1. Sức sản xuất và quan hệ sản xuất
Các nhà sáng lập chủ nghĩa cộng sản khoa học, Mác và Ăng-ghen đã chứng minh rằng: sản xuất của cải vật chất là nền tảng của đời sống xã hội. Khi phân tích sự sản xuất ấy, Mác và Ăng-ghen nhận rằng nó có hai mặt. Một mặt là sự tác động của người ta đối với thiên nhiên, là sự nghiệp cải tạo của con người đối với thiên nhiên. Cuộc đấu tranh của người ta đối với thiên nhiên, quan hệ của họ đối với thiên nhiên đã biểu hiện cụ thể ra ở sức sản xuất vật chất. Mặt khác, trong quả trình của cuộc đấu tranh chống thiên nhiên ấy, người ta phải bước vào những quan hệ đối với nhau; những quan hệ ấy là những quan hệ nhất định, tất yếu, độc lập với ý chí của họ: đó là quan hệ sản xuất.
Mác đã nghiên cứu tác động qua lại lẫn nhau giữa hai mặt của sản xuất xã hội trong bài tựa của mình viết cho cuốn Góp ý kiến vào việc phê phán kinh tế chính trị học, và Mác đã nêu lên hai luận điểm rất trọng yếu:
1) Quan hệ sản xuất phù hợp đến một trình độ nhất định với sự phát triển của sức sản xuất. Theo ý nghĩa đó, quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của sức sản xuất.
2) Đến một trình độ trưởng thành nào đó, sức sản xuất vượt qua quan hệ sản xuất, mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có là những quan hệ sản xuất mà chính ngay ở bên trong nó, sức sản xuất trước đây đã được phát triển. Từ chỗ đang là hình thức phát triển của sức sản xuất, quan hệ sản xuất trở thành những trở ngại của sức sản xuất. Đó chính là lúc mà thời đại cách mạng xã hội được mở ra, làm thay đổi những nền tảng kinh tế của xã hội. Thay thế những quan hệ sản xuất cũ bằng những quan hệ sản xuất khác, bằng những quan hệ phù hợp với tính chất của sức sản xuất đã lớn lên và do đó làm cho sức sản xuất tự do phát triển về sau.
Những luận điểm đó của Mác đã được xác minh trong các tác phẩm của Lê-nin và Sta-lin.
Sta-lin viết rằng, trong chế độ tư bản:
«tính chất xã hội của quá trình sản xuất đòi hỏi chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất; song chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất vẫn còn là chế độ sở hữu tư bản tư nhân, không thể đi đôi với tinh chất xã hội của quá trình sản xuất» (Stalin, Những vấn đề của Chủ nghĩa Lenin),
Vấn đề là ở chỗ phải làm cho quan hệ sản xuất ăn khớp với trạng thái của sức sản xuất: đó là mục tiêu của cách mạng vô sản.
Trong tác phẩm Những vấn đề kinh tế của chủ nghĩa xã hội ở Liên-xô (1951), Sta-lin đã trở lại một lần nữa về vấn đề tác động qua lại lẫn nhau giữa sức sản xuất và quan hệ sản xuất; Sta-lin đã nhấn mạnh một lần nữa sự ăn khớp giữa cái này và cái kia là điều kiện tuyệt đối của sự phát triển tích cực của xã hội.
Trong mọi cấu tạo xã hội đối kháng, sự xung đột giữa sức sản xuất và quan hệ sản xuất được biểu hiện bằng đấu tranh giai cấp. Sự xung đột ấy là lý do về mặt kinh tế của cuộc cách mạng xã hội.
Các giai cấp phản động cố sức bảo vệ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, bị lịch sử hoàn toàn lên án; bọn chúng dùng nhiều phương pháp để duy trì nền thống trị của chúng, từ những phương pháp hành động có tính chất tư tưởng đến những thủ đoạn hành chính và quân sự của Nhà nước tư sản. Để thủ tiêu những quan hệ sản xuất lỗi thời và thiết lập lên những quan hệ mới phù hợp với tinh chất của sức sản xuất, như Sta-lin đã nói, cần phải xây dựng những lực lượng tiến bộ có thể đập tan được sự kháng cự của những lực lượng đã hết thời là các giai cấp phản động. Trong xã hội tư bản, lực lượng tiến bộ đó đã tiêu biểu ở giai cấp công nhân là giai cấp liên hệ với hình thức kinh tế tạo ra tương lai cho mình, liên hệ với nền sản xuất lớn hiện đại, và đồng thời là một giai cấp tập hợp được xung quanh mình những tầng lớp lao động không vô sản rộng rãi, trước nhất là giai cấp nông dân lao động.
Khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, đó là lực lượng đã tiêu diệt sự kháng cự của những lực lượng đã quá thời về mặt lịch sử, giai cấp đại địa chủ và giai cấp tư sản ở Nga vào tháng Mười năm 1917, và đã thiết lập lên những quan hệ sản xuất mới, những quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phù hợp với tính chất của sức sản xuất.
Lê-nin và Sta-lin đã kiên quyết chiến đấu với chủ nghĩa sơ lược và chủ nghĩa giáo điều. Lê-nin và Sta-lin đã thanh toán «lý luận» cơ hội chủ nghĩa về tính tự phát, bao gồm lý luận biến tướng của nó gọi là «lý luận về sức sản xuất» là thứ lý luận coi việc cải tạo xã hội như là một thứ kết quả tự động của sự phát triển của sức sản xuất và muốn phủ nhận vai trò tích cực của quần chủng cách mạng trong việc thủ tiêu những quan hệ sản xuất lỗi thời bằng sự thất bại của các giai cấp phản động. Lê-nin và Sta-lin đã đập tan tư tưởng hẹp hòi của những người tự xưng là những nhà tư tưởng của Đệ nhị Quốc tế, theo tư tưởng đó thì cách mạng nhất thiết phải bắt đầu từ nước nào có quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển nhất.
Trong bài báo nổi tiếng của mình «Bàn về cuộc cách mạng của chúng ta», Lê-nin đã lột trần mặt nạ của bọn đồ-gàn men-sê-vích tự nhận là những người theo chủ nghĩa Mác, nhưng không hề biết một tý gì về điều căn bản của chủ nghĩa Mác: tính chất biện chứng cách mạng của nó.
Lê-nin đã diễn đạt như sau:
«Họ gợi ra một luận cứ hết sức nhàm tai mà họ đã học thuộc lòng qua quá trình phát triển của phái xã hội-dân chủ phương Tây và cho rằng chúng ta chưa thật trưởng thành về chủ nghĩa xã hội; mà theo lối nói của một số trong những nhân vật «thông thái» của họ thì chúng ta chưa có những tiền đề khách quan cho chủ nghĩa xã hội... « Nước Nga chưa đạt đến trình độ phát triển cần thiết của sức sản xuất làm cho chủ nghĩa xã hội có thể xuất hiện được», luận điểm ấy... tất cả những nhà hiệp sĩ của Đệ nhị Quốc tế đều bày tỏ ra một cách trơ trảo » (Lê-nin, Bàn về cuộc cách mạng của chúng ta).
Để trả lời cho những nhà đại thông thái của Đệ nhị Quốc tế, Lê-nin đã chứng minh rằng, ở Nga, những điều kiện cực kỳ thuận lợi cho giai cấp công nhân cướp chính quyền đã thành hình. Nhiều phong trào khác nhau như phong trào dân chủ nói chung đấu tranh cho hòa bình, phong trào dân chủ của nông dân đấu tranh đòi ruộng đất, phong trào giải phóng dân tộc của các dân tộc bị chế độ Nga hoàng áp bức, phong trào xã hội chủ nghĩa của giai cấp vô sản đấu tranh để lật đổ giai cấp tư sản, tất cả những phong trào ấy đã thống nhất lại thành một trào lưu duy nhất.
Nhiệm vụ của đảng cách mạng hả không phải là cần phải lợi dụng những điều kiện ấy để xây dựng nên chính quyền cách mạng, với tư tưởng là sau đó phải thúc đẩy sức sản xuất phát triển và phải xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng cách dựa vào chính quyền công nông ấy, dựa vào chế độ xô-viết, hay sao? Lê-nin đã chứng minh rằng trong trường hợp đó, không hề có một sự vi phạm nào đối với đường lối cơ bản của toàn bộ sự phát triển. Nước Nga của Nga hoàng, mặc dầu mọi sự lạc hậu về kinh tế của nó, là một cường quốc đế quốc chủ nghĩa, và hơn nữa là mắt khâu yếu ớt trong toàn bộ thế giới đế quốc chủ nghĩa. Ở Nga cũng hoàn toàn giống như các nước tư bản khác, sức sản xuất ngay bấy giờ đã vượt quá và tràn ra ngoài khuôn khổ của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa rồi. Chính vì thế mà quy luật quan hệ sản xuất nhất thiết phải thích hợp với tính chất của sức sản xuất từ bấy giờ đã mở lối đi của nó; chính quy luật đó đã làm chỗ dựa cho chính quyền cách mạng, đại biểu cho lợi ích của quần chúng, khi chính quyền đó thay thế quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, khi chính quyền đó lập tức chuyển các nhà máy từ quyền sở hữu tư bản qua quyền sở hữu của nhân dân (sắc lệnh về sự kiểm soát của công nhân ngày 14-11-1917, sắc lệnh về quốc hữu hóa các xí nghiệp lớn ngày 28-6-1918) (1).
----------------
Lê-nin dạy rằng mặt trận của chủ nghĩa đế quốc không nhất thiết phải bị phá vỡ ở nơi nào công nghiệp phát triển nhất, ở nơi nào giai cấp vô sản chiếm đại đa số nhân dân, mà là ở nơi nào sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc ít vững chắc nhất. Điều đó dĩ nhiên không phải là nói rằng cuộc cách mạng vô sản có thể xảy ra trong một nước thiếu hẳn một số tối thiểu những điều kiện cần thiết, đặc biệt là một trình độ phát triển công nghiệp tối thiểu, một trình độ tối thiểu về sự trưởng thành của nền văn minh,... Sta-lin chỉ rõ rằng một trong những điều kiện làm cho cách mạng thắng lợi là sự tồn tại ít nhất là của một trình độ trung bình về sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chính dựa vào quan điểm ấy mà Sta-lin đã vạch mặt những lời quyết đoán nhục nhã cho Liên Xô và hết sức phản lại chủ nghĩa Mác của Bu-kha-rin, theo lời quyết đoán đó thì mặt trận của chủ nghĩa đế quốc sẽ bị vỡ ở nơi nào hệ thống kinh tế quốc dân yếu ớt nhất, Sta-lin nói rằng: «Điều đó dĩ nhiên là sai lầm. Nếu nó là đúng thì cách mạng vô sản đã bắt đầu từ ở tận đâu miền trung tâm Châu Phi, chứ không phải là từ nước Nga». Trong những nhân tố của cuộc cách mạng, trình độ phát triển kinh tế mà nước Nga đạt được đến năm 1917 (lũng đoạn, tính chất xã hội của sự sản xuất, trình độ tập trung cao của công nghiệp và của giai cấp vô sản), đã có một tác dụng căn bản.
Quay lại trang chính
Quay lại trang chính