Sự chiếm đóng Iran của Liên Xô và Anh trong Thế chiến II

 

Trong lịch sử Chiến tranh thế giới thứ hai, có nhiều trang vẫn còn ít được công chúng biết đến, không giống như Trận Stalingrad hay cuộc đổ bộ của Đồng minh vào Normandy. Một trong số đó là chiến dịch chung của Anh và Liên Xô để chiếm đóng Iran, mang tên mã "Chiến dịch Sympathy".

Chiến dịch này diễn ra từ ngày 25 tháng 8 đến ngày 17 tháng 9 năm 1941. Mục tiêu của nó là bảo vệ các mỏ và trữ lượng dầu của Iran khỏi nguy cơ bị quân đội Đức và các đồng minh của họ chiếm giữ, cũng như bảo vệ hành lang vận tải (hành lang phía nam), nơi Đồng minh cung cấp hàng viện trợ Lend-Lease cho Liên Xô. Ngoài ra, Anh lo ngại về vị thế của mình ở miền nam Iran, đặc biệt là các mỏ dầu của Công ty Dầu mỏ Anh-Iran, và lo lắng rằng Đức có thể thâm nhập vào Ấn Độ và các nước châu Á khác thuộc phạm vi ảnh hưởng của Anh thông qua Iran.

Phải nói rằng, đây là một trong số ít các chiến dịch thành công của Hồng quân trong bối cảnh những sự kiện đầy kịch tính của mùa hè năm 1941 trên mặt trận Xô-Đức. Để thực hiện chiến dịch này, ba quân đoàn binh chủng hợp thành (Quân đoàn 44, dưới sự chỉ huy của Thiếu tướng A. A. Khadeev; Quân đoàn 47, dưới sự chỉ huy của Thiếu tướng V. V. Novikov; và Quân đoàn 53 độc lập Trung Á, dưới sự chỉ huy của Trung tướng S. G. Trofimenko), cùng với các lực lượng không quân và hạm đội Caspi đáng kể, đã được huy động.


Cần lưu ý rằng chính chiến dịch này đã trở thành hành động quân sự chung đầu tiên của các quốc gia đồng minh, vốn do điều kiện địa chính trị thay đổi đã chuyển từ đối đầu kéo dài hàng thập kỷ sang hợp tác và trở thành đồng minh trong cuộc chiến chống Đức. Việc Liên Xô và Anh cùng nhau phát triển và thực hiện chiến dịch đưa quân vào Iran, tiến hành chính sách phối hợp trong khu vực, đã trở thành cơ sở thực tế để thực hiện hợp tác chặt chẽ hơn sau này, khi các đơn vị của quân đội Mỹ cũng được đưa vào Iran.

Các Đồng minh, dù lợi ích của họ không hoàn toàn trùng khớp, tại thời điểm đó đều hướng tới một mục tiêu: thứ nhất, ngăn chặn mối đe dọa rất thực tế về một cuộc đảo chính quân sự thân Đức ở Iran và sự đột nhập của lực lượng Wehrmacht vào đó; thứ hai, đảm bảo một cách chắc chắn việc vận chuyển vũ khí, đạn dược, lương thực, thuốc men, nguyên liệu chiến lược, nhiên liệu và các hàng hóa Lend-Lease khác qua lãnh thổ Iran, cần thiết cho Liên Xô trong cuộc chiến; và thứ ba, đạt được việc trung lập ban đầu được Iran tuyên bố dần dần biến thành sự hợp tác quy mô lớn và chuyển sang phe Liên minh chống Hitler.


Phải nói rằng, ảnh hưởng của Đức ở Iran là rất lớn. Với việc Cộng hòa Weimar biến thành Đệ Tam Đế chế, quan hệ với Iran đã đạt đến một cấp độ hoàn toàn mới. Đức bắt đầu tham gia vào việc hiện đại hóa kinh tế và cơ sở hạ tầng của Iran, cải cách quân đội Shah. Sinh viên và sĩ quan Iran được đào tạo ở Đức, những người mà bộ máy tuyên truyền của Goebbels không ngần ngại gọi là "con trai của Zarathushtra". Người Ba Tư được tuyên bố là người Aryan thuần chủng và được miễn trừ khỏi các điều luật chủng tộc Nuremberg bằng một sắc lệnh đặc biệt.

Trong tổng kim ngạch thương mại của Iran vào năm 1940-1941, Đức chiếm 45,5 phần trăm, Liên Xô chiếm 11 phần trăm và Anh chiếm 4 phần trăm. Đức đã thâm nhập sâu vào nền kinh tế Iran, và xây dựng mối quan hệ với nước này đến mức Iran thực tế đã trở thành con tin của Đức và trợ cấp cho các chi phí quân sự ngày càng tăng của họ.

Khối lượng vũ khí Đức nhập khẩu vào Iran tăng nhanh chóng. Trong tám tháng đầu năm 1941, hơn 11.000 tấn vũ khí và đạn dược đã được nhập khẩu vào đó, bao gồm hàng ngàn súng máy và hàng chục khẩu pháo.


Với sự bùng nổ của Thế chiến thứ hai và cuộc tấn công của Đức vào Liên Xô, bất chấp việc Iran chính thức tuyên bố trung lập, hoạt động của các cơ quan tình báo Đức trong nước đã gia tăng. Với sự khuyến khích của chính phủ do Reza Shah đứng đầu, một người có thái độ thân Đức, Iran đã trở thành căn cứ chính cho các điệp viên Đức ở Trung Đông. Các nhóm trinh sát và phá hoại được thành lập trên lãnh thổ nước này, các kho vũ khí được thiết lập, kể cả ở các khu vực phía bắc Iran giáp với Liên Xô.

Trong nỗ lực lôi kéo Iran vào cuộc chiến chống Liên Xô, Đức đã đề nghị Reza Shah viện trợ vũ khí và tài chính. Đổi lại, họ yêu cầu "đồng minh" của mình chuyển giao các căn cứ không quân của Iran, mà các chuyên gia Đức có liên quan trực tiếp đến việc xây dựng. Trong trường hợp quan hệ với chính quyền Iran hiện tại trở nên căng thẳng, một cuộc đảo chính đã được chuẩn bị. Với mục đích này, vào đầu tháng 8 năm 1941, đô đốc Canaris, người đứng đầu tình báo Đức, đã đến Tehran dưới vỏ bọc đại diện của một công ty Đức. Vào thời điểm đó, dưới sự chỉ đạo của Thiếu tá Friesh thuộc Abwehr, các đơn vị chiến đấu đặc biệt đã được thành lập ở Tehran từ những người Đức sống ở Iran. Cùng với một nhóm sĩ quan Iran tham gia âm mưu, họ sẽ tạo thành lực lượng tấn công chính của những kẻ nổi dậy. Cuộc nổi dậy được lên kế hoạch vào ngày 22 tháng 8 năm 1941, sau đó được hoãn lại đến ngày 28 tháng 8.


Đương nhiên, cả Liên Xô và Anh đều không thể phớt lờ diễn biến này.

Liên Xô đã ba lần – vào ngày 26 tháng 6, ngày 19 tháng 7 và ngày 16 tháng 8 năm 1941 – cảnh báo lãnh đạo Iran về sự gia tăng hoạt động của các điệp viên Đức trong nước và đề nghị trục xuất tất cả các công dân Đức (trong đó có hàng trăm chuyên gia quân sự) khỏi lãnh thổ, vì họ đang tiến hành các hoạt động không phù hợp với sự trung lập của Iran. Tehran đã bác bỏ yêu cầu này.

Họ cũng từ chối yêu cầu tương tự từ phía Anh. Trong khi đó, người Đức ở Iran tiếp tục gia tăng hoạt động, và tình hình ngày càng trở nên đe dọa đối với Liên minh chống Hitler.

Vào lúc 4 giờ 30 phút sáng ngày 25 tháng 8, đại sứ Liên Xô và công sứ Anh đã cùng nhau đến gặp Shah và trao cho ông công hàm của chính phủ hai nước về việc đưa quân đội Liên Xô và Anh vào Iran.

Các đơn vị của Hồng quân đã được đưa vào các tỉnh phía bắc của Iran. Quân đội Anh được đưa vào các khu vực phía nam và tây nam. Trong vòng ba ngày, từ ngày 29 đến ngày 31 tháng 8, cả hai nhóm quân đã tiến đến một tuyến đường đã định trước và hội quân tại đó.


Cần phải nói rằng, Liên Xô có đầy đủ căn cứ pháp lý để phản ứng dứt khoát trước diễn biến như vậy ở biên giới phía nam của mình theo Điều VI của Hiệp ước giữa Liên Xô và Ba Tư ngày 26 tháng 2 năm 1921. Điều này quy định:

“Hai Bên ký kết đồng ý rằng trong trường hợp các quốc gia thứ ba có ý định thực hiện chính sách xâm lược bằng sự can thiệp vũ trang trên lãnh thổ Ba Tư hoặc biến lãnh thổ Ba Tư thành căn cứ cho các hành động quân sự chống lại Nga, nếu điều đó đe dọa đến biên giới của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga hoặc các cường quốc đồng minh của nó, và nếu Chính phủ Ba Tư sau khi được Chính phủ Xô viết Nga cảnh báo mà tự mình không thể ngăn chặn mối nguy hiểm này, Chính phủ Xô viết Nga sẽ có quyền đưa quân vào lãnh thổ Ba Tư để thực hiện các biện pháp quân sự cần thiết vì lợi ích tự vệ. Sau khi loại bỏ mối nguy hiểm này, Chính phủ Xô viết Nga cam kết rút quân ngay lập tức khỏi lãnh thổ Ba Tư.”


Ngay sau khi quân Đồng minh bắt đầu tiến vào Iran, một sự thay đổi trong nội các chính phủ Iran đã diễn ra. Thủ tướng mới của Iran, Ali Foroughi, đã ra lệnh ngừng kháng cự, và ngày hôm sau lệnh này đã được meclis (quốc hội) Iran phê chuẩn. Vào ngày 29 tháng 8 năm 1941, quân đội Iran đã hạ vũ khí trước người Anh, và vào ngày 30 tháng 8, trước Hồng quân.

Vào ngày 18 tháng 9 năm 1941, quân đội Liên Xô tiến vào Tehran. Reza Shah, người cai trị Iran, đã thoái vị chỉ vài giờ trước đó để nhường ngôi cho con trai mình – Mohammad Reza Pahlavi – và cùng với một người con trai khác, một người ủng hộ nhiệt thành của Hitler, bỏ trốn vào vùng chịu trách nhiệm của Anh. Shah được đưa đến đảo Mauritius trước, sau đó đến Johannesburg, nơi ông qua đời ba năm sau đó.

Sau khi Reza Shah thoái vị và rời đi, con trai cả của ông, Mohammad-Reza, đã lên ngôi. Các đại diện chính thức của Đức và các đồng minh của họ, cũng như hầu hết các điệp viên của họ, đã bị giam giữ và trục xuất.


Ảnh các cuộc chiếm đóng của Liên Xô-Anh vào Iran:








Vào ngày 29 tháng 1 năm 1942, Hiệp ước Liên minh giữa Liên Xô, Vương quốc Anh và Iran đã được ký kết. Các Đồng minh cam kết "tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền và độc lập chính trị của Iran". Liên Xô và Anh cũng cam kết "bảo vệ Iran bằng mọi phương tiện sẵn có chống lại mọi sự xâm lược từ Đức hoặc bất kỳ cường quốc nào khác". Để thực hiện nhiệm vụ này, Liên Xô và Anh được quyền "duy trì lực lượng bộ binh, hải quân và không quân trên lãnh thổ Iran với số lượng mà họ cho là cần thiết". Ngoài ra, các quốc gia Đồng minh được cấp quyền không giới hạn để sử dụng, duy trì, bảo vệ và trong trường hợp cần thiết quân sự, kiểm soát tất cả các phương tiện liên lạc trên khắp Iran, bao gồm đường sắt, đường cao tốc và đường đất, sông, sân bay, cảng, v.v. Trong khuôn khổ hiệp ước này, việc vận chuyển hàng hóa quân sự-kỹ thuật của Đồng minh từ các cảng Vịnh Ba Tư đến Liên Xô đã được thực hiện thông qua Iran.

Đổi lại, Iran cam kết "hợp tác với các quốc gia Đồng minh bằng mọi phương tiện và mọi cách có thể để họ có thể thực hiện các nghĩa vụ đã nêu trên".

Hiệp ước quy định rằng quân đội Liên Xô và Anh phải rút khỏi lãnh thổ Iran không muộn hơn sáu tháng sau khi kết thúc các hoạt động quân sự giữa các quốc gia Đồng minh và Đức cùng các đồng phạm của nó. (Năm 1946, quân đội đã được rút hoàn toàn). Các cường quốc Đồng minh đảm bảo với Iran rằng họ sẽ không yêu cầu lực lượng vũ trang của Iran tham gia vào các hoạt động quân sự, đồng thời cam kết tại các hội nghị hòa bình sẽ không chấp thuận bất cứ điều gì gây tổn hại đến toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền hoặc độc lập chính trị của Iran.

Sự hiện diện của quân đội Đồng minh ở Iran, việc xử lý các điệp viên Đức, và việc kiểm soát các tuyến thông tin liên lạc chính trong nước đã thay đổi đáng kể tình hình quân sự-chính trị ở biên giới phía nam của Liên Xô. Mối đe dọa đối với khu vực dầu mỏ quan trọng – Baku, nơi cung cấp khoảng ba phần tư tổng sản lượng dầu của Liên Xô – đã được loại bỏ. Ngoài ra, sự hiện diện quân sự của Đồng minh còn có tác dụng răn đe đối với Thổ Nhĩ Kỳ. Và Bộ Tư lệnh Xô viết đã có thể rút bớt một phần lực lượng khỏi biên giới phía nam và sử dụng chúng trên mặt trận Xô-Đức. Tất cả những điều này cho thấy hiệu quả của sự hợp tác giữa các cường quốc vĩ đại, đã đoàn kết trong cuộc chiến chống lại sự xâm lược của phát xít.