Về chiến dịch của Quân đội nhân dân Việt Nam trên lãnh thổ Trung Quốc 1949



GIÚP BẠN LÀ GIÚP MÌNH

Mùa hè năm 1949, theo lệnh của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, quân đội ta đã phái quân theo hai hướng, vượt núi băng sông đến Trung Quốc tham gia Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn. Tại đây, Quân đội nhân dân Việt Nam đã phối hợp với Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc tiến hành tiêu diệt tàn quân phản động của Quốc Dân Đảng. Chiến dịch này đã giành được thắng lợi ngay trước thềm thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1/10/1949).

Đây là nhiệm vụ quốc tế đầu tiên mà quân đội ta thực hiện. Khi đó, cuộc kháng chiến chống Pháp trong nước đang gặp muôn vàn khó khăn, nhưng với phương châm “giúp bạn là giúp mình”, quân đội ta đã cử những lực lượng tốt nhất sang Trung Quốc. Ý chí kiên cường, tinh thần anh dũng, quên mình hy sinh và tinh thần quốc tế vô tư trong quá trình sinh sống và chiến đấu của quân đội Việt Nam tại Trung Quốc đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng nhân dân và các chiến sĩ Trung Quốc.

Trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, cách mạng Việt Nam và Bộ Tư lệnh Khu vực biên giới Hoa Nam, Nam Lộ và Điền Quế của Bát Lộ Quân Trung Quốc luôn giữ mối quan hệ chặt chẽ. Đầu năm 1948, đồng chí Trương Điền, đặc phái viên của đồng chí Chu Ân Lai, đã đến thăm căn cứ địa cách mạng Việt Bắc của Việt Nam và hội kiến với Chủ tịch Hồ Chí Minh.



Tại cuộc gặp, đồng chí Trương Điền đã thông báo về tình hình chung của cuộc chiến tranh giải phóng Trung Quốc. Đến năm 1949, cách mạng Trung Quốc đã giành được những thắng lợi quan trọng, nhưng các đơn vị du kích đóng quân tại biên giới Việt-Trung đang gặp nhiều khó khăn. Tàn quân phản động của Quốc Dân Đảng vẫn cố thủ ở một số nơi tại miền Nam Trung Quốc, lộng hành gây rối, khiến cuộc sống của người dân không được yên bình, đồng thời chúng tăng cường càn quét các lực lượng vũ trang cách mạng Trung Quốc tại Hoa Nam nhằm củng cố hậu phương. Sau khi lắng nghe, đồng chí Hồ Chí Minh và đồng chí Võ Nguyên Giáp đã thảo luận ngay với đặc phái viên về các vấn đề phối hợp, tương trợ giữa quân đội hai nước.

Đến tháng 3 năm 1949, đại diện của Đảng Cộng sản Trung Quốc lại đến Việt Nam và đề nghị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam cử quân đội giúp cách mạng Trung Quốc củng cố và xây dựng lực lượng tại khu vực biên giới Việt-Quế (khu vực giáp ranh giữa Quảng Tây và Quảng Đông của Trung Quốc) và khu vực biên giới Điền Quế (khu vực giáp ranh giữa Vân Nam và Quảng Tây). Tháng 4 cùng năm, các nhà lãnh đạo du kích Quảng Tây của Trung Quốc đã đề nghị quân đội Việt Nam phối hợp truy quét quân phản động Quốc Dân Đảng, giải phóng các khu vực Ung-Long-Khâm.

Với tinh thần quốc tế vô sản và phương châm “giúp bạn là giúp mình”, Thường vụ Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị Bộ Tổng Tư lệnh cử quân đội sang hỗ trợ.

Ngày 23 tháng 4 năm 1949, Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã ra lệnh “phối hợp với Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc mở rộng khu vực giải phóng Việt-Quế”; chỉ thị Khu liên khu Một phối hợp với lực lượng giải phóng biên giới Việt-Quế, hành động kịp thời để hỗ trợ Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc xây dựng các khu vực Ung, Long, Khâm liên thông với khu vực Đông Bắc của Việt Nam và thông ra biển, tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng lực lượng và đón Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc từ phía nam xuống. Đồng thời, triển khai hoạt động tại khu vực Đông Bắc Việt Nam để mở rộng khu vực giải phóng ra biên giới, kết nối với khu vực giải phóng Việt-Quế, mở đường ra biển.

Về phương châm hành động, Bộ Tổng Tư lệnh nhấn mạnh: “Trong quá trình hoạt động tại Trung Quốc, phải giải quyết mọi vấn đề trên tinh thần đoàn kết giữa nhân dân hai nước, vì lợi ích của cuộc cách mạng dân chủ hai nước, tuyệt đối không được cục bộ. Công tác chính trị phải tập trung làm rõ nhiệm vụ đoàn kết giữa Trung Quốc mới và nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam cũng như quân đội hai nước, đề cao tinh thần danh dự của quân đội Việt Nam, tôn trọng phong tục, tập quán của nhân dân sở tại, làm tốt công tác dân vận, tăng cường kỷ luật chính trị của Đảng.”

Quán triệt phương châm chỉ đạo trên, các đơn vị tham chiến đã khẩn trương chuẩn bị về tư tưởng và các mặt khác. Một số đơn vị đã lên đường sớm để chuẩn bị chiến trường. Công tác tư tưởng và tổ chức được thực hiện chu đáo. Cán bộ và chiến sĩ đều tham gia giáo dục về nhiệm vụ quốc tế, học ngôn ngữ và phong tục, tập quán của người dân địa phương. Vũ khí, quân nhu của các đơn vị đều được bổ sung đầy đủ.

Bộ chỉ huy chiến dịch được thành lập và lấy tên là Bộ Tư lệnh Khu Thập Vạn Đại Sơn. Đồng chí Lê Quảng Ba, Phó Tư lệnh Khu liên khu Một của Việt Nam được bổ nhiệm làm Tư lệnh chiến dịch, đồng chí Trần Minh Giang (cán bộ phía Trung Quốc) được bổ nhiệm làm Chính ủy.

Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn được chia thành hai mặt trận: Điền Quế và Long Châu. Mặt trận Điền Quế do đồng chí Nam Long làm Tư lệnh, đồng chí Hoàng Bình (cán bộ phía Trung Quốc) làm Phó Tư lệnh, đồng chí Đỗ Trình làm Chính ủy. Mặt trận Long Châu do đồng chí Thanh Phong, Phó Tư lệnh Khu liên khu Một của Việt Nam làm Tư lệnh, đồng chí Chu Huy Mân, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 74 và đồng chí Long Xuyên, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 28 làm Phó Tư lệnh.

Đầu tháng 6 năm 1949, quân đội ta tham chiến được chia làm hai hướng: từ Cao Bằng, Lạng Sơn tiến về Long Châu và từ Lạng Sơn, Hải Ninh tiến về Khâm Châu, Phòng Thành. Lực lượng của ta bao gồm Tiểu đoàn 73 thuộc Trung đoàn 74 của Khu liên khu Một, Tiểu đoàn 35 thuộc Trung đoàn 308 trực thuộc Bộ Tổng Tư lệnh, Đại đội pháo núi 70mm 506, các đại đội trợ chiến, thông tin, quân y... tạo thành Chi đội 28. Ngoài ra còn có hai đại đội của huyện Thoát Lãng và Văn Uyên. Quân ta lấy danh nghĩa là Quân Giải phóng khu vực Tả Giang, Tiểu đoàn 73 đổi tên thành Trung đoàn 25, Tiểu đoàn 35 đổi tên thành Trung đoàn 35. Phía Trung Quốc tham chiến có hai đại đội của Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc và một số đội công tác vũ trang.



Về phía địch: Khu vực Long Châu là một trong 14 quân khu của tỉnh Quảng Tây thuộc Quốc Dân Đảng, địch đóng quân tại đây có: hai trung đoàn bảo an, các đội cảnh vệ, tuần tra, dân đoàn của các huyện. Ngoài ra còn có các địa chủ và phần tử vũ trang phản động ở các xã, thôn.

Chiến đấu trên một chiến trường mới với một kẻ thù mới khiến công tác chuẩn bị chiến trường gặp nhiều khó khăn. Nhưng với quyết tâm cao và kinh nghiệm chiến đấu phong phú, quân đội ta đã đoàn kết với lực lượng phía Trung Quốc, lập tức phát động chiến đấu quyết liệt để tiêu diệt bọn thổ phỉ.

Từ ngày 10 đến ngày 15 tháng 6, Chi đội 28 chia làm hai hướng, bất ngờ phát động tấn công dữ dội theo hướng chủ yếu ở Thủy Khẩu - Hạ Đôi, mở đường tiến vào thành phố Long Châu. Sau nhiều đợt tấn công mạnh mẽ, Trung đoàn 25 đã hoàn toàn làm chủ trận địa, thừa thắng truy kích tàn quân phỉ chạy về thành phố Long Châu. Đại đội 164 của Trung đoàn 35 đã đánh chiếm Hạ Đôi, sau đó tiến chiếm La Hồi. Thực hiện thành công thế công thành diệt viện, quân phỉ từ Long Châu tiếp viện Độc Sơn đã bị Trung đoàn 35 tiêu diệt, không một tên nào thoát.

Ngày 12 tháng 6 năm 1949, quân ta phối hợp với Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc phục kích hai đại đội phỉ tại hướng Nam Quan - Ái Khẩu. Buộc địch phải bỏ Ái Khẩu chạy về Bằng Tường. Ngày 13 tháng 6 năm 1949 lại bỏ Bằng Tường chạy trốn. Liên tục giành thắng lợi từ nhiều phía, quân phỉ bỏ Lôi Bình, Bằng Kiều, Thông Xảo, Thượng Thạch, Hạ Thạch... chạy trốn và buộc nhiều người dân phải chạy đến Long Châu lánh nạn. Quân bại trận kinh hoàng cũng chạy về Long Châu, khiến thành phố Long Châu trở nên hỗn loạn.

Nhân dân địa phương đã ca ngợi quân đội Việt Nam chiến đấu giỏi, tuân thủ kỷ luật nghiêm ngặt, kính trọng nhân dân, và tích cực giúp đỡ quân đội cách mạng đánh bại quân phản động Quốc Dân Đảng. Có người sẵn sàng dẫn đường, làm liên lạc, làm “tai mắt” cho quân đội, có người cung cấp lương thực, thuốc men...

Chiến thắng trận tiêu diệt đầu tiên, căn cứ địa cách mạng khu vực Long Châu được mở rộng, chính quyền cách mạng được thành lập ở nhiều vùng, lực lượng địa phương phát triển nhanh chóng. Lợi dụng lúc địch hoang mang, dao động, các đội công tác vũ trang đã thâm nhập vào hậu phương địch, kêu gọi quần chúng nhân dân khởi nghĩa. Quân ta kiểm soát đoạn Thủy Khẩu - Hạ Đôi của tuyến đường Cao Bằng - Long Châu. Tuyến phòng thủ Lôi Châu - Long Châu - Bằng Tường của địch bị quân ta kẹp đánh hai đầu, uy hiếp trung tâm. Địch buộc phải tập trung lực lượng phòng thủ Long Châu chờ quân tiếp viện từ Nam Ninh.

Trong mười ngày cuối tháng 6 năm 1949, một số lực lượng nhỏ và tinh nhuệ của quân ta và Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc tiến sát thành phố Long Châu để trinh sát vũ trang, quấy rối bắn phá, dương đông kích tây, đánh lạc hướng địch, đồng thời làm tốt công tác tuyên truyền vận động nhân dân.

Cuối tháng 6 năm 1949, quân ta siết chặt vòng vây thị trấn Ninh Minh, buộc địch phải co cụm về trung tâm thị trấn.

Đầu tháng 7 năm 1949, quân ta chia thành nhiều hướng tấn công thị trấn Ninh Minh. Địch vô cùng hoảng loạn, phần lớn lực lượng đã liên tục vượt sông Kỳ Cùng rút về Ninh Giang. Sau đó, quân ta chuẩn bị lực lượng tấn công Thượng Kim, nhưng do thiếu lực lượng, đạn dược và quân lương nên tạm thời không thể đánh chiếm Thượng Kim.

Ngày 5 tháng 7 năm 1949, Bộ Tổng Tư lệnh ra lệnh kết thúc chiến dịch và rút quân về nước. Chỉ để lại một phần lực lượng của đại đội Văn Uyên đóng quân tại khu vực Nam Quan - Ái Khẩu, đại đội Thoát Lãng đóng quân tại Lôi Bình.

Trong gần một tháng ở Long Châu, quân đội ta đã đóng góp vào việc mở rộng ảnh hưởng cách mạng, phát triển lực lượng chính trị-vũ trang, củng cố khu vực giải phóng. Cán bộ và chiến sĩ của ta đã phát huy tinh thần quốc tế vô sản cao cả, giành được sự yêu mến của nhân dân Trung Quốc. Quân ta đã phối hợp với Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc tiêu diệt và đánh bại nhiều đơn vị của quân phản động Quốc Dân Đảng, tiêu diệt, làm bị thương và bắt sống gần 400 tên địch, thu giữ 534 khẩu súng các loại, đánh chiếm các địa điểm như Thủy Khẩu, La Hồi, Hạ Đôi, Lôi Bình, Thượng Thạch, Ninh Minh..., giải phóng năm xã và hàng ngàn người dân.

PHONG BA BÃO TÁP TRÊN THẬP VẠN ĐẠI SƠN

Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn được chia thành hai mặt trận: Điền Quế và Long Châu. Khi tiếng súng vang lên ở mặt trận Long Châu, một đạo quân khác cũng hành quân về hướng Điền Quế - Thập Vạn Đại Sơn. Mặt trận Điền Quế là khu vực giáp ranh giữa Quảng Tây và Quảng Đông. Liên khu Một được lệnh thành lập một lực lượng đặc biệt mang tên Chi đội 6, gồm một số đơn vị đang tham gia chiến dịch Đông Bắc để đến Trung Quốc tham chiến. Tiểu đoàn 426 của Trung đoàn 59 được bổ sung Đại đội 148 và Tiểu đoàn Một của Trung đoàn độc lập Hải Ninh (gọi là Tiểu đoàn Minh Hổ) đều được biên chế vào chi đội này.

Trên hướng này, các chiến sĩ đã gặp vô vàn khó khăn khi hành quân, khí hậu khắc nghiệt trên vùng núi đã làm cho quân đội ta phải chịu nhiều gian truân. Thêm vào đó, rừng núi rậm rạp, hang đá nhiều, “bọn chó” (lũ thổ phỉ trên núi) ở Thập Vạn Đại Sơn ngày đêm lộng hành gây rối. Trong điều kiện nắng mưa thất thường như vậy, quân đội ta phải vượt núi băng rừng trong gần một tháng mới đến được đích.

Mùa hè năm 2009, tôi đã đến Hà Nội để phỏng vấn các nhân chứng từng tham gia Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn như: cựu y tá Phùng Thị Tham của Trung đoàn 59, cựu quân y Phạm Quý Tân của Tiểu đoàn 426, cựu quân y trưởng Trịnh Phúc Nguyên của Trung đoàn 59, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 426 Biên Cương, chính trị viên Đại đội 148 Phạm Quý và nhạc sĩ Trọng Loan... Lắng nghe họ kể lại câu chuyện vượt núi băng rừng, chịu đựng phong sương, đói khát để vượt qua hậu phương địch, giải phóng khu vực bị quân phỉ Quốc Dân Đảng chiếm đóng.

Đội y tế Trung đoàn 59 : Phùng Thị Cẩn, Nguyễn Thị Anh Tân, Thích Thị Trinh (hàng trước), Đặng Hằng Phú, Phó Bá Long, Đồng chí Hùng (hàng sau), ảnh tư liệu năm 1949


Bà Phùng Thị Tham đã viết trong chương ba “Giai đoạn đáng nhớ nhất của một cô gái Hà Nội” trong cuốn sách “Theo chân bộ đội vượt Thập Vạn Đại Sơn Trung Quốc năm 1949”: Khi biết mình sắp phải rời xa quê hương sang Trung Quốc giúp nhân dân Trung Quốc tiêu diệt quân phỉ Quốc Dân Đảng, ai cũng phấn khởi, cảm thấy vinh dự và tự hào khi được đảm nhận nhiệm vụ này, mọi người tranh nhau chuẩn bị lên đường.

Ngày 2 tháng 6 năm 1949, quân ta xuất phát từ làng Bằng, tỉnh Bắc Giang. Mặc dù đường đi rất vất vả, nhưng tinh thần lạc quan của những người lính trẻ, đặc biệt là sự có mặt của hai cô y tá duyên dáng đã làm cho không khí hành quân trở nên vui vẻ hơn, họ thỉnh thoảng tấu nhạc, hát hò; những tâm hồn trong sáng, vô tư đã làm vơi đi mệt mỏi, đói khát, đồng thời thúc giục họ quên mình chiến đấu vì nghĩa vụ quốc tế.

“Tiếng súng nổ vang giết quân thù tàn bạo, ta cất lời ca lên đường... Người anh hùng dưới cờ đỏ hát: Có một đoàn quân Việt Nam vì nhân loại băng qua biên giới, xây đắp hòa bình, tự do...” (“Bài ca viễn chinh”, nhạc sĩ Trọng Loan sáng tác, bài hát này được sáng tác trong lúc Tiểu đoàn 426 hành quân).

Quân ta từ làng Bằng đi qua Lạng Sơn có Lũng đến Đồng Mỏ, rẽ sang Bắc Cát, đi theo đường số 4 đến làng Trúc ở biên giới Việt-Trung. Từ đây, quân ta bầu bạn với rừng, vượt suối băng rừng, chống chọi với nắng gắt, vượt qua những ngọn núi cao, hiểm trở. Mỗi khi gặp đồn bốt của quân Pháp, để tránh bị phát hiện, quân đội phải thay đổi chiến thuật, hành quân ban đêm và nghỉ ngơi ban ngày. Khi đến vùng biên giới, người dân thị trấn Chi Lăng biết tin quân đội đến thì vui mừng chào đón, lúc chia tay, nhiều người còn đến tiễn và tặng cho quân đội bánh chưng, lương thực.

Ngày quân ta đến làng Trần, đồng chí Trần Phát, Ủy viên Khu Thập Vạn Đại Sơn đã đích thân đến đón. Hành quân đêm chuyển sang hành quân ngày, mọi người có thể ngắm cảnh núi rừng hùng vĩ nơi biên giới, ai nấy đều cảm thấy phấn khích, phấn khích và tự hào về nhiệm vụ mình đang thực hiện. Đồng chí Vũ Ngạn, y tá trưởng của Tiểu đoàn 426 đã ngẫu hứng sáng tác bài thơ “Đêm biên giới”, trong đó có một đoạn viết:

“...Đêm nay ở đất Trung Hoa. 
Quân Việt Nam băng qua biên giới 
Gió thổi mạnh, lòng tôi rộn ràng 
Một bước, đi đến ngày thành công 
Thông reo vang 
Như hàng ngàn quân tình nguyện quốc tế đang xung phong 
Dưới trăng là những ngọn đồi bất tận 
Tôi tuy mệt mỏi rã rời 
Nhưng lòng vẫn say đắm với cảnh tiên...”

ồng chí Phạm Quý và các cựu chiến binh Tiểu đoàn Trinh sát 426 tại Hà Nội chúc mừng sinh nhật Đại tướng Võ Nguyên Giáp ( 24/8/1992 )

Những người lính trẻ đầy lạc quan trông như những du khách đang an nhàn, nhưng thực tế không phải vậy. Họ phải băng rừng vượt núi dưới trời nắng như đổ lửa, mồ hôi ra ướt đẫm người rồi lại khô ngay lập tức. Nếu không phải nắng như thiêu thì là những trận mưa rào như trút nước, nước lũ tràn lan, đất lầy lội, gió mưa, mưa theo gió liên tục táp vào cơ thể đói khát, mệt mỏi.

Quần áo trên người ướt rồi lại khô, khô rồi lại ướt ba bốn lần một ngày. Nắng mưa đã khiến con đường hành quân càng thêm dài. Khi trời mưa, nước từ bốn phía đổ về khe suối tạo thành lũ lụt cản đường hành quân của quân đội. Bà Phùng Thị Tham không thể nào quên trận lũ hung dữ lúc bấy giờ. Bà kể: “Hàng trăm người khi đi qua một con suối cạn thì đột nhiên trời mưa lớn. Có người đã sang được bờ bên kia, có người còn ở bờ bên này. Lũ cuốn trôi mọi thứ, không ai dám vượt qua. Mưa cứ rơi mãi không ngớt, quân đội ta đành phải chờ đợi ở hai bờ.”

Khi trời mưa, nước dùng không hết; nhưng chỉ vài giờ sau, khi băng rừng lên núi, quân đội lại khát nước. Vất vả nhất là những người bị ốm hoặc bị thương do bị thổ phỉ tấn công. Đói khát, bệnh tật, đau đớn khiến nhiều đồng chí kiệt sức. Hoạn nạn mới biết lòng người, những người bị ốm hoặc bị thương không đi được thì có bốn đồng đội thay nhau cõng, hành lý của họ cũng có người giúp mang đi. Hai tuần sau, ngày 17 tháng 6, quân ta đến làng Trình Chúc dưới chân Thập Vạn Đại Sơn, tỉnh Quảng Tây. Ngày 18 tháng 6, bắt đầu vượt qua Thập Vạn Đại Sơn có độ cao hàng nghìn mét. Những ngọn núi cao và vực sâu bất tận, đi trên núi giống như đi trên mây vậy. Nắng mưa lại đến.

Không khí hanh khô, mặt trời thiêu đốt khiến cổ họng khát khô như lửa. Chúng tôi trân quý từng giọt nước, uống cũng chỉ nhấp một ngụm nhỏ để giải khát. Bà Phùng Thị Tham lại kể: “Sở dĩ nhiều chiến sĩ nam mệt hơn chúng tôi là vì chúng tôi không phải mang vũ khí, hành lý cũng ít. Do đường đi vất vả, lại phải leo dốc đứng dưới trời nắng gắt, nhiều chiến sĩ đã bị say nắng. Ở độ cao hàng nghìn mét, thời tiết rất oi bức. Y tá phải dùng thứ nước quý giá đó để dội lên người những người bị say nắng.” Khi lên đến đỉnh một ngọn núi, mệt mỏi tạm thời tan biến, lòng nhẹ nhàng, không khí mát mẻ, gió hiu hiu thổi, xa xa sông Ka Long như một dải lụa trắng ngăn cách Đông Hưng (Trung Quốc) với Móng Cái (Việt Nam), khiến người ta càng thêm nhớ nhà.

“Núi non trùng điệp 
Núi càng đi càng cao 
Lòng nhẹ tênh 
Gió gào thét 
Như cuốn đi tất cả 
Con đường phía trước 
Ba lô ướt đẫm mưa rừng 
Đi biên giới, lòng tràn đầy vui sướng 
Con đường này: nắng thiêu rừng xanh 
Cũng thiêu đốt con đường dưới chân bạn 
(Phùng Thị Tham “Mãi mãi ghi nhớ”)

Lên núi đã khó, xuống núi còn khó hơn, đáng sợ hơn. Ở nhiều đoạn dốc đứng, các chiến sĩ phải dùng dây thừng để đu xuống. Sau hai ngày ba đêm gian khổ mới vượt qua được Thập Vạn Đại Sơn. Ngày 20 tháng 6 năm 1949, quân ta đến chân núi của tỉnh Quảng Đông. Ngày 21 tháng 6 năm 1949, sau gần một tháng hành quân gian khổ, từ làng Bằng, sông Lạng, qua Lũng, Đồng Mỏ, đèo Ý, đèo Hương, đèo Ái Quốc, suối Quy Long, suối Mê, Bắc Cát, Na Nạn, làng Trúc, làng Trần, vượt biên giới đến huyện Thượng Tư và huyện Tư Lạc, tiếp tục vượt qua Thập Vạn Đại Sơn đến Bắc Lâu. 

ÂN TÌNH

Lực lượng phản động Quốc Dân Đảng đóng quân ở khu vực Thập Vạn Đại Sơn bao gồm ba trung đoàn, các đội dân đoàn ở các xã và lực lượng vũ trang của các địa chủ lớn. Khi biết tin quân ta đã vượt qua Thập Vạn Đại Sơn, tàn quân Quốc Dân Đảng vô cùng hoảng sợ, chúng bỏ Khâm Châu và Phòng Thành, rút về cố thủ các cứ điểm lớn như Na Lượng, Đông Hưng và Phòng Thành.

Sau khi nghiên cứu kỹ tình hình cụ thể, Bộ Tư lệnh quyết định tấn công Trúc Sơn. Nơi đây vừa có đường thủy ra biển, vừa có đường bộ thông đến Đông Hưng, Phòng Thành, do bốn đại đội của địch trấn giữ.

Từ trái sang phải: Nam Long, Biện Giang, A Quyên, Lý Quảng Ba, Mạnh Hùng và Đỗ Thành chụp ảnh tập thể trước khi lên đường. (Ảnh tư liệu)


Đêm ngày 5 tháng 7 năm 1949, quân ta tấn công từ ba hướng. Địch chống cự quyết liệt trong các lô cốt. Sau năm ngày bao vây, tuy quân ta không hạ được Trúc Sơn và phải rút lui, nhưng đã gây được uy thế lớn, và tiếp tục cùng Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc tiến lên giải phóng ba xã gần Phòng Thành. Sau trận này, quân ta rút về Phù Lãng để thực hiện công tác dân vận. Ngày 12 tháng 7, Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc đã dùng một tiểu đoàn để tấn công tiêu diệt quân địch đóng quanh thị trấn Trúc Sơn, thu giữ toàn bộ vũ khí. Địch sợ chết bỏ Trúc Sơn rút về Đông Hưng, sau đó lại bỏ Na Lượng rút về Phòng Thành, khu giải phóng Thập Vạn Đại Sơn được mở rộng, chính quyền cấp huyện đầu tiên được thành lập tại Na Lượng. Nhân dân sở tại vui mừng chào đón quân đội Việt Nam.

Sau khi củng cố lực lượng, quân ta tiếp tục tấn công Na Số, buộc địch phải bỏ Khuyên Chúc. Trong thời gian này, quân ta đã đánh “trận giáp chiến” ở Mão Lưỡng, tiêu diệt một số lượng không nhỏ quân địch.

Đầu tháng 8 năm 1949, trên đường từ Na Số tiến về Khâm Châu, quân ta chạm trán địch, hai bên giao tranh ở Quan Đường (phía nam thành phố Nam Ninh), quân địch yếu ớt, có tên bị tiêu diệt, có tên đầu hàng. Chiến thắng ở Quan Đường đã làm tăng thêm uy thế cho quân ta. Người dân địa phương vui mừng mang gạo, thịt đến. Giữa tháng 8 năm 1949, quân ta phối hợp với Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc phục kích địch trên đường Tai Chi thông đến Khâm Châu. Cuối tháng 9 năm 1949, quân ta phối hợp với du kích địa phương tiêu diệt và bắt sống 100 tên thổ phỉ và đầu sỏ. Sau trận này, danh tiếng của quân ta vang xa.

Cuối tháng 9 năm 1949, cơ quan lãnh đạo khu Thập Vạn Đại Sơn đã liên hệ thành công với đại quân Trung Quốc, quân ta được lệnh rút về nước, chỉ để lại một đại đội để thực hiện công tác xây dựng cơ sở và đánh địch ở khu vực giáp ranh Quảng Đông - Hải Ninh.

Trong hơn bốn tháng chiến đấu vô cùng gian khổ, quân ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế vẻ vang. Bằng những hành động cụ thể, quên mình hy sinh, quân ta đã phối hợp với Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc và du kích Thập Vạn Đại Sơn tiêu diệt những lực lượng địch quan trọng, mở rộng và kết nối các căn cứ địa ở khu vực Thập Vạn Đại Sơn. Quân ta đã đánh bại một trung đoàn của quân phản động Quốc Dân Đảng, buộc địch rút quân và giải phóng mười thị trấn, xã của huyện Phòng Thành là Phù Lãng, Na Số, Na Cẩm, Na Lượng, Giang Bình, Sửu Tổng, Đồng Cổ, Khuyên Chúc, Mão Lưỡng, Đông Hưng. Góp phần quan trọng vào việc mở rộng khu vực Thập Vạn Đại Sơn.

Để có được thắng lợi vẻ vang như vậy, một số người lính của ta đã bị thương, có người đã hy sinh cả tính mạng, hài cốt vẫn còn nằm lại trên đất của người anh em. Sự hy sinh là điều khó tránh khỏi, quân ta luôn thấm nhuần lời dặn dò của Bác Hồ và Bộ Tổng Tư lệnh trước khi lên đường. Dũng cảm chiến đấu, tuân thủ kỷ luật nghiêm ngặt, hoàn thành nhiệm vụ quốc tế, giành được sự yêu mến và giúp đỡ của nhân dân Trung Quốc. Người dân ca ngợi: “Bộ đội Giải phóng Việt Nam, mặc áo màu nâu, đội mũ đầu bò, đánh rất giỏi...”

Bộ Tư lệnh khu Thập Vạn Đại Sơn khẳng định: “Thắng lợi về quân sự là quan trọng, nhưng thắng lợi về chính trị còn quan trọng hơn”. Có lẽ, chỉ những người đã trực tiếp trải qua giai đoạn gian khổ này mới đủ để cảm nhận được ý nghĩa của nhận định này.

Một lẽ đơn giản, quân đội của Bác Hồ đã đi vào lòng người bằng những hành động thiết thực, cụ thể. Một cựu binh kể: “Khi quân ta mới đến, người dân địa phương chưa hiểu rõ về bộ đội, họ đóng chặt cửa không cho bộ đội vào. Lúc đó, khu dân cư rất bẩn, bụi bẩn, rác rưởi khắp nơi. Quân ta chia làm hai bộ phận, một bộ phận đứng gác trên đường phố để phòng địch, thổ phỉ tấn công, bộ phận còn lại giúp người dân dọn dẹp nhà cửa, đường phố. Sau đó, quân ta tụ tập lại ca hát, tấu nhạc. Ban đầu, trẻ con vì tò mò nên đến gần, sau khi quen biết, chúng chủ động đến chơi với bộ đội. Một cô y tá còn mang thuốc ra để rửa và bôi thuốc cho những đứa trẻ bị ghẻ lở. Những hành động thân thiện, gần gũi của quân ta ngay lập tức đã chiếm được lòng tin của người dân, họ mở cửa mời bộ đội vào. Quân ta tuân thủ kỷ luật, hòa đồng với người dân, không lấy một thứ gì của họ. Ai cũng tự giác, nghiêm túc dọn dẹp nhà cửa, đường phố cùng người dân, trong những ngày quân ta ở lại, nhà cửa, đường phố đều sạch sẽ, không còn một hạt bụi. Nhân dân vô cùng khâm phục.

Sau khi khâm phục và tin tưởng, người dân đã kể cho bộ đội nghe về cuộc sống của mình: “Chúng tôi bị áp bức bởi nhiều tầng lớp: Quốc Dân Đảng phản động, thổ phỉ, địa chủ cường hào..., trong nhà không có gạo để nấu, chủ yếu ăn khoai, sống chết không biết, cứ sống qua ngày...”. Chúng cướp bóc, cái gì ăn được, dùng được đều cướp đi; làng quê tiêu điều, người dân nhà tan cửa nát, đói rét, sống không bằng con vật.

Một bà cụ còn kể: “Những việc như dọn dẹp nhà cửa, yêu thương người dân, chơi đùa với trẻ con... mà quân đội Việt Nam đã làm thì quân phản động Quốc Dân Đảng và tay sai của chúng chưa bao giờ làm. Tình cảm sâu đậm giữa quân đội ta và người dân địa phương ngày càng gắn bó. Cuộc sống của người dân vô cùng khó khăn, nhà nào cũng phải ăn cháo loãng để chống đói qua ngày, đôi khi cháo cũng không đủ ăn. Cuộc sống của người dân đã khó khăn như vậy, tình cảnh của bộ đội Trung Quốc và quân du kích cũng không ngoại lệ. Đói là chuyện thường xuyên được nhắc đến, ‘Bạn đã ăn cơm chưa?’ đã trở thành câu cửa miệng của họ.” Khi ăn cơm, đại đội trưởng hoặc trung đội trưởng phải chia khẩu phần ăn nhỏ cho mọi người trước.

Khi gạo đã hết, họ nấu cháo bằng củ khoai lang nhỏ; rau cũng hết, thì ăn rái cá. Mọi người yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau mà không nói thành lời, dù cuộc sống có gian khổ đến đâu, cũng phải tiếp tục sống, vì tương lai, vì công việc, đừng nói là rái cá, bất cứ thứ gì có thể ăn được thì đều phải ăn. Đôi khi, vì thiếu vitamin trong thời gian dài, 15% người trong đơn vị bị quáng gà, nhưng mọi người đều kiên trì. Bà Nguyễn Thị Tham kể: “Lúc đó, tôi mới thực sự hiểu thế nào là đói lả mắt. Đói khiến tay chân mềm nhũn, khi kiệt sức, mắt lờ mờ, trước mắt là một màu vàng nhạt.”

Trong những ngày tháng gian khổ nhất, tình cảm giữa người với người càng trở nên đặc biệt, thể hiện cụ thể trong đời sống hàng ngày, như chia sẻ một bữa ăn. Bà Nguyễn Thị Tham kể tiếp: “Có lần, người dân đến nơi làm việc của tổ quân y, thấy các chị em ăn cháo loãng, họ rất đau lòng. Hôm sau, người dân mang đến một rổ khoai lang, các chị em rất cảm động, nhưng không dám nhận, vì người dân còn khổ hơn mình.”

Đến mỗi làng, quân đội ta đều mở một phòng khám dã chiến để khám bệnh và phát thuốc cho hàng trăm người dân, những người bị bệnh phổi hay những ca đẻ khó đều được cứu sống, không lấy một đồng nào.

Tấm gương chiến đấu dũng cảm, tuân thủ kỷ luật nghiêm ngặt, tận tâm tận lực của các quân y của ta... đã khiến người dân sở tại vô cùng cảm phục. 

DẤU ẤN KHÔNG PHAI MỜ

Dấu chân của các chiến sĩ Thập Vạn Đại Sơn trong quá trình hành quân, chiến đấu còn in đậm biết bao kỷ niệm. Những người trẻ nhất còn sống cũng đã 79 tuổi, người già nhất cũng đã gần 90 tuổi. Nhưng những kỷ niệm hào hùng trên đất nước bạn, tất cả vẫn còn sống động; mỗi khi hồi tưởng lại giai đoạn này của cuộc đời, ai nấy đều rưng rưng nước mắt.

Ngày nay, những cựu chiến binh từng trải qua trăm trận đánh lại không kìm được nước mắt khi nghĩ về những đồng đội đã ngã xuống. Họ đã rơi biết bao giọt nước mắt khi chứng kiến đồng đội hy sinh vì nền độc lập của dân tộc và tình hữu nghị giữa hai nước. 60 năm đã trôi qua, tóc đã bạc, tay đã run, nhưng họ vẫn khắc cốt ghi tâm những kỷ niệm năm xưa. 60 năm rồi, trong sâu thẳm trái tim mỗi người, một thước phim với những câu chuyện phong phú, sống động vẫn còn ẩn chứa.

Đối với nhạc sĩ Trọng Loan, những năm tháng gian khổ, hào hùng theo chân bộ đội viễn chinh mãi mãi in sâu trong tâm trí ông. Ông kể: “Những người lính Việt Nam có tài trí hơn người, tài trí thể hiện ở sự dũng cảm chiến đấu, kỷ luật nghiêm ngặt và sự linh hoạt, khéo léo trong công tác dân vận. Quân đội của Bác Hồ không chỉ giành được sự yêu mến của nhân dân Trung Quốc mà còn được các chiến sĩ Trung Quốc kính phục. Chính tinh thần chiến đấu dũng cảm, quên mình hy sinh và tinh thần quốc tế cao cả của các chiến sĩ đã khơi dậy niềm cảm hứng sáng tác trong tôi. Trong bốn tháng tham chiến, tôi đã sáng tác được mười bài hát.”

Những ca khúc viễn chinh năm xưa, như “Bài ca viễn chinh”, “Đứa con xa nhà”... đã đi vào lịch sử. Thần của những bài hát sẽ mãi mãi bất tử cùng với những kỷ niệm hào hùng một thời. 60 năm sau, những người lính già vẫn còn nhớ rõ từng lời ca. Niềm cảm hứng sáng tác của nhạc sĩ Trọng Loan đều đến từ cuộc sống thực tế, lời ca chân thực khắc họa cuộc sống và chiến đấu của bộ đội, từ đó chúng ta có thể thấy được những gian khổ mà ông và đồng đội đã trực tiếp trải qua. Bão táp, mưa sa không hề ảnh hưởng đến tâm hồn người nghệ sĩ của họ.

Ảnh chụp nhóm đồng chí Trung Quốc và Việt Nam tham gia Chiến dịchngày 18 tháng 4 năm 2001 )


Vào một đêm trăng, khi bộ đội vượt qua biên giới Việt-Trung, trong lòng các chiến sĩ trào dâng cảm xúc. Đêm hôm đó, trăng rất tĩnh lặng và đẹp. Các chiến sĩ đứng trên một ngọn núi cao nhìn về Tổ quốc. Tổ quốc dưới ánh trăng lung linh, mọi người im lặng nhìn vào cột mốc biên giới, có người cẩn thận lau chùi, có người phấn khích reo lên: “Anh em ơi, đây là biên giới giữa Tổ quốc chúng ta và Trung Quốc.” Trong bài thơ “Thập Vạn Đại Sơn”, tâm trạng của các chiến sĩ được miêu tả rất sinh động:

“...Núi non trùng điệp từ xa 
Mây ôm núi cao, núi ôm mây” 
(Phùng Thị Tham “Thập Vạn Đại Sơn”)

Trên con đường hành quân gập ghềnh, những ngôi sao lấp lánh vào ban đêm, ban ngày tận mắt chứng kiến những ngôi làng bị quân Pháp ném bom bốc lên những cột khói hình trụ, giọt nước mắt phẫn nộ trào ra. Ông Trọng Loan xúc động kể: “Chính lúc Tổ quốc bị ngoại bang giày xéo, chúng tôi đã tình nguyện lên đường, đi đến nơi gian khổ nhất trên đất nước bạn. Tất cả là vì tinh thần quốc tế cao cả, vì sự nghiệp giải phóng của nhân dân Trung Quốc...”

Đối với các chiến sĩ, sự khắc nghiệt của Thập Vạn Đại Sơn là những con đường núi gập ghềnh, vực sâu, núi cao, bệnh sốt rét, ăn không đủ no, uống không đủ nước, sự mệt mỏi khi vận chuyển trang thiết bị... Nhạc sĩ Trọng Loan lại dùng một câu chuyện vô cùng kỳ lạ để tái hiện sự khắc nghiệt, gian khổ nơi đó: “Trong quá trình hành quân, trên người bộ đội chỉ mặc một bộ quần áo đơn giản, đội một chiếc mũ “đầu bò”, trời đổ mưa là ướt sũng. Mọi người đành phải dùng chiếu để thay áo mưa.

Nhưng những cơn mưa lớn trên núi xuyên qua tất cả, khiến bộ đội run rẩy vì lạnh dù là mùa hè. Khi mặt trời ló ra, lại nóng như thiêu đốt. Tôi mang theo một cây đàn guitar tương đối tốt để sáng tác, trên đường đi người và vật cùng chịu phong ba bão táp. Yêu cây đàn, tôi đã dùng một cái chăn để bọc đàn lại, tránh gió mưa. Nhưng tránh thế nào cũng không tránh được sự khắc nghiệt của thời tiết. Vượt qua biên giới, nắng mưa trên núi đã làm hỏng cây đàn, lòng tôi đau như cắt.

Đến một gia đình người Trung Quốc, tôi định gửi cây đàn ở đó, nhưng họ thấy hình dáng kỳ lạ, lại được bọc trong một cái chăn, không biết là thứ gì, không ai muốn nhận. Cây đàn đã hỏng, không dùng được nữa, để lại cũng không yên tâm, sợ người ta tưởng là gỗ rồi đem đốt. Suy đi nghĩ lại, cuối cùng chúng tôi quyết định chôn cây đàn trong một hang đá. Để nó yên nghỉ ở đó, trong lòng tôi trỗi lên một cảm giác khó tả. Tôi và cây đàn đã cùng nhau lên đường, cùng nhau trải qua muôn vàn gian khổ, giờ mỗi người một ngả, ai mà không lưu luyến, ai mà không buồn.

Nhạc sĩ kể tiếp: “Lúc đó, không chỉ tôi, mà anh em cũng buồn rười rượi, từ đó về sau, không thể quây quần bên cây đàn nữa. Những bài hát cách mạng ca ngợi Tổ quốc vẫn được cất lên như thường, nhưng thiếu tiếng đàn, ai cũng nhớ. Lúc đó, đồng chí Sĩ Từ nói: ‘Tôi và Trọng Loan chôn đàn ở đây, không biết có thể quay lại lấy được không’.” Nói đến đây, nhạc sĩ Trọng Loan lại rơi nước mắt, súng là vật bất ly thân của người lính, còn đàn là tri kỷ của người nhạc sĩ. Khi đơn vị đến khu giải phóng, đồng chí Lê Quảng Ba đã phái một trinh sát viên đến Nam Ninh mua một cây đàn guitar để tặng nhạc sĩ Trọng Loan.

Anh liên lạc viên Phạm Quý Tân vẫn còn nhớ kỷ niệm đi qua rừng quế: “Lúc đó, bụng đói meo, vì không biết, nhiều chiến sĩ đã dùng dao gọt vỏ quế ăn, có đồng chí còn cất vào ba lô để ăn sau, có người còn dùng vỏ quế để nấu nước. Vì ăn quá nhiều, hai ngày sau, các chiến sĩ bị chảy máu cam, đi ngoài. Cấp trên biết được liền ra lệnh lục soát ba lô, vứt bỏ toàn bộ vỏ quế. Các chiến sĩ thường rỉ tai nhau một kinh nghiệm “vui vẻ”: đến một nơi nào đó, trên cửa nhà người dân đều dán họ của chủ nhà, xem họ là họ gì rồi nói rằng mình cùng họ với chủ nhà. Chắc chắn sẽ được đối xử tử tế hơn những người khác.

Tham gia Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn có một cặp vợ chồng: trưởng nhóm quân y Nguyễn Phúc Nguyên và y tá đơn vị Nguyễn Thị Lai. Trong gần 5 tháng hành quân và chiến đấu gian khổ, nhưng đối với họ, đây là khoảng thời gian ngọt ngào và đáng nhớ nhất.

Vài tháng trước khi lên đường, họ đã tổ chức đám cưới. Bà Nguyễn Thị Lai kể: “Đường xa vất vả, nhưng ai cũng rất phấn khởi. Bộ đội vượt suối băng rừng, vượt qua các đồn bốt của quân Pháp. Lúc sinh tử ai mà không sợ, đặc biệt là khi lén lút vượt qua các đồn bốt của địch, lòng tôi vô cùng căng thẳng, mồ hôi đầm đìa. Nhưng khoảnh khắc đó nhanh chóng qua đi, chính tình yêu vợ chồng, tình yêu cách mạng và nhiệt huyết của tuổi trẻ đã giúp thế hệ trẻ chúng tôi giữ vững tinh thần lạc quan cách mạng, chiến thắng khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ. Khi ra chiến trường, dù là quân Pháp, thổ phỉ hay quân Quốc Dân Đảng gì cũng không sợ.”

Tôi đùa hỏi: “Trên đường hành quân hay trên đất nước bạn, vợ chồng anh chị có ở chung phòng không?” Bà Nguyễn Thị Lai cười nói: “Không có, mặc dù vừa mới cưới, chúng tôi nhớ nhau, nhưng lúc đó, chúng tôi rất nghiêm túc, tuân thủ triệt để mệnh lệnh của cấp trên, giữ nghiêm kỷ luật. Chúng tôi chỉ cần nhìn thấy người mình yêu còn khỏe mạnh là đã hạnh phúc rồi. Chúng tôi cùng nhau thực hiện nhiệm vụ quốc tế đã là một điều rất hạnh phúc, rất vinh dự rồi. Tôi xác định rõ ràng rằng mình phải phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân; tình cảm riêng tư đặt sang một bên, nhiệm vụ là trên hết. Đôi khi chỉ cần được gặp mặt là tốt lắm rồi.” 

TINH THẦN QUẢ CẢM

Ông Phạm Quý, cựu chính trị viên Đại đội 1486 (Tiểu đoàn 426), năm nay đã 84 tuổi, sức khỏe rất yếu sau một cơn tai biến mạch máu não. Nhưng, mỗi khi nói về Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn, người lính già này lại trở nên minh mẫn, hoạt bát lạ thường. Thời gian khắc nghiệt đã không thể xóa nhòa những ký ức một thời oanh liệt của ông.

Cựu binh Phạm Quý xúc động kể: “Năm đó, tôi 24 tuổi, vừa tốt nghiệp tú tài. Năm 1946, tôi từng là chiến sĩ "cảm tử quân" bảo vệ Thủ đô Hà Nội, từng vào sinh ra tử, thề sống chết vì Tổ quốc. Là một người có học, tôi cùng một số ít chiến sĩ khác được coi là trí thức và được giao nhiệm vụ làm chính trị viên. Những trận chiến khốc liệt, những cuộc hành quân gian khổ, đói khát cũng không thể xóa nhòa một suy nghĩ: chiến đấu vì người anh em cũng chính là chiến đấu vì quê hương và nhân dân mình. Tôi tự hào vì được tham gia chiến dịch. Nhiều người trong chúng tôi từng tham gia đội cảm tử, chính tinh thần cảm tử đã thôi thúc chúng tôi chiến đấu dũng cảm.”

Vương Từ Hoa (trái), Phó Chủ nhiệm Cục Chính trị của Đoàn 3 Trung Quốc, và Đồng chí Lê Quang Bộ (phải), đại diện Bộ Tư lệnh Quân đội Việt Nam (ảnh tư liệu)


Ông kể tiếp: “Tất cả chúng tôi đã hòa vào nhau làm một, vì vậy rất khó để nói ai dũng cảm hơn ai, ai xuất sắc hơn ai. Mọi người đồng lòng trong bất cứ việc gì, mỗi người đều thấm nhuần tư tưởng vượt khó, phát huy tinh thần anh dũng và tinh thần quốc tế cao cả. Với tinh thần cảm tử năm xưa, chúng tôi đã chiến đấu và giành thắng lợi. Ra tiền tuyến sẽ có thể mất mạng, nhưng nhiều chiến sĩ vẫn xung phong, tự gánh vác những nhiệm vụ khó khăn, gian khổ nhất.”

Chính vì có tinh thần quyết tử, quân ta và Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc đã nhanh chóng giành được nhiều thắng lợi quan trọng tại khu vực Thập Vạn Đại Sơn; góp phần tích cực vào sự nghiệp giải phóng toàn Trung Quốc.

“...Thập Vạn Đại Sơn đã qua đi, khó quên 
Trận chiến Trúc Sơn vô cùng gian nan 
Chiến thắng kẻ thù muôn vàn gian khổ 
Mão Lưỡng, Trường Thán, Quan Thông 
Làng Đại Trực, tiến quân tiêu diệt địch 
Cuối cùng tiến vào Đông Hưng 
Quân Tưởng bỏ chạy, quân ta reo hò 
Căn cứ địa được mở rộng 
Tình người Việt-Trung đoàn kết sâu đậm” 
(Trên đỉnh Thập Vạn Đại Sơn - Phùng Thị Tham)

50 năm sau chiến thắng Thập Vạn Đại Sơn, vào giữa tháng 4 năm 2001, một đoàn cựu chiến binh Việt Nam từng tham gia Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn do Trung tướng Đỗ Trình dẫn đầu đã được mời trở lại chiến trường xưa. Nhân dân Trung Quốc đã nhân dịp này để bày tỏ lòng biết ơn đến các cựu chiến binh Việt Nam đã tham gia giải phóng hai khu vực Điền Quế và Việt Quế.

Trong không khí tràn ngập tình hữu nghị, những câu chuyện cảm động nhất lại được kể lại. Những ông cụ, bà cụ tóc đã bạc lại say sưa với những bài thơ hào hùng một thời.

Sau 50 năm tái ngộ, những người anh em già ôm chầm lấy nhau, nước mắt lưng tròng, tay nắm chặt tay. Họ kể cho nhau nghe về cuộc sống của mình, cùng nhau ôn lại những năm tháng chiến đấu năm xưa, tưởng nhớ những người anh em đã khuất.

Hôm nay, trở về nơi cũ, được cán bộ và nhân dân địa phương đón tiếp nồng hậu, chu đáo, khiến lòng những người lính già năm xưa cảm thấy ấm áp.

Trong số các cựu chiến binh Việt Nam, người vui mừng nhất là ông Trịnh Phúc Nguyên, ông đã gặp lại bà Trương Tú (nay là chủ tịch xã Na Lượng), người phụ nữ mà ông đã đỡ đẻ năm xưa. 50 năm sau, gặp lại ân nhân của mình, bà Trương Tú vô cùng xúc động. Bà đến gần ông Phúc Nguyên và hỏi: “Bác sĩ, bác có nhớ cháu không? Cháu là Trương Tú, là người mà năm xưa bác đã đỡ đẻ.” Ông Phúc Nguyên ngỡ ngàng, hai ông bà tóc bạc ôm chầm lấy nhau. Mọi người cũng không khỏi rưng rưng nước mắt. Sau khi lập nên những chiến công lẫy lừng, bỏ lại vũ khí để trở thành những người dân bình thường, tình cảm giữa người với người không còn khoảng cách. Thật đáng quý biết bao!

Các cấp ủy Đảng và chính quyền Trung Quốc đều đánh giá cao công lao của quân đội Việt Nam trong Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn. Lịch sử Trung Quốc cũng ghi lại những chiến công của quân đội Việt Nam. Cuốn sách “Lịch sử Chi đội thứ nhất” viết về cuộc kháng chiến của Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc và quân đội Việt Nam ở Việt Quế có ghi: “Sau bốn tháng chiến đấu với 9 trận lớn từ tháng 6 đến cuối tháng 9 năm 1949, đã buộc địch phải rút lui khỏi nhiều cứ điểm, từ đó thực hiện được mục tiêu kết nối hai khu vực Thập Vạn Đại Sơn và Lục Vạn Đại Sơn.”

Cuối tháng 9 năm 1949, cán bộ và nhân dân khu giải phóng hân hoan tiễn đưa quân đội Việt Nam khải hoàn về nước. Tại buổi lễ tiễn biệt, đồng chí Trần Minh Giang, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Chi đội Thập Vạn Đại Sơn đã phát biểu: “Thắng lợi về quân sự rất quan trọng, nhưng thắng lợi về chính trị còn quan trọng hơn.” Phó chủ nhiệm chính trị Vương Thứ Hoa nói: “Sự hỗ trợ của quân đội Việt Nam là tinh thần quốc tế vô sản cao cả.” Phần kết của cuốn sách “Lịch sử Chi đội thứ nhất” cũng viết: “Trung đoàn 59, Trung đoàn Lạng Sơn, Tiểu đoàn Đặng Công Lệnh, Tiểu đoàn Trần Vinh, Đại đội Bằng Liêu (Hải Ninh) của quân đội Việt Nam đã phát huy tinh thần quốc tế vô sản, phối hợp chiến đấu với Chi đội Ba, đóng góp vô tư để thúc đẩy tình hữu nghị chiến đấu giữa quân đội và nhân dân hai nước Trung-Việt. Những chiến công vẻ vang của họ, tinh thần không sợ kẻ thù mạnh, không sợ khó khăn, không tiếc máu xương sẽ mãi mãi được ghi vào sử sách cách mạng của nhân dân khu Thập Vạn Đại Sơn.”

Những phát biểu của các đồng chí Trung Quốc đã để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng các cựu chiến binh quốc tế Việt Nam. Dù có hy sinh cả tính mạng, họ vẫn một lòng chiến đấu và giành chiến thắng; góp phần vào sự nghiệp giải phóng của nhân dân Trung Quốc, tình hữu nghị giữa hai dân tộc. Quân đội của Bác Hồ sau khi hoàn thành nhiệm vụ về nước, trên đường đi đã nhận được sự quan tâm chu đáo của nhân dân Trung Quốc, khi chia tay cả hai bên đều bịn rịn không rời.

Những chiến sĩ đã hy sinh vì nghĩa vụ thiêng liêng đã yên nghỉ trong các nghĩa trang liệt sĩ ở Việt Nam và Trung Quốc. Đồng chí Trần Phát, đại diện Bộ Tư lệnh biên giới còn tiễn đến tận bờ sông Phù Lũng dưới chân Thập Vạn Đại Sơn, ông đã rơi nước mắt, không muốn rời xa. Khi chia tay, ông nắm chặt tay đồng chí Lê Quảng Ba, nghẹn ngào nói: “Cảm ơn các bạn, cảm ơn các đồng chí Việt Nam đã không tiếc máu xương cùng chúng tôi kề vai sát cánh chiến đấu trong lúc hoạn nạn. Các bạn đã nêu gương sáng về tinh thần quốc tế. Cảm ơn cách mạng Việt Nam. Trong điều kiện sự nghiệp giải phóng dân tộc của chính mình gặp muôn vàn khó khăn, các bạn vẫn gánh vác gánh nặng cho Trung Quốc. Thật cao thượng vô cùng!”

Cựu chiến binh Việt Nam tham gia Trận chiến Vạn Sơn

Thời gian chiến đấu vì nhân dân Trung Quốc không dài trong cuộc đời binh nghiệp, nhưng sự giúp đỡ vô tư của quân đội Việt Nam mãi mãi khắc sâu trong tâm trí nhân dân hai nước. Tinh thần trong sáng của họ là biểu hiện sinh động của tình đoàn kết, hữu nghị giữa hai dân tộc. Tinh thần dũng cảm hy sinh của họ, đặc biệt là tình người đối với nhân dân địa phương chính là biểu hiện sinh động của phong cách dân tộc Việt Nam. Đó là tình cảm sâu nặng của Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam dành cho nhân dân Trung Quốc. Hoạn nạn mới biết lòng nhau, chúng ta giúp đỡ lẫn nhau, trong thời kỳ kháng chiến của Trung Quốc, nhân dân Việt Nam đã kề vai sát cánh chiến đấu cùng nhân dân Trung Quốc. Điều này đã đặt nền tảng và niềm tin để sau này chính phủ Trung Quốc cử chuyên gia, cố vấn quân sự sang giúp cách mạng Việt Nam.

Chúng ta vừa kỷ niệm 60 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt-Trung và 60 năm chiến thắng Thập Vạn Đại Sơn. Việc ghi nhớ công lao của các chiến sĩ Việt Nam và Trung Quốc đã chiến đấu và hy sinh trên đất nước của nhau, để mỗi người dân hai nước hiểu rõ hơn và trân trọng những thành quả cách mạng đã phải đổi bằng máu và nước mắt của hai dân tộc.

Nguyễn Hoà