3. Sức sống vĩ đại của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa - công nghiệp
Lịch sử đã chứng tỏ sức sống vĩ đại của chế độ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh chưa từng có của nó, tính vững chắc và khả năng chiến thắng mọi trở ngại của nó. Chúng ta đã được biết nhiều khó khăn mà Liên-xô đã vấp phải: trong bốn mươi năm tồn tại của chính quyền Xô viết, đã gần một nửa thời gian đó là những năm chiến tranh mà bọn để quốc phải chịu trách nhiệm, hoặc là những năm băng bó thương tích chiến tranh. Mặc dầu vậy, Nhà nước Xô-viết đã vừa chiến thắng mọi khó khăn bằng những phương pháp riêng của mình, và vừa tăng thêm sức sản xuất trong nước bằng những tỷ lệ khổng lồ.
Năm 1917, chính quyền Xô-viết đã thừa kế một nền kinh tế hoàn toàn đổ nát. Tiếp sau đó, cuộc can thiệp của nước ngoài và nội chiến bắt đầu. Ba phần tư đất nước rơi vào tay kẻ thù, kể cả những vùng sản xuất lúa mì và bông, than và dầu hỏa, sắt và thép. Ở các thành phố, chính quyền Xô-viết chỉ có thể cung cấp cho công nhân 50 gam bánh mì đen mỗi ngày, nhưng ngay lúc mà sức mạnh của chính quyền Xô-viết đã được xác nhận, nhân dân đã hết sức ủng hộ chính quyền đó về tinh thần và thực tế. Mặt khác do nắm giữ được những vị trí chỉ huy kinh tế, Nhà nước xã hội chủ nghĩa đã có thể khai thác được một bộ phận tài nguyên vật chất nằm trong tay mình với một sự tập trung và với những sức cố gắng vững chắc mà một chính phủ tư sản không thể nào làm được.
Công nghiệp nặng chỉ còn lại một phần bảy sản lượng năm 1913. Thế nhưng chỉ cách sau đó một vài năm, với những tài nguyên duy nhất của mình, Liên-xô không những chỉ thành công trong việc khôi phục lại nền kinh tế của mình mà còn biến đồi dược một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp, một nước lạc hậu thành một nước tiên tiến.
Nếu người ta so sánh sản lượng đại công nghiệp năm 1940 với sản lượng đại công nghiệp năm 1913, người ta thấy rằng nó đã tăng lên gấp 12 lần, trong lúc đó, sản lượng của các nước tư bản chỉ dẫm chân tại một chỗ. Năm 1938, sản lượng công nghiệp của Pháp nằm dưới sản lượng công nghiệp năm 1913 là 0,3% . Ở Anh chỉ tăng hơn 13,7% và ở Mỹ chỉ tăng hơn 22,7%. Trong những năm hòa bình, sự phát triển kinh tế của Liên-xô đã nhanh gấp 10 lần sự phát triển kinh tế của các nước tư bản lớn mà ngay trong những thời kỳ phát triển thịnh vượng nhất cũng không có được.
Năm 1913, phần của công nghiệp trong toàn bộ sản lượng chỉ là 42% so với 58% về nông nghiệp thì năm 1940, công nghiệp đã cung cấp đến ba phần tư tổng sản lượng mặc dầu sản lượng nông nghiệp đã tăng thêm rất nhiều.
Về mặt kết cấu bên trong của khu vực công nghiệp ở nước Nga của Nga hoàng, công nghiệp nhẹ đã chiếm ưu thế. Năm 1913, việc sản xuất tư liệu sản xuất, hay là công nghiệp nặng, chỉ chiếm có một phần ba tổng sản lượng; năm 1940, nó đã chiếm đến tỷ lệ 61%. Sự tiến bộ về chất lượng to lớn đó còn thể hiện ra ở những con số liên quan đến việc xây dựng máy móc: năm 1913, việc xây dựng máy móc chỉ chiếm có 6,8% sản lượng của công nghiệp nặng, nhưng đến năm 1940 thì đã lên đến 31%.
Ngay từ năm 1940, nước Xô viết đã trở thành một nước sản xuất lớn về máy kéo, xe hơi, máy móc — dụng cụ, máy móc xây dựng nhà cửa và máy móc làm đường sá, máy bay, máy đo độ chính xác, máy ép khí và những sản phẩm hóa học.
Mặc dù có tất cả mọi tài nguyên thiên nhiên trong nước, nước Nga của Nga hoàng chỉ sản xuất được có 2,7% sản lượng công nghiệp thế giới; nhưng ngay từ thời gian cuối kế hoạch năm năm lần thứ hai do Liên-xô thực hiện, tỷ lệ đó đã lên đến 15,8%. Năm 1913, công nghiệp của nước Nga còn đứng sau Mỹ, Đức, Anh và Pháp; nhưng từ năm 1937, Liên-xô đã chiếm hàng thứ hai trên thế giới và hàng đầu ở châu Âu.
Liên-xô đã hoàn toàn độc lập về kỹ thuật và kinh tế. Trong lúc nước Nga của Nga hoàng còn cần phải nhập khẩu năm 1913 đến gần 44% toàn bộ nhu cầu của nó về máy móc – dụng cụ, 20% về than, 47% về bông, 63% về phốt phát già, 100% về ô-tô, xe đạp, đồng hồ, thì thực tế năm 1937, những thứ ấy đều không phải nhập khẩu, bởi vì những thử nhập khẩu đó đều trở nên thừa ra vô ích. Ngay đến cả cao su, năm 1913 còn nhập khẩu 100% thì năm 1937 tỷ lệ đó chỉ còn có 24%.
Bộ mặt đất nước đã thay đổi. Núi U-ran từ ngày xưa cho đến năm 1917, tài nguyên của nó vẫn chưa được khai thác, nay đã trở thành một trong những cơ sở công nghiệp căn bản của Liên-xô. Xi-bê-ri lúc bấy giờ vẫn còn chưa được biết đến.
Thành phần của nhân dân đã cải biến. Từ năm 1937 đã có 26.989.000 công nhân và nhân viên, trong đó có hơn 10 triệu công nhân làm việc trong công nghiệp, hơn 2 triệu trong việc xây dựng nhà cửa, gần 3 triệu trong các ngành vận tải. Đội quân những người thợ kin khí có đến trên 4 triệu người (năm 1927 trước lúc có kế hoạch năm năm chỉ có 740.000). Ngay cả trong nông nghiệp, cũng đã có đến gần 2 triệu rưởi công nhân kiểu công nghiệp, trong số đó có 943.000 người lái máy kéo, 257.000 người lái các máy móc phức tạp, 40.000 thợ máy, v.v..
Nếu chúng ta xét đến những sản phẩm cơ sở, là những thứ mà khối lượng của nó ảnh hưởng tới tất cả những khả năng vật chất của một nước, thì chúng ta thấy rằng, từ năm 1913 đến năm 1940, Liên xô đã có những tiến bộ như sau:
Liên-xô đã có đủ sức để tích cực chống lại mọi kẻ xâm lược và bảo vệ nền độc lập của mình.
Thực tế, cuộc chiến tranh thế giới đã tỏ ra một cách rõ rệt tính ưu việt của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa hơn là trong thời gian phát triển hòa bình. Quân Đức đã huy động những tài nguyên vật chất của hầu hết châu Âu để chống lại Liên-xô. Nhưng, mặc dầu bị mất hẳn những vùng kinh tế chủ yếu, Liên-xô đã chiến thắng bằng cách dựa vào lực lượng kinh tế và quân sự riêng của mình. Trong chiến tranh, người ta đã tăng khả năng công nghiệp ở các vùng phía Đông trong nước lên gấp đổi. Lịch sử đã chứng tỏ rằng chế độ Xô viết không những chỉ là hình thức tổ chức sự phát triển kinh tế tốt nhất trong những năm hòa bình mà còn là hình thức động viên tốt nhất mọi lực lượng của nhân dân trong những năm chiến tranh nữa.
Quay lại trang chính
Quay lại trang chính