Chiến thắng ngoại giao trước chiến tranh của Stalin




Các đối thủ của Liên Xô thích "đi sâu" vào nền ngoại giao trước chiến tranh Vệ quốc. Đặc biệt là về hiệp ước không xâm lược tháng 8 năm 1939 giữa Liên Xô và Đức.

Nhưng họ luôn "quên" đề cập đến hành động của các cường quốc châu Âu khác trong giai đoạn này. Nhiều người biết về Hiệp ước Munich ngày 30 tháng 9 năm 1938, nhưng không phải ai cũng biết rằng ngoài Đức, Ba Lan (nhận vùng Teschen) và Hungary (chiếm một số thành phố ở phía nam) cũng tham gia vào việc chia cắt Tiệp Khắc.

Sau Munich, cũng vào ngày 30 tháng 9, Đệ tam Đế chế và Anh, theo sáng kiến của Thủ tướng Anh Chamberlain, đã ký tuyên bố hòa bình Anh-Đức. Trong đó, Đức và Anh tuyên bố mong muốn sống trong hòa bình, giải quyết mọi vấn đề bằng đàm phán. Bằng tuyên bố này, London thực tế đã trao cho Đế chế toàn quyền tự do ở phía Đông. Đồng thời, Chamberlain đã đánh lừa người dân Anh, nói rằng sau Hiệp ước Munich và tuyên bố Anh-Đức, nguy cơ chiến tranh đã qua. Đồng thời, London đã thúc đẩy Berlin tiến hành các bước tiếp theo, đảm bảo "hậu phương" cho họ.

Tiếp theo London, Paris cũng làm tương tự: ngày 13 tháng 10 năm 1938, Đại sứ Pháp tại Berlin, A. François-Pons, trong cuộc trò chuyện với Quốc vụ khanh Bộ Ngoại giao Đức, E. Weizsäcker, đã cố gắng "tìm hiểu" thái độ của Berlin đối với việc ký kết một hiệp ước không xâm lược, một hiệp ước tham vấn và một thỏa thuận tài chính giữa hai nước. Berlin không quan tâm đến việc tăng cường "tình bạn" và đồng ý với một tuyên bố Pháp-Đức, một loại hiệp ước không xâm lược. Với tuyên bố này, về bản chất, Paris đã xóa bỏ hiệp ước tương trợ Pháp-Liên Xô năm 1935. Theo Pháp, Đế chế nên hướng đòn tấn công chính vào "những người Bolshevik".

London và Paris đã cố tình thúc đẩy Đức tiến hành "cuộc thập tự chinh" chống lại "chủ nghĩa Bolshevik". Họ đã ký hiệp ước không xâm lược với Đức trước Liên Xô, nhưng mọi người lại đổ lỗi cho Moscow. Tại sao "các chế độ dân chủ" có thể, còn Stalin thì không?

Stalin một lần nữa cố gắng đạt được thỏa thuận về việc duy trì hòa bình ở châu Âu - ký một liên minh quân sự với Anh và Pháp, trong đó nghĩa vụ của các bên sẽ được quy định rõ ràng. Anh và Pháp đã không đồng ý. Và chỉ sau đó, vào ngày 23 tháng 8, ông đã ký hiệp ước không xâm lược. Stalin, giống như bất kỳ nhà lãnh đạo bình thường nào của một quốc gia, quan tâm đến sự an toàn của đất nước mình, có lẽ đó là lý do tại sao những người phương Tây lại ghét ông.

Ông là một người rất khôn ngoan và nhìn thấy toàn bộ cục diện: có ba phe - Phương Tây (Anh, Pháp và có thể là Mỹ), trục Rome-Berlin-Tokyo và Liên Xô; chiến tranh đang ở ngưỡng cửa. Và Liên Xô càng tham gia muộn thì càng tốt. Stalin hiểu rõ rằng các chính trị gia Anh và Pháp muốn hướng đòn tấn công chính của Đế chế chống lại Liên Xô, nhưng ông đã đánh bại họ. Hiệp ước không xâm lược đã mang lại cho Liên Xô điều gì?

  • Điều quan trọng nhất là thời gian, hơn một năm rưỡi. Thời gian quý báu này đã không bị lãng phí, quân đội trở nên mạnh hơn, ngành công nghiệp được củng cố. Châu Âu bốc cháy, còn chúng ta có hòa bình, chỉ tiếc là không thể kéo dài thời gian đến năm 1942-1943, khi đó một số chương trình phòng thủ quan trọng đã được hoàn thành.

  • Stalin đã lừa Paris và London. "Đào mộ" cho Liên Xô bằng chính sách "xoa dịu" Hitler, giao cho hắn hết nước này đến nước khác, họ quên mất rằng "cái gì cũng có hai mặt", và họ đã thua cuộc.

  • Stalin đã có thể ngăn chặn một tình huống mà một "cuộc thập tự chinh" của toàn bộ châu Âu sẽ được tổ chức chống lại Liên Xô. Rốt cuộc, đồng minh của London - Warsaw cũng muốn chiến đấu với chúng ta, người Ba Lan muốn có lối ra Biển Đen trong liên minh với Wehrmacht. Cuối cùng, một phần của thế giới phương Tây thậm chí còn trở thành "đồng minh" của chúng ta.

  • Liên Xô cũng đã giáng một đòn ngoại giao vào Nhật Bản; vào tháng 8 năm 1939, các trận chiến đang diễn ra ở phía Đông giữa quân đội Liên Xô và Nhật Bản. Tokyo không ngờ rằng Berlin sẽ ký một hiệp ước như vậy. Nó đã dẫn đến sự hoang mang trong giới tinh hoa Nhật Bản, Tokyo thậm chí còn bày tỏ sự phản đối với Berlin. Nội các Nhật Bản do người ủng hộ chiến tranh với Nga cùng với Đức, Kiichiro Hiranuma, đứng đầu đã từ chức. Đây là một trong những bước ngoặt trong lịch sử Nhật Bản, Tokyo bắt đầu phát triển "kế hoạch Nam tiến" thay vì "kế hoạch Bắc tiến".

Thực tế, với Hiệp ước Ribbentrop-Molotov này, Stalin đã "đánh bại" kẻ thù, giành chiến thắng trong Thế chiến thứ hai trên mặt trận ngoại giao.

Đó là lý do tại sao ông bị "kẻ thù" - những người tự do-phương Tây - căm ghét.

Stalin đã tiến hành một chính sách "chuyên chế", không cho phép ném những người lính Nga làm "bia đỡ đạn" trong các cuộc chiến tranh của người khác. Dưới thời ông, Liên Xô đã kiên quyết bảo vệ lợi ích của nhân dân mình. 

Nguồn: 

Tài liệu và vật liệu trước thềm Thế chiến thứ hai. Tập 1 M., 1948. 

Shirer W. Sự trỗi dậy và sụp đổ của Đệ tam Đế chế. Trong 2 tập. M., 1991.