Mối đe dọa quân sự của Nhật Bản ở phía Đông Liên Xô
Khi nghiên cứu lịch sử Chiến tranh thế giới thứ hai và Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, không thể quên một yếu tố cực kỳ quan trọng đối với Moscow, đó là mối đe dọa từ phía Đông. Liên Xô không thể tập trung tất cả lực lượng của mình để chiến đấu chống lại lực lượng vũ trang của Đế chế Đức, vì Đế quốc Nhật Bản đang đe dọa từ phía Đông.
Về mặt hình thức, hai nước có hiệp ước trung lập, được ký kết vào ngày 13 tháng 4 năm 1941. Nhưng những lý do chính khiến Nhật Bản không tấn công Liên Xô không phải là thiện chí của Tokyo, hay sức mạnh của các văn kiện đã ký. Người Nhật đã chọn các lãnh thổ phía nam cho cuộc tấn công chiến lược, hơn nữa, họ có thể chờ đợi Wehrmacht đánh bại Hồng quân và sau đó chiếm Viễn Đông và Siberia của Nga. Một lý do quan trọng khác là Cụm lực lượng Hồng quân Viễn Đông; người Nhật đã nếm trải sức mạnh của lực lượng này vào năm 1938-1939 và không muốn chịu thêm một thất bại nữa.
Khi Đức tấn công Liên Xô vào ngày 22 tháng 6 năm 1941, một cuộc tranh luận đã nổ ra ở Nhật Bản về triển vọng xâm lược Viễn Đông của Liên Xô. Các chính trị gia, tướng lĩnh, và bộ chỉ huy Hải quân Nhật Bản đã tranh cãi về khả năng thực hiện kế hoạch "Kwantokuen" ("Các cuộc tập trận đặc biệt của Đạo quân Quan Đông"), tương tự như kế hoạch "Barbarossa" của Đức, vốn đã được bắt đầu phát triển từ giữa những năm 30.
Theo kế hoạch này, họ dự kiến:
Không quân Nhật Bản sẽ bất ngờ tấn công trong vòng vài giờ để tiêu diệt hoặc ít nhất là vô hiệu hóa phần lớn không quân của Cụm lực lượng Không quân Hồng quân Viễn Đông.
Quân đội Nhật Bản, với lực lượng của ba mặt trận được thành lập – phía Đông, phía Bắc và phía Tây, sẽ liên tiếp tấn công để đánh bại quân đội Liên Xô ở Primorye, Priamurye và Transbaikal, buộc các đơn vị còn lại phải đầu hàng.
Hải quân Hoàng gia sẽ hỗ trợ chiến dịch chiếm Bắc Sakhalin, tiêu diệt Hải quân Liên Xô ở Thái Bình Dương, hỗ trợ lực lượng mặt đất chiếm Vladivostok và tổ chức một chiến dịch đổ bộ để xâm lược Kamchatka.
Chiến dịch được lên kế hoạch hoàn thành trong 6 tháng, tiến đến Baikal.
Nhưng mặc dù chiến dịch được lên kế hoạch bắt đầu vào tháng 8 năm 1941, Bộ Ngoại giao và tình báo Nhật Bản đã bày tỏ sự nghi ngờ, và sự nghi ngờ này càng mạnh lên khi họ nhận ra rằng cuộc chiến chớp nhoáng của Đức đã thất bại. Cuối cùng, vào ngày 3 tháng 9 năm 1941, tại cuộc họp của Hội đồng điều phối của chính phủ và Bộ Tổng chỉ huy Hoàng gia, những người tham gia đã đi đến kết luận rằng "vì Nhật Bản không thể triển khai các hoạt động quy mô lớn ở phía bắc trước tháng 2, nên cần phải nhanh chóng thực hiện các hoạt động ở phía nam trong thời gian này." Trên thực tế, sự kháng cự quyết liệt của Hồng quân đã làm thất bại không chỉ kế hoạch của Berlin mà còn cả kế hoạch của Nhật Bản về một "cuộc chiến chớp nhoáng" ở phía Bắc. Ngày 3 tháng 10, một quyết định đã được đưa ra để chuyển thời điểm khả thi của chiến dịch sang mùa xuân năm 1942.
Nhưng sau đó, Nhật Bản đơn giản là không thể tấn công Liên Xô – lực lượng chính của họ đã bận rộn ở các mặt trận phía nam. Đạo quân Quan Đông dần dần chuyển giao các đơn vị tốt nhất của mình sang các mặt trận khác, làm giảm sức mạnh của mình. Hơn nữa, Liên Xô không hề có dấu hiệu sụp đổ; ở phía đông đất nước, Moscow vẫn duy trì các lực lượng chiến đấu đáng kể. Tướng Iosif Apanasenko đã nỗ lực rất nhiều để củng cố lực lượng của chúng ta ở hướng này, phát triển khả năng cơ sở hạ tầng. Apanasenko đã có thể tổ chức xây dựng đường cao tốc dọc theo tuyến đường sắt xuyên Siberia trong thời gian ngắn nhất. Đến ngày 1 tháng 9 năm 1941, con đường từ Khabarovsk đến Belogorsk đã được xây dựng. Dưới thời ông, Viễn Đông thực sự đã biến thành một pháo đài lớn. Liên Xô buộc phải duy trì một cụm quân mạnh mẽ ở phía Đông: từ 32 đến 59 sư đoàn bộ binh dự kiến, với tổng số hơn 1 triệu người, từ 8 đến 16 nghìn khẩu pháo và súng cối, hơn 2 nghìn xe tăng và pháo tự hành, từ 3 đến 4 nghìn máy bay chiến đấu. Đây là những lực lượng khổng lồ, mà nếu tình hình chính trị khác đi, có thể đã thay đổi nghiêm trọng cán cân lực lượng ở phía tây đất nước.
Ngoài ra, người Nhật đã tích cực gây hại cho Liên Xô trong lĩnh vực hàng hải, thực hiện nhiều hành động khiêu khích khác nhau ở biên giới. Các hành vi gây hấn đã được thực hiện, mà vào thời điểm khác có thể được sử dụng làm cái cớ cho chiến tranh. Hải quân Nhật Bản gây khó khăn cho việc vận chuyển ở khu vực eo biển Sangar và La Pérouse. Họ thả thủy lôi trôi nổi, hạn chế khu vực đánh bắt cá của Liên Xô ở Biển Nhật Bản. Họ chặn và khám xét các tàu buôn của Liên Xô dưới sự đe dọa sử dụng vũ khí. Người Nhật đã tấn công các tàu của chúng ta: ngày 14 tháng 12 năm 1941, tàu hơi nước chở hàng và khách "Krechet" bị pháo binh lục quân Nhật Bản đánh chìm ở Hồng Kông; ngày 18 tháng 12 năm 1941, tàu hơi nước chở hàng "Perekop" bị không quân hải quân Nhật Bản đánh chìm ở Biển Đông gần quần đảo Natuna, 8 thành viên thủy thủ đoàn thiệt mạng. Ngày 26 tháng 12 năm 1941, thủy thủ đoàn đã tự đánh chìm tàu chở dầu "Maikop", trong vịnh Sarangli thuộc vịnh Davao (Mindanao, Philippines) sau khi tàu bị máy bay Nhật Bản gây hư hại nặng. Còn có các hành động gây hấn khác, ví dụ: tàu hơi nước "Uelen" gần bờ biển Úc bị người Nhật bắn phá.
Tokyo đã phớt lờ tất cả các phản đối ngoại giao của Liên Xô. Đến cuối Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, khi rõ ràng là Berlin sẽ bị đánh bại, các hành động khiêu khích của Nhật Bản đã giảm bớt.
Nhưng, vào ngày 8 tháng 8 năm 1945, Liên Xô đã được trả thù; người đứng đầu NKID Vyacheslav Molotov đã thông báo cho Đại sứ Nhật Bản Naotake Sato ở Moscow về việc bắt đầu chiến tranh. Hiệp ước trung lập với Nhật Bản đã bị hủy bỏ vào ngày 5 tháng 4 năm 1945. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Stalin, khi chúc mừng nhân dân Liên Xô về chiến thắng trước Nhật Bản, đã thông báo lý do chính khiến Moscow tham gia vào cuộc chiến này. “Chúng ta còn có một mối nợ riêng với Nhật Bản. Nhật Bản đã bắt đầu xâm lược đất nước chúng ta từ năm 1904, trong Chiến tranh Nga-Nhật... Như mọi người đều biết, trong cuộc chiến với Nhật Bản khi đó, Nga đã chịu thất bại. Nhật Bản đã lợi dụng sự thất bại của nước Nga Sa hoàng để chiếm Nam Sakhalin từ Nga, củng cố vị thế trên Quần đảo Kuril và do đó, khóa chặt mọi lối ra đại dương ở phía Đông đối với đất nước chúng ta.” Liên Xô đã "trả đủ" cho món nợ đó.
Thật không may, những bài học lịch sử không mang lại lợi ích cho Nhật Bản; sau sự sụp đổ của Liên Xô, Tokyo, lợi dụng sự suy yếu ý chí của giới lãnh đạo Liên bang Nga, tiếp tục tuyên bố chủ quyền đối với "Các Lãnh thổ phía Bắc của mình". Một số tuyên bố của các quan chức Nhật Bản mang tính chất ngông cuồng rõ rệt.
Nguồn:
Lịch sử ngoại giao. Tập 4. M., 1975.