Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng xã hội học tập


Nghị quyết của Đại hội đồng UNESCO lần thứ 24, năm 1990, về kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Sự đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống văn hóa ngàn năm của dân tộc Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc mình và tiêu biểu cho sự thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau” . Trong đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là một phần trong di sản tư tưởng của Người, là một tài sản quý giá đối với mỗi người và đối với toàn xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một xã hội học tập có vai trò và ý nghĩa to lớn đối với quá trình xây dựng phát triển và công cuộc đổi mới nền giáo dục của nước ta hiện nay.

Các Đại hội đại biểu toàn quốc từ lần thứ IX đến lần thứ XI của Đảng luôn nhấn mạnh rằng, phải có những đổi mới mạnh mẽ về giáo dục nhằm chuẩn bị cho từng cá nhân và cho cả cộng đồng dân tộc bước đi vào thế kỷ XXI. Sự đổi mới toàn diện nền giáo dục là chuyển đổi mô hình giáo dục hiện hữu sang mô hình xã hội học tập. Chính vì vậy, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ “Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời”[1]. Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta là “Trong xã hội học tập, mọi cá nhân có trách nhiệm học tập thường xuyên, suốt đời, tận dụng mọi cơ hội học tập để làm người công dân tốt; có nghề, lao động với hiệu quả ngày càng cao; học cho bản thân và những người xung quanh hạnh phúc; học để góp phần phát triển quê hương, đất nước và nhân loại”[2]. Có thể nói, những quan điểm, chủ trương, của Đảng và Nhà nước về giáo dục và đào tạo đều xuất phát từ tư tưởng Hồ Chí Minh về học tập suốt đời và thực hiện lời dạy của Người. Trong phạm vi một bài tham luận, tôi xin đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng xã hội học tập với tấm gương sáng ngời về ý chí tự học, học suốt đời của Người và các nội dung chính là: thực hiện nền giáo dục mang tính dân tộc và nhân dân sâu sắc; học tập suốt đời và học phải gắn với hành, lý luận phải đi đôi với thực tiễn và học để làm người, để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

1. Chủ tịch Hồ Chí Minh - tấm gương sáng ngời về tự học, họp tập suốt đời.

Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước. Ngày từ nhỏ, Người đã sớm thừa hưởng được những tố chất thông minh, ham học hỏi từ gia đình. Cụ thân sinh ra Người là Nguyễn Sinh Sắc (1863-1929). Là một người hiếu học, thông minh, được nhà nho Hoàng Đường, ông ngoại của chủ tịch Hồ Chí Minh hết lòng dạy bảo. Cụ Sắc đỗ Cử nhân vào năm Giáp Ngọ (1894) và đỗ Phó Bảng vào năm Tân Sửu (1901)[3]. Đối với các con, cụ luôn giáo dục ý thức lao động để hiểu rõ đạo lý làm người, đặc biệt quan tâm đến việc học hành. Cậu bé Nguyễn Sinh Cung thường được cha dẫn theo, nghe cha đàm đạo với các nhân sĩ yêu nước về việc làm thế nào để giải phóng đất nước, làm sao cho dân khỏi đói, khổ.. .[4] Nếu như, ông Sắc“đã truyền cho con nền văn hóa trí tuệ và chí khí mãnh liệt, dám đương đầu và vượt qua mọi gian nan để vươn tới sự nghiệp lớn, tính cách cửng cỏi, ý chí quyết liệt của xứ Nghệ”, lòng yêu nước thương dân sâu sắc, thì bà Hoàng Thị Loan “như một làn gió mát, mang hơi thở dân gian, nâng cao tâm hồn các con” [5]. Với những câu chuyện cổ tích, câu hò, câu ví, tục ngữ và truyền thống ứng xử kính trên, nhường dưới, tôn sùng cái đức, đề cao cái tài là những bài học đầu tiên của cuộc đời mà bà Loan đã dạy dỗ các con. Gia đình là cội nguồn về nhân cách, đạo đức, lòng yêu nước thương dân và tính hiếu học của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Quá trình học tập trên trường, lớp chính qui như sau: Bác đã học lớp trung đẳng (lớp nhì) tại Trường Quốc học Huế và lớp cao đẳng (lớp nhất) ở Trường Tiểu học Quy Nhơn. Trong thời gian hoạt động ở nước ngoài, Người có học ở Trường Đại học Phương Đông (1923), Đại học Quốc tế Lênin (1934), nghiên cứu sinh Viện nghiên cứu các vấn đề thuộc địa (1937) với luận án về cách mạng ruộng đất ở Đông Nam Châu Á. Nhưng Bác chỉ luôn nhận mình tự học và trên thực tế cả cuộc đời Bác vẫn tự học là chính.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh là minh chứng về tấm gương tự học và ý thức học tập suốt đời. Mười ba tuổi, lần đầu tiên cậu bé Nguyễn Sinh Cung nghe ba chữ Pháp là: tự do, bình đẳng, bác ái của nền văn minh Pháp đã nung nấu ý chí muốn tìm hiểu “những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy”[6]. Ngày 5/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành từ Bến cảng Nhà Rồng, Sài Gòn rời Tổ quốc “đi với hai bàn tay lao động, làm bất cứ việc gì miễn đủ sống để đi”[7]. Người đặc biệt chú ý đến việc học ngoại ngữ. Trong bản lý lịch đại biểu dự Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ 7, Bác đã ghi:“Trình độ: Tự học; Ngoại ngữ: biết các thứ tiếng: Pháp, Anh, Trung Quốc, Ý, Đức, Nga”[8]. Nhưng trên thực tế, dựa vào những lần Bác đi thăm nước ngoài, cũng như những lần đón tiếp các phái đoàn ngoại giao tới thăm Việt Nam, Người còn có thể sử dụng thông thạo khá nhiều ngoại ngữ khác nữa như: tiếng Xiêm, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ả Rập, tiếng của rất nhiều dân tộc thiểu số Việt Nam… Vốn ngoại ngữ đó của Bác không phải do “thiên bẩm” mà có, tất cả đều xuất phát từ sự khổ công luyện tập của Người trong suốt quá trình bôn ba tại nước ngoài.

Trong quá trình hoạt động cách mạng, Bác học mọi nơi, mọi lúc, mỗi địa điểm dừng chân là “một trường đại học”. Người chú trọng việc đọc sách với phương pháp ghi chép lại những ý hay. Bên cạnh đó, việc viết báo được Bác dành nhiều thời gian học hỏi, rèn luyện. Người học ở sách báo, đồng nghiệp, bạn bè, nhân dân. Người học từ thực tiễn sinh động ở các nước đế quốc, nước thuộc địa, ở phong trào cách mạng trên thế giới. Tự học của Bác Hồ có mục đích cuối cùng là làm cách mạng, giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Tự học của Người là tiếp nhận có chọn lọc, đúc kết tinh hoa văn hóa của nhân loại, đặc biệt là văn hoá phương Đông và văn hoá phương Tây tìm ra con đường giải phóng dân tộc, đất nước mình.

Đến những năm tháng cuối đời, mặc dù sức khỏe đã già yếu nhưng Bác vẫn thể hiện tinh thần hiếu học, Đại tướng Hoàng Văn Thái kể rằng, năm 1969, mỗi lần đến làm việc, ông thường thấy trên chiếc bàn con bên giường của Bác để đầy sách báo đang xem. Ông lo lắng đến sức khỏe của Bác, nên đề nghị: “Thưa Bác, Bác mệt, Bác nên đọc ít, để nhiều thời gian nghỉ ngơi thư thả cho lại sức”. Bác trả lời, giọng như tâm sự mà rành rẽ, dứt khoát từng lời: “Chú bảo Bác không đọc sách báo ư? Dù già yếu cũng phải học, phải đọc sách báo nâng cao hiểu biết và nhất là vấn đề nắm vững tình hình chứ!”[9]

Có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thừa hưởng tố chất thông minh, tinh thần ham học hỏi, lòng yêu nước từ truyền thồng gia đình, quê hương. Tuy nhiên, cuộc đời hoạt động cách mạng của Người là quá trình tự học bền bỉ, học mọi nơi, mọi lúc, học tập suốt cả cuộc đời. Bác Hồ là tấm gương sáng ngời để các thế hệ Việt Nam đời đời noi theo và học tập.

2. Nội dung xây dựng một xã hội học tập theo quan điểm của Hồ Chí Minh

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng xã hội học tập, bài viết đề cập đến những nội dung cơ bản như: 1) xây dựng một nền giáo dục của một nước độc lập, dân tộc, nhân dân; 2) học suốt đời, học đi đối với hành; 3) học để làm người, học để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân,

Thứ nhất, xây dựng một nền giáo dục của một nước độc lập, dân tộc và nhân dân

Suốt cuộc đời hoạt động của Bác Hồ nhằm thực hiện mục tiêu: “ Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành".[10] Có thể nói, xuất phát điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một xã hội học tập phải trên cơ sở một nền giáo dục của một nước độc lập thì mọi người mới có thể “ai cũng được học hành”. Ðặc biệt, ở "Chương trình Việt Minh" (1941), Bác chủ trương: "Hủy bỏ nền giáo dục nô lệ. Gây dựng nền quốc dân giáo dục” và “ Mỗi dân tộc có quyền dùng tiếng mẹ đẻ trong nền giáo dục dân tộc mình. Lập các trường chuyên môn huấn luyện chính trị, quân sự, kỹ thuật để đào tạo các lớp nhân tài... Khuyến khích và giúp đỡ nền giáo dục quốc dân làm cho nòi giống ngày thêm mạnh"[11]. Nội dung này thể hiện rõ nét qua chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta và Bác Hồ trong sự phát triển cách mạng nước ta.

Trước khi cách mạng Tháng Tám thành công, Bác Hồ đã nhiều lần nhắc đến một nền giáo dục có tính toàn dân. Trong cuốn "Ðường kách mệnh" (năm 1925) và "Chánh cương vắn tắt của Ðảng" (2-1930), Bác cũng xác định rõ: “Phải lập trường học cho công nhân, nông dân, cho con em họ” và "Phổ thông giáo dục theo công nông hóa"[12]. Hay báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản ngày 18/2/1930, Người viết bằng Tiếng Anh “to make education for all”- “Tiến hành giáo dục cho mọi người”, đây cũng chính là đường lối giáo dục chung của thế giới thường hay viết tắt theo tiếng Anh là EFA- giáo dục cho mọi người (Hội nghị giáo dục thế giới đầu tiên ở Thái Lan, năm 1990). Như vậy, ngay từ những năm 30 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định triết lý giáo dục này như là một trong những điều kiện tiên quyết để tạo nên sức mạnh nhân dân tiến hành làm cuộc cách mạng giải phóng khỏi ách độ hộ thực dân, phong kiến, giành độc lập tự do cho đất nước.

Sau cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Hồ Chí Minh xác định thực dân Pháp đã dùng nạn dốt như một phương pháp độc ác để cai trị Việt Nam khiến cho hơn 90% đồng bào bị mù chữ. Ngày 8/9/1945, Chính phủ ban hành sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ, quyết định thành lập cho nông dân và thợ thuyền những lớp học bình dân buổi tối. Việc học chữ quốc ngữ bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi người. Người đã kêu gọi mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ, chống nạn thất học. Trong bài “Chống nạn thất học” (4/10/1945), Bác viết: “Một trong những việc cấp tốc lúc này là nâng cao dân trí”và “Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia công cuộc xây dựng đất nước và trước hết phải biết đọc, phải biết viết chữ quốc ngữ”[13]. Chỉ sau một năm, hoạt động Bình dân học vụ đã có 2.520.678 người thoát nạn mù chữ (dân số lúc đó là 22 triệu người).[14]

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tính nhân dân của hệ thống giáo dục là “ai cũng được học hành” là việc thực hiện “giáo dục cho mọi người”, xây dựng một xã hội học tập. Để đạt được mục tiêu đó thì ai cũng phải đi học, dù là đàn ông đàn bà, người già người trẻ, thanh niên, thiếu nhi, nhi đồng; dù là người tá điền, người làm công cho gia đình, công nhân trong hầm mỏ, nhà máy, là cán bộ, đảng viên, quân nhân, hội viên các đoàn thể, giáo viên, người làm công tác huấn luyện. Người kêu gọi mỗi người biết chữ đều phải tham gia dạy cho người mù chữ ."Vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ không biết thì con bảo, người ăn người làm không biết thì chủ nhà bảo, các người giàu có thì mở lớp ở tư gia dạy cho người không biết chữ ở hàng xóm láng giềng, các chủ ấp, chủ tá điền, chủ hầm mỏ, nhà máy thì mở lớp học cho những tá điền, những người làm của mình"[15]

Sự thành công của việc nạn mù chữ ngay sau khi cách mạng mới thành công đã đặt tiền đề cho việc phát triển nền giáo dục cách mạng và xây dựng một xã hội học tập ngày nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn Đảng, toàn dân thực hiện công việc mang ý nghĩa văn hóa lớn lao mà nhân loại mãi đến mấy chục năm sau mới thực hiện được.[16]

Tính nhân dân gắn bó với tính dân tộc bởi Bác rút ra một chân lý vô cũng sâu sắc là “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Đó chính là triết lý ngàn đời của các nền văn minh, sự trải nghiệm thực tế trong những năm tháng Hồ Chí Minh bôn ba ở hải ngoại. “Giáo dục là một giá trị cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển, làm ngọn đuốc soi đường khai sáng – khai phóng, khai trí cho dân tộc”[17] xây dựng đất nước sau khi thoát khỏi ách thống trị của chế độ nửa phong kiến, nửa thuộc địa.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (1945-1975), Chủ tích Hồ Chí Minh luôn coi trọng phát triển giáo dục của nước nhà. Khi dân tộc ta bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh khẳng định; “ Chúng ta phải có một nền giáo dục kháng chiến và kiến quốc”. Khi cách mạng Việt Nam cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, Hồ Chí Minh nêu rõ “Văn hóa giáo dục phải phát triển mạnh để phục vụ yêu cầu cách mạng. Văn hóa giáo dục là một mặt trận quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”[18]

Như vậy, tư tưởng mong muốn xây dựng một nền giáo dục của một nước độc lập, tự do với việc mọi người đều được học hành đã được Hồ Chí Minh xác định ngay từ khi Người bắt tay vào hoạt động cách mạng. Tư tưởng này thể hiện rõ nét hơn qua sau khi cách mạng tháng Tám thành công với những việc làm thiết thực nhắm chống “giặc dốt”, hay xây dựng nền giáo dục kháng chiến và kiến quốc khi đất nước có chiên tranh. Tính dân tộc gắn bó với tính nhân dân sâu sắc là nét nổi bật trong việc xây dựng một xã hội học tập theo tư tưởng của Người.

Thứ hai, xây dựng một xã hội với việc học tập suốt đời, học đi đôi với hành

Trên thực tế, Hồ Chí Minh không chỉ là tấm gương sáng ngời về tự học, học tập suốt đời. Về mặt lý luận, học tập suốt đời là một luận điểm quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về tiến tới xây dựng một xã hội học tập. Theo Bác việc học tập là học suốt đời và nhất thiết học phải đi đôi với hành.

Hồ Chí Minh ý thức rất rõ là sự học là vô biên, vô cùng vì thế giới tiến bộ không ngừng và “ai không học là lùi". Ngày 21-7-1956, nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khóa I, Trường Đại học Nhân dân Việt Nam, Bác dặn “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn công tác lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày càng đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành cho kịp nhân dân”[19]. Khi nói chuyện với cán bộ, đảng viên, công nhân, học sinh, tùy theo đối tượng Người luôn nhắc đến vấn đề học tập suốt đời, và học tập phải gắn với thực tế.

Đối với đảng viên, Người nhắc nhở” Mỗi đảng viên phải tích cực học tập. Phải thực hiện lời dạy của Lê nin là học, học nữa, học mãi”[20]. Việc học không kể tuổi tác, Bác phê bình “Bác thường nghe nói có đồng chí mới 40 tuổi mà đã cho mình là già nên không chịu học tập. Nghĩ như vậy không đúng, 40 tuổi chưa phải là già. Bác đã 76 tuổi nhưng vẫn cố gắng học thêm. Chúng ta phải học và hoạt động cách mạng suốt đời. Còn sống thì còn phải học, còn phải hoạt động cách mạng” [21]

Về phương pháp học, Bác căn dặn mỗi người phải dành một phần thời gian trong ngày để học,không phải như “thời vụ”. Người nói với cán bộ đã kết thúc một khoá huấn luyện là "anh em sẽ còn phải học nữa, học mãi khi ra làm việc". Người còn nhắc nhở cán bộ cơ quan "mỗi ngày ít nhất phải học tập một tiếng đồng hồ" và xem việc cán bộ đảng viên vì bận việc hành chính hoặc quân sự mà xao nhãng chuyện học tập là "một khuyết điểm rất to”. Mặt khác, không chỉ học tập mà phải tiến đến mức "ham học" là đạt đến mức giác ngộ cao. Đây chính là một sự thay đổi về chất bởi khi ta ham học thì tự việc học đã đem lại sự thoả mãn, thích thú và ta sẽ tìm đến việc học một cách tự giác, hăm hở và khi đó việc học chắc chắn sẽ có hiệu quả cao hơn.[22]

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong bất cứ hoàn cảnh nào, thời bình hay thời chiến, thì “cũng phải thi đua học thi đua dạy tốt, học tốt”. Trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh, “sự nghiệp giáo dục của nước ta vẫn phát triển nhanh, mạnh hơn bao giờ hết”[23]. Bên cạnh đó, Người khẳng định là trong cách học thì "lấy tự học làm cốt". Có thể thấy Hồ Chí Minh đã rất coi trọng trách nhiệm tự học của chính người học, tự học thêm để làm chủ được tri thức, để biến hạt hiểu biết cơ bản được gieo xuống ban đầu trong đầu óc mình nảy nở thành cây tri thức vững chãi.

Để việc học tập suốt đời đạt hiệu quả cao thì “ Học để đi đôi với hành. Học để hành càng ngày càng tốt hơn”. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”(tháng 10/1947), Bác viết:

“Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận.

Lý luận cốt để áp vào thực tế. Chỉ học thuộc lòng dể lòe thiên hạ thì lý luận ấy vô ích”.” Vì vậy chúng ta phải gắng học, đồng thời học thì phải hành”[24]

Bên cạnh đó, Bác Hồ căn dặn với từng cấp học, bậc học:

Với bậc Đại học“thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thực hiện giúp ích cho công cuộc nước nhà” .

Với bậc Trung học “thì cần đảm bảo cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không thực tế cho đời sống”[25].

Với bậc tiểu học, Người căn dặn “Cách dạy phải nhẹ nhàng, và vui vẻ tránh gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ người lớn. Phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức khỏe của các cháu”. Người kết luận “Giáo dục nhi đồng là một khoa học. các bạn hãy cố gắng học tập, nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm để tiến bộ mãi, nhất là phải làm kiểu mẫu trong mọi việc để các em bắt chước”[26]

Có thế nói, luận điểm “học tập suốt đời” là điểm nhấn quan trọng trong tư tưởng của Bác Hồ về xây dựng một xã hội học tập. Quan điểm này đòi hỏi mọi người suốt đời phải không ngừng tự hoàn thiện bản thân mình. Học suốt đời cũng chính là “chìa khóa của thời đại mới” - thế kỷ XXI (theo Tổ chức giáo dục, khoa học, văn hóa Liên hợp Quốc)[27]. Mặt khác, Người cũng nhấn mạnh đến phương pháp học là “tự học là cốt”, học tập phải gắn với thực hành, lý luận phải đi đôi với thực tiễn.

Thứ ba, học để làm người, để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân

Nội dung “học để làm người” “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân” chính là tư tưởng chủ đạo của triết lý giáo dục của Hồ Chí Minh. Lời ghi trang đầu Sổ vàng truyền thống Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương, tháng 9/1949, Hồ Chí Minh đã xác định mục đích của việc học tập: “Học để làm việc, làm người; làm cán bộ”Học để phụng sự Đoàn thể; giai cấp và nhân dân; Tổ quốc và nhân loại;Muốn đạt được mục đích, thì phải cần, kiệm, liêm, chính; chí công vô tư”[28]. Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng xác định mục tiêu lâu dài của giáo dục là “ Vì lợi ích 10 năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”[29].

Mục tiêu giáo dục tổng quát nhất là “giáo dục làm người” đây là cái nền của mục tiêu xã hội: giáo dục người công dân. Con người sinh ra phải qua giáo dục, theo nghĩa rộng của từ này, mới thành người có tính người và tình người, là một thành viên của gia đình, cộng đồng và xã hội. Nhưng để sống trong các mối quan hệ với gia đình, cộng đồng và xã hội thì giáo dục phải dạy “làm Người” [30]. Nội dung này được Hồ Chí Minh cụ thể hóa phù hợp với các đối tượng khác nhau phân theo lứa tuổi, ngành nghề, đoàn thể, giới tính mà tác giả chưa có điều kiện để nghiên cứu, hệ thống đầy đủ. Trong đó, Người đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục và học tập của thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước.

Nói về mục đích của nền giáo dục cách mạng, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Các thầy cô giáo có nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang là đào tạo cán bộ cho dân tộc. Vậy giáo dục cần nhằm vào mục đích là thật thà phụng sự nhân dân” Cụ thể là nền giáo dục cách mạng sẽ đào tạo con em những người lao động thành “những người công dân có ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục nhằm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”[31]. Về nhà trường, Người nói: Trường học của chúng ta là trường học của chế dộ dân chủ nhân dân, nhằm mục địch đào tạo những người công dân và cán bộ tốt, những người chủ tương lai tốt của nước nhà”[32]

Nội dung “học để làm người”, “để phụng sự Tổ quốc,phục vụ nhân dân” của Bác Hồ được Người cụ thể hóa phù hợp với lứa tuổi.

Với thiếu niên, nhi đồng, Người dạy:”Cách dạy trẻ cần làm cho chúng biết: Yêu Tổ quốc, thương đồng bào, chuộng lao động, giữ kỷ luật, biết vệ sinh, học văn hóa”; Đối với các em nhỏ thì “tuổi nhỏ làm việc nhỏ”, Người khuyên cứ “5 đến 10 cháu tổ chức thành một đội, giúp nhau học hành. Khi rảnh, mỗi tuần mỗi lần cả đội giúp nhau đi giúp đồng bào [33]. Đồng thời cần có sự phối hợp giữa nhà trường - xã hội - gia đình nhằm“ khuyến khích con em chăm chỉ học tập, sinh hoạt lành mạnh và hăng hái giúp ích nhân dân”[34]. Mặt khác, Hồ Chí Minh còn cho rắng cần biết kết hợp giữa việc học tập việc chơi “trong lúc học cũng cần cho chúng chơi, trong lúc chơi cũng cần cho chúng học”[35] và tránh không "để trẻ em “già sớm so với tuổi”;

Với thanh niên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nhiều kỳ vọng “thanh niên bây giờ là thế hệ vẻ vang”, để xứng đáng là người chủ của đất nước một trong những điều mà Bác căn dặn là “ Phải cố gắng học hỏi để không ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn hóa và kỹ thuật để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân”[36]

Với cán bộ, đảng viên thì “phải thường xuyên giáo dục cán bộ trẻ, tiếp tục chăm sóc, bồi dưỡng họ để tiếp tục chăm sóc bồi dưỡng giáo dục họ” để “ làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”[37]

Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh giáo dục, học tập phải mang tính toàn diện “ phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất”[38], thành những người thừa kế xây dựng đất nước vừa”hồng” vừa “chuyên”. Đồng thời, đạo đức và tài năng là hai nội dung không thể thiếu trong việc bồi dưỡng giáo dục, trong đạo đức là cái gốc. Người nói“ Dạy cũng như học phải chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng, đó là cái gốc rất là quan trọng”[39]. Điều này phù hợp với theo truyền thống của dân tộc ta là “Tiên học lễ, Hậu học văn”.

Có thể nói, theo tư tưởng Hồ Chí Minh việc giáo dục và học tập nhằm đến mục tiêu là “học để làm người, để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”. Điều này được Hồ Chí Minh đề cập cụ thể, rõ nét trong tư tưởng của Người về mục tiêu của việc giáo dục và học tập đối vơi mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ. Người xác định, giáo dục phải phù hợp với các lứa tuổi, phải mang tính toàn diện và chú trọng đến đạo đức – cái gốc của con người.

Tóm lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về tự học và học tập suốt đời để các thế hệ sau noi theo. Di sản tư tưởng của Người về xây dựng xã hội học tập là xây dựng một nền giáo dục của một nước độc lập mang tính dân tộc và nhân dân sâu sắc, gắn với việc học tập suốt đời, học đi đôi với hành và hướng đến mục đích cao cả là học để làm người, để phụng sự Tổ quốc, hết lòng phục vụ nhân dân. Có thể xem đó như “những lời tiên tri”của Bác Hồ bởi những nội dung cốt lõi này đã bắt gặp xu thế của thời đại khi trên thế giới giáo dục và đào tạo đã trở thành yếu tố quyết định tương lai của mỗi dân tộc, sự phát triển của mỗi quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa [40]. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội học tập là một tài sản quý giá, có tính chất phương pháp luận làm căn cứ cho quá trình đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục ở nước ta hiện nay, đặc biệt là xây dựng một xã hội học tập đáp ứng những nhu cầu về giáo dục của thời đại mới.

MỤC LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Một số lời dạy và mẩu chuyện về tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban Tư tưởng – văn hóa Trung ương, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007.

Tài liệu học tập Tư tưởng Hồ Chí Minh (dùng cho cán bộ, đảng viên cơ sở), Ban Tư tưởng – văn hóa Trung ương, Nxb Chính trị Quốc gia , Hà Nội, 2003.

Chuyện kể bên mộ bà Hoàng Thị Loan, Bá Ngọc - Trần Ngọc Siêu , Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 2004.

Triết lý giáo dục Thế giới và Việt Nam, Phạm Minh Hạc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013.

Hồ Chí Minh toàn tập, 12 tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004

Nghiên cứu, xác minh tư liệu và địa chỉ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và hoạt động ở nước ngoài từ năm 1911 đến năm 1941, Nxb Chính trị - Quôc gia, Hà Nội, 2011.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội. 2011.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về học tập suốt đời, Hồ Thiệu Hùng, Viện Nghiên cứu Giáo dục (http://www.ier.edu.vn)