2. Chuyên chính vô sản và chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa
Nói một cách khác, cơ sở của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, điều kiện thắng lợi và phát triển của nó ở Liên Xô là nền chuyên chính vô sản (liên minh giữa giai cấp vô sản và nông dân lao động do giai cấp vô sản lãnh đạo).
Bản Hiến pháp năm 1936 đã quy định rằng: «Cơ sở kinh tế của Liên Xô bao gồm hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa và quyền sở hữu xã hội chủ nghĩa về công cụ và tư liệu sản xuất đã được xây dựng sau khi thủ tiêu hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ quyền tư hữu về công cụ và tư liệu sản xuất và thanh toán chế độ người bóc lột người». (Hiến pháp Liên Xô, điều 4)
Liên Xô đã thực hiện được nền dân chủ thực sự, quyền lực chính trị và kinh tế ở đó đã thuộc vào tay những người lao động, vào tay nhân dân. Cơ sở kinh tế và cơ sở chính trị ở Liên Xô không thể tách rời nhau được. Kinh tế xã hội chủ nghĩa (chế độ sở hữu xã hội về công cụ và tư liệu sản xuất) buộc phải có một cách tuyệt đối chính quyền của nhân dân (công nhân, nông dân, trí thức); đồng thời chính quyền của nhân dân, nền chuyên chính vô sản, chỉ có thể tồn tại và phát triển bằng cách dựa vào kết cấu kinh tế theo kiểu xã hội chủ nghĩa.
Tất cả những sự phân biệt thường thường do bọn xã hội dân chủ, đứng đầu là Lê-ông Bơ-lum (Léon Blum) nêu ra giữa cuộc «cách mạng chính trị» với « cuộc cách mạng kinh tế và xã hội » chỉ là những mưu mô lừa phỉnh nhằm ngăn cản sự hiểu biết thật sự về cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vai trò của chính quyền rất quan trọng: giai cấp công nhân dùng Nhà nước Xô-viết đề tổ chức ra xã hội mới, vừa thủ tiêu những quan hệ sản xuất tư sản cũ và vừa củng cố những quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa ở Liên-xô có hai hình thức: chế độ sở hữu của toàn dân (trong giai đoạn hiện tại, là chế độ sở hữu của Nhà nước) và chế độ sở hữu của mỗi tập đoàn hợp tác xã (căn bản là chế độ sở hữu của nông trang tập thể). Hình thức thứ nhất nắm vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa có quyền sở hữu về ruộng đất và khoáng sản, thủy lợi, rừng rú, các xí nghiệp công nghiệp, phương tiện vận tải, bưu điện, nông trường quốc doanh và trạm máy kéo, ngân hàng, tài sản chủ yếu về nhà ở tại các thành thị và các trung tâm công nghiệp, tài sản của các cơ quan mậu dịch. Ngay trong nền kinh tế nông thôn, ở đó hình thức sản xuất theo nông trang tập thể đang chiếm địa vị phổ biến, Nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn làm chủ trên ba phần tư tài sản của sản xuất: đất đai, máy kéo, máy móc.
Nông trang tập thể làm chủ súc vật, nhà cửa, dụng cụ và hoa lợi sản xuất của mình. Nông trang tập thể kinh doanh trên đất đai của Nhà nước, nhưng đất đai đó đã giao cho các nông trang tập thể sử dụng mãi mãi và không mất tiền.
Dụng cụ lớn tập trung trong các trạm máy móc và máy kéo cũng đều thuộc về Nhà nước, những dụng cụ đó đã giúp đỡ rất nhiều cho các nông trang tập thể.
Về sau này, chúng ta sẽ thấy rằng mỗi gia đình nông dân tập thể có quyền sử dụng tư một đám đất xung quanh nhà ở có thể rộng đến một éc-ta và có riêng nhà ở của mình, gia súc, gà vịt và những nông cụ nhỏ, tất cả những cái này đều có những giới hạn quy định trong điều lệ nông trang tập thể và thay đổi theo từng vùng và theo tinh chất của các thứ trồng trọt.
Bên cạnh chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa là hình thức phổ biến ở Liên Xô, pháp luật còn thừa nhận nền kinh tế nhỏ tư nhân của thợ thủ công và nông dân cá thể dựa trên sức lao động cá nhân, và cấm không được bóc lột người khác.
Trước cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, sở hữu hợp tác xã bao gồm 8,7% toàn bộ tài sản của sản xuất trong nước (2,6 trong công nghiệp và 20,3 trong nông nghiệp), sở hữu tư nhân của nông dân tập thể chỉ chiếm là 1,1% toàn bộ tài sản ấy và của thợ thủ công và nông dân cá thể chỉ có 0,2%.
Chế độ sở hữu Nhà nước và chế độ sở hữu hợp tác xã đều là cùng một kiểu: đó là hai hình thức của cùng một chế độ sở hữu tập thể và xã hội chủ nghĩa, tẩy trừ mọi hiện tượng người bóc lột người. Chính sự thống nhất về kiểu kinh tế ấy đã bảo đảm cho việc củng cố thường xuyên khối liên minh giữa hai giai cấp bè bạn của xã hội Xô-viết, giai cấp công nhân và giai cấp nông dân; chính nó là nền tảng của sự thống nhất về tinh thần và chính trị của nhân dân Xô-viết.
Những sự khác nhau giữa hai hình thức tỏ ra ở chỗ chế độ sở hữu Nhà nước được xây dựng nên sau khi đã quốc hữu hóa tài sản của bọn tư bản và bọn địa chủ, còn chế độ sở hữu hợp tác xã và nông trang tập thể thì lại do sự hợp tác của những người sản xuất hàng hóa nhỏ tự mình lao động xây dựng nên, nhờ vào sự hoạt động của giai cấp công nhân, nhờ vào chính ngay việc quốc hữu hóa đó.
Rõ ràng rằng chế độ sở hữu Nhà nước hay sở hữu toàn dân là hình thức cao của chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa. Vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong xã hội mới đã phù hợp với điều đó.
Quay lại trang chính
Quay lại trang chính