Bức tường Thái Bình Dương của Stalin

Trong những năm Chiến tranh Thế giới thứ hai, cái tên "Bức tường Đại Tây Dương" trở nên nổi tiếng rộng rãi. Những công trình phòng thủ kiên cố được xây dựng theo lệnh của Hitler đã trải dài suốt bờ biển phía tây của châu Âu, từ Đan Mạch đến biên giới Tây Ban Nha. Công trình vĩ đại này, có quy mô tương đương với Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc hay tuyến phòng thủ Mannerheim, đã được đưa lên màn ảnh trong hàng chục bộ phim, và nhiều công sự của Bức tường Đại Tây Dương hiện nay đã trở thành bảo tàng. Thế nhưng, một công trình quân sự khổng lồ khác – “Bức tường Thái Bình Dương của Stalin” – lại hầu như không được thế giới biết đến. Dù rằng các pháo đài của nó đã kéo dài gần như suốt bờ biển Viễn Đông của Nga – từ Anadyr đến biên giới Triều Tiên.

Những khẩu đội pháo ven biển đầu tiên của Nga tại Viễn Đông đã xuất hiện từ những năm 1860 tại Nikolaevsk-na-Amure, và đến đầu cuộc chiến Nga–Nhật, các pháo đài ven biển cũng đã được xây dựng ở Port Arthur và Vladivostok. Tuy nhiên, trong cuộc chiến ô nhục đó đối với nước Nga, các pháo đài này lại không phát huy được nhiều tác dụng – nguyên nhân là do sự bảo thủ đáng kinh ngạc của các tướng lĩnh và đô đốc dưới thời Sa hoàng.

Mặc dù từ năm 1894, nhà máy Obukhov đã bắt đầu sản xuất các khẩu pháo 305/40 mm (305 là cỡ nòng, 40 là tỷ lệ chiều dài nòng so với cỡ nòng, tức chiều dài nòng pháo là 12,2 mét) với tầm bắn 26 km, nhưng trên các chiến hạm và trận địa pháo ven biển, người ta vẫn giữ nguyên các khẩu pháo chỉ bắn được 4, cao lắm là 6 km. Các tướng lĩnh già nua chỉ cười nhạo những sĩ quan đề xuất thay thế bằng pháo tầm xa hơn: “Ai mà ngu đến mức bắn ở khoảng cách 10 verst (khoảng 10 km) cơ chứ?!” Theo quan điểm của họ, tàu địch sẽ phải tiếp cận các pháo đài ven biển của ta ở cự ly chừng 4 km, thả neo và bắt đầu cuộc đấu pháo.

Thế nhưng người Nhật không tiến sát Port Arthur hay Vladivostok mà từ xa bắn phá không thương tiếc các mục tiêu quân sự và dân sự. Sau những bài học đắt giá từ cuộc chiến Nga–Nhật, Bộ Quốc phòng Nga đã bắt đầu xây dựng hàng chục khẩu đội pháo bằng bê tông quanh khu vực Vladivostok. Không phải tất cả đều hoàn thành trước khi Thế chiến thứ nhất nổ ra. Nhưng do Nhật Bản không còn là mối đe dọa với đế quốc Nga nữa, nhu cầu phòng thủ biên giới Viễn Đông không còn cấp thiết. Kết quả là hầu hết các khẩu đội pháo ven biển ở Vladivostok và Nikolaevsk-na-Amure đều bị tháo dỡ, và pháo được chuyển ra mặt trận hoặc đưa về các trận địa ven biển ở vùng Baltic. Đến khi Hồng quân “kết thúc cuộc hành quân của mình bên bờ Thái Bình Dương”, thì tại Vladivostok, cũng như khắp vùng Primorye, đã không còn tàu chiến hay pháo ven biển nào nữa.



Biên giới không được bảo vệ

Trong mười năm đầu tiên dưới chính quyền Xô Viết, vùng Viễn Đông hoàn toàn không có hải quân cũng như hệ thống phòng thủ ven biển. Việc bảo vệ đường bờ biển dài hàng nghìn km chỉ được thực hiện bằng một vài chiếc thuyền buồm nhỏ được trang bị pháo cỡ nhỏ. Mọi việc có lẽ đã cứ tiếp tục như vậy, nếu như vào năm 1931, một mối đe dọa nghiêm trọng không xuất hiện ở Viễn Đông và Siberia: Nhật Bản chiếm đóng Mãn Châu và đưa ra yêu sách lãnh thổ đối với Liên Xô. Hàng nghìn dặm bờ biển của Viễn Đông trở nên hoàn toàn không có khả năng tự vệ trước lực lượng hải quân hùng mạnh của Nhật Bản.

Vào cuối tháng 5 cùng năm, chính phủ quyết định củng cố tuyến phòng thủ ven biển Viễn Đông bằng các trận địa pháo mới. Một ủy ban đặc biệt do Ủy viên Nhân dân phụ trách quốc phòng – Kliment Voroshilov – dẫn đầu đã đến Vladivostok để khảo sát vị trí đặt pháo. Sau khi đánh giá các vị trí chiến đấu, Voroshilov đi đến một kết luận đáng lo ngại: “Chiếm Vladivostok chỉ là một cuộc viễn chinh đơn giản, có thể giao cho bất kỳ kẻ phiêu lưu nào được thuê”.

Nhưng Stalin kiên quyết không nhường cho người Nhật dù chỉ một tấc đất: các đoàn tàu chở xe tăng, hệ thống pháo binh, xe bọc thép bắt đầu đổ về Viễn Đông… Các sư đoàn Viễn Đông được ưu tiên trang bị những máy bay mới, đến mức chỉ trong thời gian ngắn, khu vực này đã sở hữu vài trăm chiếc máy bay ném bom tầm xa TB-3, luôn sẵn sàng tấn công các thành phố của Nhật Bản bất cứ lúc nào. Đồng thời, việc xây dựng một “Bức tường Thái Bình Dương” khổng lồ – bao gồm hàng trăm trận địa pháo ven biển và các lô cốt bê tông – cũng được triển khai rầm rộ.



Công trình khổng lồ

Trên danh nghĩa, công trình vĩ đại này không có tên gọi chính thức, và từng khu vực riêng lẻ của nó được gọi một cách khiêm tốn là các “khu vực phòng thủ ven biển”.

“Bức tường Thái Bình Dương của Stalin” kéo dài từ Chukotka, nơi thành lập Khu vực phòng thủ ven biển miền Bắc, đến tận điểm cực nam của bờ biển Viễn Đông thuộc Liên Xô. Hàng chục trận địa pháo được xây dựng tại Kamchatka, dọc theo bờ vịnh Avacha, miền Bắc đảo Sakhalin, khu vực Magadan và Nikolaevsk-na-Amure. Vào thời điểm đó, bờ biển vùng Primorye vẫn còn hoang vắng, vì vậy các trận địa pháo ven biển chủ yếu bảo vệ các lối tiếp cận đến căn cứ hải quân của Hạm đội Thái Bình Dương. Tuy nhiên, ở khu vực Vladivostok, toàn bộ bờ biển từ vịnh Preobrazheniye đến biên giới Triều Tiên đều bị khống chế bởi hỏa lực từ hàng trăm khẩu pháo ven biển. Hệ thống phòng thủ này được chia thành các khu vực riêng biệt: Hasan, Vladivostok, Shkotovo và Suchan. Trong đó, khu vực Vladivostok là mạnh nhất. Ví dụ, chỉ riêng trên đảo Russky – liền kề bán đảo Muravyov-Amursky – đã có bảy trận địa pháo ven biển được xây dựng. Trong đó, trận địa số 981 mang tên Voroshilov, nằm trên núi Vetlina, không chỉ là trận địa mạnh nhất trên đảo Russky mà có thể là mạnh nhất toàn Liên Xô: tầm bắn của sáu khẩu pháo 305/52 mm lên đến 53 km!

Các trận địa pháo tháp pháo là những “thành phố ngầm” thực thụ. Lượng bê tông dùng để xây dựng trận địa Voroshilov tương đương với lượng dùng để xây toàn bộ nhà máy thủy điện Dnepro GES. Dưới lớp bê tông dày 3 đến 7 mét là các hầm chứa đạn, hầm thuốc nổ, khu vực sinh hoạt cho binh lính – có bệnh xá, phòng tắm, nhà bếp, phòng ăn và cả “phòng Lenin”. Mỗi trận địa đều có máy phát điện diesel riêng, cung cấp điện và nước sinh hoạt một cách tự chủ. Hệ thống lọc không khí và thông gió đặc biệt cho phép binh lính có thể sống trong tháp pháo nhiều tuần lễ trong trường hợp môi trường xung quanh bị nhiễm độc hoặc nhiễm phóng xạ.

Ngay cả trong kỷ nguyên hạt nhân, các tháp pháo này vẫn không lỗi thời. Để phá hủy hoàn toàn một trận địa pháo 305 mm hoặc 180 mm, cần ít nhất hai quả bom nguyên tử với sức công phá từ 20 kiloton trở lên trúng trực tiếp. Nếu một quả bom 20 kiloton (bằng sức công phá quả bom nguyên tử thả xuống Hiroshima) nổ cách tháp pháo 200 mét, thì nó vẫn tiếp tục chiến đấu được.

Vào đầu những năm 1950, nhiều trận địa được trang bị hệ thống điều khiển hỏa lực tự động, liên kết với đài radar loại “Zalp”.

Bức tường khổng lồ của Stalin đã hoàn toàn hoàn thành nhiệm vụ được giao. Hải quân Nhật Bản không dám lại gần bờ biển. Tuy nhiên, một số trận địa pháo ven biển thuộc “Bức tường Thái Bình Dương” vẫn có dịp khai hỏa vào tháng 8 năm 1945. Các trận địa ở khu vực Hasan đã yểm trợ hỏa lực cho cuộc tiến công tại biên giới Triều Tiên. Còn trận địa pháo 130 mm số 945, nằm tại mũi Lopatka ở cực nam Kamchatka, đã hỗ trợ cho cuộc đổ bộ của Hồng quân lên đảo Shimushu (nay là Shumshu) – hòn đảo cực bắc trong quần đảo Kuril – trong vài ngày liền.



Giải thể!

Vào đầu những năm 1960, các trận địa pháo ven biển thuộc “Bức tường Thái Bình Dương” bắt đầu bị giải thể, và trong vòng ba mươi năm sau đó, tất cả đã bị đưa ra khỏi biên chế. Các thiết bị điện tử và quang học đều bị tháo dỡ, thậm chí ở một số nơi cả pháo cũng bị dỡ bỏ. Quá trình tháo dỡ càng bị đẩy nhanh bởi những "người săn kim loại", những kẻ phá dỡ mọi thứ có chứa kim loại màu.

Các trận địa pháo và lô cốt bê tông hoang vắng vẫn đứng đó – như những tượng đài thầm lặng cho một thời đại vĩ đại mà tàn khốc.