3. Kế hoạch tốc độ hạ giá thành sản phẩm trong lĩnh vực sản xuất vật chất

 3. Kế hoạch tốc độ hạ giá thành sản phẩm trong lĩnh vực sản xuất vật chất


Chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch giá thành là tốc độ hạ giá thành hoặc tỷ lệ phần trăm về hạ giá thành.


Qua các tài liệu có liên quan của các kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế quốc dân Liên-Xô, chúng ta có thể thấy được tình hình chung về tốc độ hạ giá thành như sau:


TỐC ĐỘ HẠ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM CÔNG NGHIỆP CỦA LIÊN XÔ

Năm 1932 (kế hoạch 5 năm lần 1) so với 1927-1928 : 6%

Năm 1937 (kế hoạch 5 năm lần 2) so với 1932 : 10%

Năm 1942 (kế hoạch 5 năm lần 3) so với 1937 : 17%

Năm 1955 (kế hoạch 5 năm lần 4) so với 1950: 25%


Khi nghiên cứu tốc độ hạ giá thành, chẳng những phải chú ý đến tỷ lệ phần trăm về hạ giá thành là bao nhiêu, mà còn phải chú ý đến số lượng tuyệt đối của mỗi phần trăm hạ xuống. Số lượng tuyệt đối chứa trong mỗi phần trăm đó luôn luôn tăng lên trong các kỳ kế hoạch nối tiếp nhau. 


Ví dụ, trong thời kỳ kế hoạch 5 năm lần thứ hai mỗi phần trăm hạ xuống của giá thành công nghiệp đại biểu cho độ 800 triệu rúp, còn trong thời kỳ kế hoạch 5 năm lần thứ ba, mỗi phần trăm đại biểu cho độ 2.000 triệu rúp. 


Do đó thấy rằng, nếu trong kỳ kế hoạch quy định tỷ lệ phần trăm về hạ giá thành tương đối thấp, thì cũng không có nghĩa là con số tuyệt đối về mức tiết kiệm được do hạ giá thành cũng quy định nhỏ đi. 


Ví dụ, giá thành của toàn bộ sản phẩm ở đầu kỳ báo cáo là 250.000 triệu rúp, giá thành phải hạ xuống tới 20%, thế thì mức tiết kiệm được do hạ giá thành sẽ là 50.000 triệu rúp. Lại giả sử giá thành của toàn bộ sản phẩm ở đầu kỳ kế hoạch là 500.000 triệu rúp, theo quy định phải hạ xuống 15%, thì mức tiết kiệm được do hạ giá thành sẽ là 75.000 triệu rúp.


Việc nâng cao tốc độ hạ giá thành chỉ có thể làm được trong các thời kỳ cá biệt. 


Ví dụ, tỷ lệ phần trăm về hạ giá thành sản phẩm công nghiệp trong kế hoạch 5 năm từ 1951-1955 (là 25%) quy định cao hơn tỷ lệ phần trăm của kế hoạch 5 năm từ 1946 – 1950 (là 17%). Người ta cũng có thể quy định nâng cao tốc độ hạ giá thành theo từng năm một của kế hoạch 5 năm. Những tài liệu có liên quan trong kế hoạch 5 năm lần thứ hai phát triển kinh tế quốc dân Liên-xô sẽ nói rõ điều đó (hình 1):


Tình hình tăng lên của tốc độ hạ giá thành trong kế hoạch 5 năm lần thứ II phát triển kinh tế quốc dân Liên Xô (so với năm liền trước)

Năm

1933

1934

1935

1936

1937

Công nghiệp

1,5%

4,7%

6,7%

7,6%

8,5%

Hình 1


Nhìn hình 1, ta có thể thấy rằng giá thành trong năm thứ nhất của kế hoạch 5 năm lần thứ hai được quy định hạ xuống 1,5%, năm thứ hai là 4,7%, năm thứ ba là 6,7%, năm thứ tư là 7,6% và năm thứ năm là 8,5%. Điều đó cũng có nghĩa là tốc độ hạ giá thành tăng dần lên từng năm một.


Tốc độ hạ giá thành sản phẩm quy định cho các ngành kinh tế quốc dân, không giống nhau. Tình hình này có thể nhìn thấy qua những tài liệu có liên quan của kế hoạch 5 năm lần thứ năm phát triển kinh tế quốc dân Liên-Xô sau đây (hình 2) :


Tỷ lệ % hạ giá thành của các ngành kinh tế quốc dân chủ yếu trong kế hoạch 5 năm lần thứ V (1955 so với 1950)

công nghiệp

25

kiến trúc

20

vận tải đường sắt

15

mậu dịch bán lẻ

23

Hình 2


Các tình hình trên nói rõ rằng:


1– Trong cùng một ngành, ở các thời kỳ khác nhau, tỷ lệ phần trăm về hạ giá thành được quy định khác nhau, (hình 1);


2– Trong các ngành khác nhau, ở cùng một thời kỳ, tỷ lệ phần trăm về hạ giá thành được quy định khác nhau (hình 2).


Vậy rút cục nên giải thích như thế nào? 


Quy đến cùng, đó là vì sự thay đổi giá trị sản xuất của đơn vị sản phẩm rất khác nhau, biểu hiện tiền tệ của giá trị luôn luôn thay đổi và tình hình phân phối giá trị mới sáng tạo trong vm (tức là bộ phận tiêu dùng và bộ phận tích lũy của giá trị) không giống nhau.


Giá trị sản xuất của đơn vị sản phẩm hạ xuống càng nhiều thì giá thành cũng có thể hạ xuống càng nhiều. Đồng thời, sự thay đổi liên tục của biểu hiện tiền tệ của giá trị (như việc hạ thấp giá cả với những mức độ khác nhau) cũng sẽ dẫn đến việc hạ thấp giá thành với những mức độ khác nhau, mặc dù hiệu quả kinh tế của việc hạ thấp đó hoàn toàn khác hẳn. Ngoài ra, sự phân phối khác nhau về giá trị mới sáng tạo, như hạ thấp tỷ trọng v (trong điều kiện số tuyệt đối của nó tăng lên), sẽ có thể làm cho giá thành sản phẩm hạ xuống rất nhiều.