế nó bằng Chủ nghĩa Trotsky của phái đối lập.
- Như vậy, việc phái đối lập mưu toan xóa bỏ vấn đề "khả năng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trong phạm vi quốc gia" không phải là xóa bỏ đi sự sai lệch của Stalin đối với Chủ nghĩa Lenin, mà thực chất là mưu toan xóa bỏ Chủ nghĩa Lenin và thay nó bằng Chủ nghĩa Trotsky với lý thuyết Cách mạng thường trực làm trung tâm.
Chủ nghĩa Marx không phải là giáo điều mà là
kim chỉ Nam cho hành động !
Xét mà nói, Chủ nghĩa Trotsky không phải là xuyên tạc hoàn toàn những lời Marx-Engels, mà không chỉ Trotsky, cả những đảng xã hội dân chủ Quốc tế II cũng thế, họ trích dẫn lại những lời nói nổi tiếng của Marx - Engels, nhưng đôi khi máy móc và giáo điều, đôi khi nó tác động tiêu cực và phá hoại phong trào công nhân và cộng sản. Sự thật là ở đây, Lenin mới chính là người đề xuất nhiều vấn đề thậm chí là đối nghịch với những lời lẽ của Marx - Engels, nhưng sự khác biệt đó đã được lịch sử minh chứng là đúng. (sự khác biệt đó CHỈ diễn ra trong phạm vi vấn đề Chiến thuật và chiến lược của cách mạng vô sản mà thôi)
MARXIST chân chính không phải là những kẻ coi những lời lẽ của Marx-Engels như một bức tượng thạch đóng khuôn.
MARXIST chân chính là những người thấm nhuần thế giới quan cách mạng và phương pháp của Chủ nghĩa Marx rồi áp dụng nó một cách sáng tạo và phù hợp vào những điều kiện lịch sử cụ thể của thời đại mình.
Vậy vấn đề ở đây là gì ? Là ở chỗ Trotsky, Zinoviev, Kamenev hay các nhà cách mạng xã hội dân chủ Quốc tế II đã trích lại các công thức nổi tiếng của Marx - Engels một cách máy móc giáo điều và rồi họ tự cho sự giáo điều ngu muội đó của mình đúng và tự xem mình mới là marxist chân chính. Tại sao nó giáo điều ? Là vì những công thức đó đã có từ hồi giữa thế kỷ XIX, nhưng họ lại áp dụng nó vào hoàn cảnh đầu thế kỷ XX. Nói cách khác, họ mang những kinh nghiệm của thời Marx - Engels cách đấy hơn 40-50 năm để áp dụng vào hiện tại cuộc sống của họ, họ mang công thức từ thời đại trước áp dụng cho thời đại sau. Sự giáo điều đó đã biến họ trở thành những kẻ phi marxist mặc dù bề ngoài họ hay dẫn những lời lẽ marxist. Hay nói hơn, họ là những kẻ giáo điều hóa Chủ nghĩa Marx.
Vấn đề bất đồng chủ yếu trong Đảng chính là vấn đề “Xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi quốc gia”. Vấn đề này quyết định phần lớn các vấn đề mâu thuẫn khác giữa phe đối lập và Trung ương Đảng. Do đó, chúng ta đi sâu vào nó.
Trong tác phẩm trứ danh, Những nguyên lý của Chủ nghĩa cộng sản, xuất bản năm 1847, Engels đã nêu lên một công thức nổi tiếng mà các nhà dân chủ xã hội Quốc tế II và phái đối lập trong Đảng bám víu lấy:
<< Hỏi: Cuộc cách mạng đó liệu có thể xảy ra trong riêng biệt một nước nào đó không ?
Trả lời: Không. Đại công nghiệp đã tạo nên thị trường thế giới, chỉ riêng điều đó cũng đã làm cho nó gắn tất cả các dân tộc trên quả đất lại với nhau, nhất là các dân tộc văn minh, do đó mỗi dân tộc đều phụ thuộc vào tình hình xảy ra ở dân tộc khác. Sau nữa, đại công nghiệp đã san bằng sự phát triển của xã hội ở trong tất cả các nước văn minh, nên ở khắp nơi giai cấp tư sản và giai cấp vô sản đã trở thành hai giai cấp có tác dụng quyết định trong xã hội và cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp đó đã trở thành cuộc đấu tranh chủ yếu trong thời đại chúng ta. Vì vậy, cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa không những sẽ mang tính chất dân tộc mà sẽ đồng thời xảy ra ở trong tất cả các nước văn minh, tức là ít nhất cũng ở Anh, Mỹ, Pháp, và Đức. Trong mỗi một nước đó, cách mạng cộng sản chủ nghĩa sẽ phát triển nhanh hay chậm, là tùy ở chỗ nước nào có công nghiệp phát triển hơn. Cho nên, ở Đức cách mạng cộng sản chủ nghĩa sẽ thực hiện chậm nhất và khó khăn nhất, còn ở Anh thì nhanh nhất và dễ nhất. Cách mạng Cộng sản chủ nghĩa cũng có ảnh hưởng rất lớn đối với các nước khác trên thế giới, nó sẽ làm thay đổi hoàn toàn và thúc đẩy nhanh gấp bội tiến trình phát triển trước kia của các nước đó. Nó là một cuộc cách mạng có tính chất toàn thế giới, vì vậy nó sẽ có quy mô toàn thế giới.>> (Ăng-ghen, Nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, Nxb Sự thật, Hà Nội)
Thế lúc đó Engels nói đúng không ? Rõ ràng là đúng. Nhưng xin lưu ý, Engels viết những lời này vào những năm 40 thế kỷ XIX, khi mà chủ nghĩa tư bản còn đang ở giai đoạn tự do cạnh tranh. Còn những quan điểm của Lenin lại viết trong giai đoạn Chủ nghĩa tư bản đế quốc và độc quyền. Rất rõ ràng, HAI THỜI ĐẠI KHÁC NHAU, thì không thể rập khuôn máy móc bê nguyên xi các công thức và vận dụng một cách máy móc Chủ nghĩa Marx được.
Trong thời đại chủ nghĩa đế quốc đang phát triển cao độ, khi mà tính chất phát triển không đồng đều trong nội bộ các nước tư bản trở thành lực lượng quyết định, trong thời kỳ mà không thể tránh khỏi những cuộc xung đột giữa các nước đế quốc - về tính chất phát triển không đồng đều của các nước tư bản chủ nghĩa (Lenin) - đã mở ra những cơ hội có thể chọc thủng mặt trận của các nước đế quốc chủ nghĩa ở một nước hay thậm chí một nước. Sự thay đổi thời đại và tính chất thời đại của nó đã làm cho những công thức đó của Engels đã không còn phù hợp, do đó buộc phải thay bằng một công thức khác. Mà ở đây Lenin là người duy nhất tìm ra. Tức, công thức về khả năng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trong phạm vi một quốc gia nhất định. Tất nhiên, tôi đến “công thức” tức là nói đến phạm vi của vấn đề Chiến lược và chiến thuật của cách mạng vô sản, chứ không phải nói đến vấn đề thế giới quan và phương pháp luận. Lenin vẫn tuân thủ và tán thành thế giới quan và phương pháp luận của Marx - Engels, chỉ thay đổi về Chiến lược và chiến thuật của cách mạng vô sản, trong những điều kiện mới của Chủ nghĩa tư bản độc quyền và giai đoạn chiến tranh đế quốc chủ nghĩa. Do đó, ai bảo Lenin xuyên tạc Chủ nghĩa Marx là những kẻ kém hiểu biết, tư duy non kém.
Sự vĩ đại của Lenin chính là ở chỗ Người kế tục sự nghiệp Marx - Engels, là ở chỗ Người không bị sa vào tình trạng “nô lệ hóa” câu chữ khi trích dẫn và vận dụng Chủ nghĩa Marx, điều mà thời bấy giờ các lãnh tụ dân chủ xã hội và các phe đối lập đều mắc phải.
Sự vĩ đại của Lenin là ở chỗ Người đã không do dự trong việc tìm tòi và đúc kết ra một công thức mới, một công thức phù hợp cho thời đại mới, công thức về khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản trong phạm vi một nước.
Nói như thế, không có nghĩa là muốn ám chỉ rằng Lenin là nhà tư tưởng cao hơn Marx - Engels, mà ở đây có nghĩa là:
Thứ nhất: Rất rõ ràng chúng ta không thể đòi hỏi Marx - Engels có thể nhìn thấy trước tương lai nửa thế kỷ, hay có thể đoán trước thời đại đế quốc chủ nghĩa sẽ xảy ra được.
Thứ hai: Lenin với tư cách là học trò của Marx, Engels đã tìm thấy những khả năng mới của cuộc cách mạng vô sản trong những điều kiện mới của thời đại mới.
Do đó, chúng ta phải hiểu rằng không thể hiểu và vận dụng Chủ nghĩa Marx một cách giáo điều bằng cách viện dẫn hay bám víu vào những công thức đã không còn phù hợp trong thời đại mới. Chính điều đó đã làm Lenin vĩ đại hơn tất thảy những nhà “marxist” mà chẳng hiểu Chủ nghĩa Marx còn lại.
Cần phân biệt giữa câu chữ và thực chất của Chủ nghĩa Marx, giữa những nguyên lý và phương pháp của Chủ nghĩa Marx, giữa những phần "chết" và phần "sống". Sở dĩ Lenin có thể làm được như thế là vì Người không coi Chủ nghĩa Marx là một lý luận giáo điều, mà nó là nền tảng, là kim chỉ Nam cho hành động, hay nói cách khác, "không nô lệ hóa" vào câu chữ những lời Marx-Engels dạy.
Lenin viết trong tác phẩm Bệnh Ấu trĩ tả khuynh:
<<Marx và Engels đã nói rằng lý luận của chúng ta không phải là một giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động; nên sai lầm lớn nhất, tội ác lớn nhất của hạng người marxist "có môn bài" như Kautsky, Otto Baue và những người khác giống như họ, là đã không hiểu, đã không biết áp dụng chân lý đó vào những giờ phút quyết định nhất của cách mạng vô sản>> (Lenin toàn tập, tập XXV, tiếng Nga, tr.211)
Chủ nghĩa Lenin, tức là "Chủ nghĩa Marx" trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản, nó vững vàng và tiếp tục vững vàng, và những người tiếp thu nó cũng phải giống như Lenin tiếp thu Chủ nghĩa Marx, tức là không thể giáo điều.
Chúng ta nên chọn: "Chủ nghĩa Marx sáng tạo" !