Nguyễn Thị Loan Giang, Quá trình phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người

Trong toàn bộ di sản văn hóa và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì tư tưởng về quyền con người mang những giá trị phát triển toàn diện, là một bộ phận có ý nghĩa quan trọng đối với cách mạng nước ta trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Đối với Chủ tich Hồ Chí Minh quyền con người không chỉ là quyền sống, quyền tồn tại mà là quyền được làm người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng vấn đề quyền tự nhiên của con người lên một tầm cao mới về chất, dưới ánh sáng của thế giới quan khoa học, phản ánh đúng thực trạng đặc thù của dân tộc Việt Nam. Người đã nhận thức hết sức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tự do cá nhân và tự do của cộng đồng, giữa giải phóng cá nhân và giải phóng toàn xã hội. Người khẳng định rằng, muốn giải phóng toàn bộ những lực lượng xã hội, muốn xã hội phát triển, thì trước hết phải giải phóng toàn diện cá nhân - con người, tạo ra những tiền đề cho sự phát huy cao độ những khả năng tiềm tàng trong mỗi cá nhân. Và chỉ khi đó, quyền con người mới được hiện thực hóa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp cận quyền con người trong chỉnh thể toàn diện giữa quyền tự do của cá nhân với quyền tự do của toàn dân tộc. Trong tác phẩm “Nhật ký trong tù” Hồ Chí Minh viết :

“ Người lại bị coi rẻ hơn lợn,
Chỉ vì người không có quyền tự chủ”([1])

Vì vậy quyền con người có một giá trị cao nhất đối với người Việt Nam đó là “ Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Cho nên suốt cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh phấn đấu với mục tiêu “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” ([2]).

I/ Khởi nguồn tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người.

Sinh ra trên mảnh đất địa linh sinh nhân kiệt trong một gia đình nho giáo, chính điều nay là khởi thủy để tạo nên tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người. Mảnh đất nơi sinh ra Chủ tịch Hồ Chí Minh với truyền thống yêu nước, đoàn kết, thương người, Nguyễn Sinh Cung đã được học những bài học đầu đời về ngay chính những câu chuyện kiên cường bất khuất của dân tộc Việt Nam với lịch sử về dựng nước và giữ nước chính điều đó hình thành nên tấm lòng “yêu nước thương nòi” của chủ tịch Hồ Chí Minh. Tiếp đó là truyền thống gia đình, ngay từ thuở ấu thơ đã có những ảnh hưởng rất lớn. Mẹ Bác - bà Hoàng Thị Loan - một mẫu người phụ nữ đảm đang, đôn hậu và có sự am hiểu vốn văn hoá dân gian mang đậm bản sắc địa phương, truyền thống dân tộc, thông qua những những điệu hát ru của người mẹ đã phản ánh trung thực những khát vọng ý chí và phẩm chất của tầng lớp lao động bình dân về nỗi thống khổ của người dân mất nước. Chính những câu hát ru đó đã ươm hạt giống yêu thương con người trong Chủ tịch Hồ Chí Minh. Và hình ảnh người cha - ông Nguyễn Sinh Sắc - chính cách sống, cách suy nghĩ của cụ Phó bảng đã có những ảnh hưởng rất lớn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Là một vị quan của triều đình nhà Nguyễn nhưng ông có một tấm lòng thương nước thương dân, bởi ông đã nhận định được rằng: “Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ hựu nô lệ”, nghĩa là (Quan trường là nô lệ trong những người nô lệ, lại càng nô lệ hơn) Và ông đã có những cách nhìn nhận thế cuộc mới bằng những buổi đàm đạo văn thơ luôn có cậu bé Nguyễn Sinh Cung đứng cạnh hầu trà để nghe thế sự. Sau khi đỗ Phó bảng ông đã được bổ nhiệm làm chức quan Thừa biện bộ Lễ, trông coi việc học tập ở trường Quốc tử giám, nhưng vốn có tinh thần yêu nước, khẳng khái, ông thường chống đối lại bọn quan trên và thực dân Pháp. Vì vậy, sau một thời gian làm quan ông bị cách chức. Ông vào Nam Bộ làm thầy thuốc, dạy học, sống cuộc đời thanh bạch.

Bối cảnh xã hội từ giữa thế kỷ thứ XIX, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã có những nhân tố mới do ảnh hưởng của trào lưu cách mạng dân chủ tư sản. Trong bối cảnh đó, “ái quốc” bao hàm cả ý nghĩa thương dân, là đấu tranh giành lại độc lập, xóa bỏ thân phận nô lệ cho dân tộc. Các phong trào Duy tân, Đông kinh Nghĩa Thục, phong trào Đông Du... diễn ra sôi sục khắp Bắc, Trung, Nam trong các năm 1906 -1908, thu hút nhiều tri thức trẻ tuổi. Phong trào Đông Du do cụ Phan Bội Châu lãnh đạo với tôn chỉ giành độc lập dân tộc, thiết lập chế độ cộng hòa đại nghị tư sản bằng bạo động vũ trang. Phong trào cải cách của cụ Phan Chu Trinh và nhiều bậc chí sĩ khác với chủ trương đấu tranh hòa bình: “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, đều bị thực dân Pháp câu kết với chế độ phong kiến đàn áp thẳng tay. Năm 1908, Cụ Phan Bội Châu bị trục xuất khỏi Nhật, Cụ Phan Chu Trinh bị bắt và ba năm lưu đày Côn Đảo. Tất cả các phong trào yêu nước đều có một kết cục chung là thất bại, phải chứng kiến cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân khổ cực, lầm than mà vẫn chưa tìm ra một lối đi mới cho cách mạng Việt Nam.

Thời gian học tập và đấu tranh ở trên mảnh đất Huế cũng có những ảnh hưởng rất lớn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh bởi Huế lúc bấy giờ là mảnh đất trung tâm kinh tế chính trị, nơi mà hình ảnh người dân bị nô lệ giữa hai tầng áp bức rõ ràng nhất của chế độ phong kiến và chính quyền thực dân. Trong bài trả lời phỏng vấn nhà thơ Ô-xip Ma-đen-xtan (Liên Xô) năm 1923, Nguyễn Ái Quốc kể lại: “Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái… Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy…”, nhưng ở trường học cho người bản xứ, người ta dạy người như dạy con vẹt và không cho họ đọc sách báo tiến bộ. Vì vậy “tôi quyết định tìm cách đi ra nước ngoài”([3]). Từ đó, Hồ Chí Minh không chỉ xác định mục đích tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, mà còn xác định mục đích tìm cách mang lại các quyền con người cho nhân dân lao động ở Việt Nam và trên thế giới.

Nói tới nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người là sự kế thừa có chọn lọc những tư tưởng nhân quyền tiến bộ của các nước phương Đông cũng như các nước phương Tây, và không thể không nói tới những ảnh hưởng sâu sắc của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga cũng như sự nghiệp xây dựng đất nước của nhân dân Liên Xô dưới sự lãnh đạo của V.I. Lê-nin và Đảng Cộng sản Liên Xô. Trong hồi ký “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lê-nin”, Người viết: “Lúc đầu chính chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đưa tôi tin theo Lê-nin… Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác – Lê-nin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới”.

II/ Quá trình phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập tới quyền con người rất sớm, người đã đặt nền móng lý luận và thực tiễn bằng việc khẳng định quyền con người gắn liền với quyền dân tộc, với độc lập chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ. Người đã chỉ ra rằng quyền con người chỉ có thể có được bằng con đường đấu tranh cách mạng chống áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Chỉ có như vậy thì các quyền cá nhân và quyền dân tộc mới được bảo đảm bền vững. Điều căn bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã nâng cao vai trò của con người từ tận cùng đau thương, tăm tối, vùng lên, đứng dậy làm Người. Hồ Chí Minh vạch ra tư tưởng phổ biến phản ánh những nội dung cơ bản về quyền con người, đó là: “quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Ngay từ những ngày đầu bôn ba khắp năm châu bốn bể để tìm ra con đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận ra thân phận những con người lao động ở đâu trên thế giới cũng giống nhau, cũng bị áp bức bóc lột cũng bị mất quyền con người. Nên lần đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra một kết luận “Vậy là, dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người – giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi – tình hữu ái vô sản” ([4]).

Năm 1919 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng để hình thành và phát triển tư tưởng về quyền con người của Nguyến Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Sau khi Chiến tranh thế giới một kết thúc, đầu năm 1919 các nước đế quốc thắng trận họp tại Hội nghị ở Versailles (Pháp) nhằm chia lại thị trường thế giới. Thay mặt hội những người Việt Nam yêu nước ở Pháp. Nguyễn Ái Quốc đã gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam tới Hội nghị Versailles do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, trong đó gồm 8 yêu sách cơ bản của quyền con người :

1. Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị;

2. Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu; xoá bỏ hoàn toàn các toà án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam;

3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận;

4. Tự do lập hội và hội họp;

5. Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương;

6. Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ;

7. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật;

8. Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do người bản xứ bầu ra, tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ.( [5])

Nội dung đấu tranh đầu tiên trong Bản yêu sách của nhân dân An Nam, là đòi hỏi thực dân Pháp cải cách nền công lý nhằm bảo đảm các quyền con người, trong đó gắn liền vấn đề “độc lập dân tộc” với vấn đề “các quyền tự do dân chủ của nhân dân”. Nguyễn Ái Quốc vừa biết chiếm lĩnh đỉnh cao về “quyền dân tộc” và “quyền tự do dân chủ”, vừa biết kết hợp tài tình hai mặt tất yếu không thể tách rời đó: quyền sống, tự do của dân tộc và quyền sống, tự do của con người. Nhưng Bản yêu sách không được hội nghị thông qua. Người đi đến kết luận rằng chủ nghĩa đế quốc thực dân không hề muốn trao quyền tự quyết cho các dân tộc thuộc địa, chia sẻ các thành quả tự do, dân chủ, bình đẳng, nhân quyền cho nhân dân lao động. Các dân tộc không thể trông chờ sự ban ơn của chủ nghĩa đế quốc, mà phải tự đấu tranh để giành lấy độc lập dân tộc, phải làm cách mạng. Vứt bỏ ảo tưởng vào sự ban ơn của chủ nghĩa đế quốc và các trò lừa bịp bằng các mỹ từ tự do, bình đẳng, Nguyễn Ái Quốc quyết tâm tìm kiếm con đường cứu nước khác triệt để hơn, thực tế và khả quan hơn. Cho đến khi bắt gặp ánh sáng của “Luận cương của Lê nin về các dân tộc thuộc địa” để soi sáng cho nhận thức của chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền con người và bảo vệ quyền con người. Từ đường lối của Quốc tế cộng sản về ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc đã thúc đẩy Nguyễn Ái Quốc trở thành người cộng sản và là người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920. Năm 1925, khi dịch ‘Quốc tế ca’ sang tiếng Việt, Nguyễn Ái Quốc đã cảm nhận được sự cần thiết của vấn đề quyền con người - những quyền tự nhiên vốn có của con người, không phải là sự ban phát, thừa nhận, hay mặc cả từ bất cứ chủ thể nào, kể cả nhà nước. Chính vì vậy, để có nhân quyền, người dân Việt Nam phải trải qua một cuộc đấu tranh đầy gian khổ, ác liệt để giành lấy độc lập dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Người viết:

"Việc ta ta phải gắng lo.

Chẳng nhờ trời phật, chẳng nhờ thần linh

Công nông mình cứu lấy mình

Sửa sang thế đạo, kinh dinh nhân quyền"

Đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930, Chánh cương vắn tắt của Đảng do Hồ Chí Minh khởi thảo đã khẳng định: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.([6]) Và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết lên những dòng liên quan đến vấn đề quyền con người:

“a, Dân chúng được tự do tổ chức.

b, Nam nữ bình quyền, v.. v.

c, Phổ thông giáo dục theo công nông hóa.”([7])

Như vậy Hồ Chí Minh đã vạch ra mối liên hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là điều kiện tiên quyết cho việc giải quyết vấn đề quyền con người và đảm bảo cho việc thực hiện các quyền con người của nhân dân lao động.

Từ năm 1930 trở đi tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người đã có một bước phát triển mới cho đến năm 1945, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam mới của dân dưới hình thức “Ủy ban dân tộc giải phóng” do Đại hội quốc dân họp ở Tuyên Quang ngày 13-8-1945 bầu ra, sau đó được cải tổ thành “Chính phủ lâm thời” để chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa. Mười chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh, cũng có thể nói là của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đã thể hiện rõ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền con người. Trong mười chính sách, đáng chú ý có những chính sách thể hiện nổi bật và trực tiếp các quyền và tự do của con người, như: “Ban bố những quyền của dân: a) nhân quyền; b) tài quyền (quyền sở hữu); c) dân quyền (quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ, quyền tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, ngôn luận, hội họp, đi lại, quyền bình đẳng dân tộc, nam nữ” (chính sách thứ 5); “xây dựng nền quốc dân giáo dục; chống nạn mù chữ, phổ thông và cưỡng bách giáo dục đến bậc sơ cấp, kiến thiết nền văn hóa mới” (chính sách thứ 9)([8]).

Đến ngày 2/9/1945 Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập là hai câu được trích dẫn từ “Tuyên ngôn Độc lập” của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (1776) và “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của cách mạng Pháp (1791) đều nói đến quyền con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy trong hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng này những giá trị vững bền, đó là “Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một sự thật hiển nhiên, đó là “ Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do” ([9]). Người đã mở rộng quyền của con người thành quyền của dân tộc. Quyền lợi của mỗi cá nhân được coi là cơ sở cho quyền lợi của dân tộc. Tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình, đó là sự thống nhất giữa quyền sống của mỗi con người và quyền độc lập của dân tộc.

Một trong những tư tưởng nổi tiếng, mang tầm vóc thời đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập là đã nêu lên một luận điểm hoàn toàn mới về quyền con người: Quyền con người không chỉ là quyền của cá nhân mà còn là quyền tự quyết của mỗi dân tộc, thể hiện rõ tính thống nhất không thể tách rời giữa quyền con người, quyền công dân và quyền dân tộc thiêng liêng. Chính Hồ Chí Minh đã nêu lên khái niệm quyền con người mới được tuyên bố với đầy đủ ý nghĩa lịch sử cụ thể của nó, đặc biệt là cơ sở lý luận và những tiền đề cơ bản cần thiết để thực hiện nó.

Năm 1966, Liên hiệp quốc lại thông qua 2 công ước quốc tế được coi là “Bộ luật nhân quyền quốc tế”. Đó là Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (1966) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (1966). Năm 1993, Liên hiệp quốc lại ra Tuyên bố Viên và Chương trình hành động. Những văn kiện này đã xác định: Quyền dân tộc tự quyết là một quyền con người. Điều 1 của hai công ước trên đã khẳng định: “Tất cả các dân tộc đều có quyền dân tộc tự quyết...”. Tuyên bố Viên và Chương trình hành động đã nhấn mạnh: “Việc khước từ quyền dân tộc tự quyết là sự vi phạm nhân quyền”. Như vậy, rõ ràng, tư tưởng về quyền dân tộc tự quyết trong Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi trước nhận thức chung của Liên hiệp quốc hơn 20 năm. Đó là đóng góp lớn lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc phát triển sáng tạo tư tưởng quyền con người của nhân loại trong thế kỷ 20.

Ngay khi tuyên bố trước thế giới về sự ra đời một nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thì chính Hồ Chí Minh đã bàn đến vấn đề sống còn của dân tộc lại là vấn đề về quyền của con người đó là “Giết giặc đói, giết giặc dốt” rồi sau đó mới đến “Giặc ngoại xâm”. Trong cuộc họp đầu tiên của Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Hồ Chí Minh cũng bàn về quyền con người. Người viết: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chúng ta phải thực hiện ngay:

1. Làm cho dân có ăn.

2. Làm cho dân có mặc.

3. Làm cho dân có chỗ ở.

4. Làm cho dân có học hành”([10])

Quyền con người được thể hiện qua cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội ngày 6/1/1946. Hồ Chí Minh đã khẳng định “Trong cuộc Tổng tuyển cử; hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử. Không chia gái trai, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là công nhân Việt Nam thì đều có hai quyền đó” ([11])

Trước khi qua đời trong bản di chúc của chủ tich Hồ Chí Minh đã nói lên điều mong muốn về quyền con người đó là “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”(12) . Tư tưởng quyền con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn được thể hiện phong phú trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng lâu dài của Người, cả trên lĩnh vực lý luận và thực tiễn, là tài sản vô giá của Đảng và nhân dân ta.

III/ KẾT LUẬN

Tư tưởng của Chủ tich Hồ Chí Minh trở thành những tư tưởng lịch sử vô giá, kết tinh những tinh hoa đạo đức và tâm hồn cao đẹp, những nội dung cơ bản, những quan điểm cốt yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh, vạch ra phương hướng phát triển cho cách mạng Việt Nam cả hôm nay và mai sau

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người vẫn tiếp tục soi sáng con đường đấu tranh và bảo vệ quyền con người trong thời đại hiện nay. Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã khẳng định quan điểm nhất quán của mình: “Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người”. Đó vừa là mục tiêu, đồng thời cũng là động lực phát triển của xã hội Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để quyền con người luôn được phát huy không còn là hình thức, mất dân chủ, thì phải kéo ngắn khoảng cách phân hóa giữ người giàu và người nghèo, kỷ cương pháp luật nghiêm minh tạo nên một xã hội ổn định an toàn để con người phát huy tiêm lực của mình…Nếu chúng ta phát huy được sức mạnh của quyền con người thì đó là vấn đề then chốt để khơi dậy và huy động những lực lượng cách mạng to lớn tiềm ẩn nhân dân vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong công cuộc hội nhập và phát triển cùng thế giới. Dân tộc Việt Nam tự hào khi có Chủ tịch Hồ Chí Minh, một con người được UNESCO cộng nhận “Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc - danh nhân văn hóa”.

([1]) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2000, t3, tr 332

(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t4, tr 161

([3]) Hồ Chí Minh: Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb Văn học, Hà Nội, 1981, tr 477.

([4] ) Bài Đoàn kết giai cấp của Nguyễn Ái Quốc đăng trên báo Le Paria số 25 tháng 5/1924.

([5]) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.435 – 436.

(6), (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.1.

(8) Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị Quốc gia, H.2000, t.7, tr.425-426

(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.1.

(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.152.

([11]) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.133.

(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.511.


Nguyễn Thị Loan Giang
HTKH "Những khía cạnh triết học trong tư tưởng Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và thực tiễn"