Nguyễn Đình Dũng, Triết lí dân chủ trong di sản Tư tưởng Hồ Chí Minh
Dù ở bất kỳ giai đoạn lịch sử nào, dân chủ và công bằng xã hội luôn là mục tiêu, động lực của sự phát triển đất nước. Nhận thức được tầm quan trọng của dân chủ và tự do, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn hướng đến mục tiêu cao nhất “dân tộc độc lập – dân quyền tự do – dân sinh hạnh phúc”. Bởi hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ triết lí từ ngàn xưa của Khổng Tử “Dân vi bản” (dân là gốc) và của Mạnh Tử “Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (dân là quí nhất, sau đó mới đến nước, còn vua thì xem nhẹ). Từ đó, Hồ Chí Minh xác định địa vị cao nhất là dân “nâng thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”, cho nên dân luôn là chủ. Với ý nghĩa đó, mục tiêu đầu tiên của cách mạng Việt Nam mà Hồ Chí Minh vạch ra là: Cách mạng Việt Nam phải là cách mạng dân chủ mới, trong đó mục tiêu cốt lõi là “Độc lập dân tộc, người cày có ruộng” và thực hiện quyền phổ thông đầu phiếu trong lĩnh vực chính trị.
Xuất phát từ vai trò, lợi ích của nhân dân, Hồ Chí Minh trước sau vẫn hướng đến xây dựng một nền dân chủ mới – Dân chủ xã hội chủ nghĩa với một nhà nước pháp quyền “của dân, do dân, vì dân”, bằng những triết lí vị dân, thân dân, phụng sự nhân dân hết sức sâu sắc và chân thành, đó là:
Thứ nhất, Theo Hồ Chí Minh “dân là gốc, dân làm chủ”. Hồ Chí Minh cho rằng dân chủ nghĩa là dân làm chủ, đó là ước muốn ngàn đời, là của quí báu nhất của nhân dân, như Người đã từng nói “Trong bầu trời không có gì quí bằng nhân dân, dân chủ là của quí báu nhất của nhân dân. Thực hành dân chủ như chiếc chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn, thực hiện tiến bộ và phát triển” [6; tr.548]. Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh là tư tưởng dân chủ xã hội chủ nghĩa, như Người đã viết trong bài báo Dân vận (ngày 15/10/1949) rằng: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương đều do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[7; tr.698]. Trong đó, điểm cốt lõi, triết lí cơ bản và xuyên suốt là đề cao giá trị dân chủ của nhân dân “dân là gốc”, như Người đã nói “Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân”[6; tr.544]. Suốt đời, Người chỉ phấn đấu, hi sinh cho quyền lợi của nhân dân, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Hồ Chí Minh khẳng định sự cần thiết phải thực hiện nền dân chủ cho toàn thể nhân dân, bởi nhân dân lao động trong bất cứ thời đại nào đều là lực lượng cơ bản của cách mạng, Người đã từng chỉ ra: không có lực lượng của dân thì việc dễ mấy, nhỏ mấy cũng không thể hoàn thành được. Vì vậy, ngay sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Đảng và Chính phủ cách mạng lâm thời phải đối phó với biết bao khó khăn, thử thách, sự bao vây, cô lập của thù trong, giặc ngoài..., để đảm bảo cuộc sống cho người dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị: Chúng ta phải làm ngay, làm cho dân có ăn, có mặc, có nhà ở, được học hành, được tự do đi lại, được chăm sóc sức khỏe, được hưởng quyền tự do mà họ xứng đáng được hưởng với tư cách người chủ và “Làm cho dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình”[3; tr.508]... Đó chính là tinh thần trọng dân, vị dân mà Người luôn hướng tới, nhằm đảm bảo cho dân chủ được thể chế hóa và thực hiện trên tất cả các lĩnh vực, các cấp độ của đời sống xã hội. Dân chủ theo quan niệm của Hồ Chí Minh vô cùng dễ hiểu, đó là đảm bảo các quyền tự do chính trị, quyền làm chủ của những người tự do, thực hiện bình đẳng và công bằng xã hội trong sự phát triển cho tất cả mọi người. Điều này, trong “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”, C.Mác và Ph. Ănghen cũng đã chỉ ra: Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do cho tất cả mọi người. Đây là mục đích tự thân của lịch sử, là bản chất nhân đạo, nhân văn của xã hội – Xã hội chủ nghĩa. Có thể nói “dân” là linh hồn, là sinh khí dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh theo cách hiểu “quan nhất thời – dân vạn đại”.
Hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ quyền lợi và địa vị của nhân dân, cho nên trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Người đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng và thực hành dân chủ trên tất cả mọi lĩnh vực đời sống. Thậm chí, phút cuối cùng trước lúc đi xa, trong bản Di chúc thiêng liêng, Người vẫn không quên hướng về nhân dân, mong ước nhân dân phát huy cao nhất quyền làm chủ, để có cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc, bởi “có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên”[4; tr.566]. Dân chủ càng được phát huy, thực thi sâu rộng thì càng tạo nguồn sức mạnh vô biên để xây dựng vững chắc thể chế chính trị do Đảng lãnh đạo, càng thiết thực nâng cao khả năng lãnh đạo, sức chiến đấu, uy tín và độ bền vững của một Đảng cầm quyền. Như vậy, phải mở rộng dân chủ để phát huy sức mạnh của tập thể. Người thường nói: Đề ra công việc, đẻ ra Nghị quyết không khó, vấn đề là thực hiện nó. Ai thực hiện? - Tập thể, quần chúng. Vì vậy, có dân chủ, bàn bạc tập thể mới cùng thông suốt, nhất trí, mới cùng quyết tâm thực hiện, tránh được "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược" và "Có dân chủ thì mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến"[2; tr.547].
Điều quan trọng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời trăn trở là làm sao mọi quyền lực của dân với tư cách là người chủ phải được đảm bảo, tôn trọng. Bởi, người dân chỉ thấy được vị thế là chủ của mình, thấy được giá trị của độc lập, tự do khi họ được ăn no, mặc ấm..., và ngược lại Người chỉ rõ “Nước nhà độc lập, mà dân vẫn đói rét, cực khổ khổ, không được hưởng tự do hạnh phúc, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”[2; tr.35].
Như vậy, điểm cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng và thực thi dân chủ xã hội chủ nghĩa đó là vai trò, địa vị của nhân dân “dân là gốc”, “dân là chủ và dân làm chủ”. Nền dân chủ đó không gì khác ngoài mục đích đảm bảo quyền con người, quyền công dân được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế, đến văn hóa, xã hội..., hướng trực tiếp vào việc giải quyết các vấn đề xã hội, chính sách xã hội và an sinh xã hội cho con người, vì con người. Triết lí vị dân theo tư tưởng dân chủ xã hội chủ nghĩa của Người đã soi sáng cho Đảng, Nhà nước ta thực hiện trọn vẹn mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, là động lực của sự phát triển đất nước.
Thứ hai, Nhà nước dân chủ là Nhà nước “của dân, do dân, vì dân”, phụng sự nhân dân, vì nhân dân phục vụ, đó là triết lí cơ bản trong tổ chức, xây dựng chính quyền Nhà nước. Theo Hồ Chí Minh, để đạt được mục tiêu dân chủ, trước hết phải đặc biệt chăm lo, xây dựng và củng cố chính quyền Nhà nước, phải có pháp luật để thi hành các công việc quản lí và bảo vệ dân, có nền hành chính minh bạch để phục vụ dân, không gây phiền hà, sách nhiễu dân, không quan liêu, tham nhũng gây tổn hại tới dân. Những thiết chế chính trị trọng yếu nhất như Đảng, Nhà nước tồn tại cũng chỉ vì dân, để phục vụ dân, vì mục tiêu dân chủ và công bằng xã hội, như Người đã nói “nhiệm vụ của chính quyền dân chủ là phục vụ nhân dân”[1; tr.299]. Nhiệm vụ cao cả và trọng yếu này cũng được Người xác định cụ thể, nhất quán về chính thể trong bản Hiến Pháp đầu tiên (1946) “Nước Việt Nam là một nước Dân chủ Cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt giống nòi, trai gái, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo; Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung – Nam – Bắc không thể phân chia”[8; tr.10]. Theo đó, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân tự tổ chức và thực hiện, trước hết và chủ yếu thông qua Nhà nước của mình theo phương châm: nhân dân là chủ, cán bộ, công chức là đầy tớ, công bộc phục vụ nhân dân, bảo vệ nhân dân, mọi công việc đều vì lợi ích của nhân dân mà làm, và tuyệt đối “phải đặt lợi ích của dân chúng lên trước hết và trên hết”[3; tr.420]. Đặc biệt, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội phải tỏ rõ sự quang minh, chính đại, chính tâm và thân dân để thực sự tiến tới dân chủ. Các tổ chức đoàn thể của dân càng phải tỏ rõ hiệu quả thực tế, gắn bó mật thiết với dân,“phải gần gũi dân, hiểu biết dân, học hỏi dân”[3; tr.420] làm cho dân cảm nhận trực tiếp rằng nó rất cần thiết, thực sự cần thiết và hữu ích đối với mình như thế nào.
Thực tế cho thấy, dân chủ có vai trò quan trọng và không thể thiếu trong thời đại của chúng ta. Dân chủ thúc đẩy sự biến đổi và phát triển, khai thông các nguồn lực, nhân lên sức mạnh của nội lực và ngoại lực để phát triển. Đồng thời dân chủ trở thành xung lực mạnh mẽ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, văn hóa, xã hội về cả tốc độ lẫn qui mô và chất lượng cuộc sống. Thể chế dân chủ, các chính sách dân chủ của Đảng – Nhà nước sẽ thúc đẩy thái độ và hành vi của từng cá nhân, từng cộng đồng xã hội, bởi “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do...Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lí”[6; tr.482]. Dân chủ là quyền lực và ý chí của nhân dân được thực hiện thông qua dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện với cơ chế dân bầu cử dân chủ, thể chế rõ ràng, công khai, minh bạch. Từ đó, chúng ta xây dựng một Nhà nước pháp quyền dân chủ của nhân dân, lấy nhân dân làm mục tiêu phục, lấy độc lập tự do làm định hướng hoạt động, lấy “thần linh pháp quyền” làm phương pháp quản lí. Cùng với đó là tổ chức xây dựng bộ máy Nhà nước, đào tạo đội ngũ chính quyền đại diện quyền lợi của nhân dân, lấy mục tiêu phấn đấu là phục vụ tốt nhất lợi ích của nhân dân, phải “dựa vào ý kiến của quần chúng nhân dân mà sửa chữa cán bộ và tổ chức”[2; tr.521]. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên đòi hỏi chính quyền các cấp từ Trung ương đến cơ sở phải tuyệt đối thực hiện dân chủ, phải ra sức phục vụ, phụng sự nhu cầu của nhân dân. Điều này thể hiện rõ trong thư gửi Ủy ban nhân dân các kì, tỉnh, huyện và làng (1946), Người nói “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác công việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kì dưới quyền thống trị của Pháp – Nhật. Việc gì có lợi cho dân thì ta phải hết sức làm. Việc gì có hại đến dân ta phải hết sức tránh”[3; tr.299]. Đồng thời, Người luôn căn dặn cán bộ, đảng viên phải biết “Chính phủ này là chính phủ của dân, mà anh em là cán bộ của Chính phủ, nên phải hết sức thận trọng, hết sức gìn giữ, chớ đi quá tả, mà cũng đừng quá hữu...,phải làm sao cho dân yêu mến, phải nhớ rằng dân là chủ. Dân như nước, mình như cá. Lực lượng bao nhiêu là ở nơi dân hết. Chớ vác mặt làm quan cách mạng để cho dân ghét, dân khinh, dân không ủng hộ”[3; tr.299]. Người còn yêu cầu cán bộ Chính phủ phải có tinh thần cầu thị, biết lắng nghe, tiếp thu ý kiến của người dân với tinh thần trách nhiệm “Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm tròn nhiệm vụ của mình là người đầy tớ trung thành, tận tụy của nhân dân”[6; tr.48] và “nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi chính phủ”[2; tr.283]. Nói chung, tinh thần trách nhiệm người cán bộ của dân là phải biết hi sinh quyền lợi cá nhân để phụng sự cho quyền lợi của nhân dân, phải đặt lợi ích của dân lên trên hết, “Phải luôn luôn chăm lo đến đời sống của nhân dân. Phải chí công vô tư và phải có tinh thần lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”[1; tr.210] và “từ Chủ tịch đến giao thông viên cũng vậy, nếu không làm được việc cho dân, thì dân không cần đến nữa”[5; tr.121]. Bên cạnh vun đắp, củng cố chính quyền Nhà nước ở Trung ương, Hồ Chí Minh còn rất quan tâm đến việc xây dựng hệ thống chính quyền ở các cấp địa phương, trong bài viết “Cách thức tổ chức các Ủy ban nhân dân” đăng trên báo Cứu quốc (11/9/1945), Người đã chỉ ra rằng “Các Ủy ban nhân dân làng, phủ là hình thức Chính phủ địa phương, phải chọn trong đó những người có công tâm, trung thành, sốt sắng với quyền lợi của dân chúng, có năng lực làm việc, được đông đảo nhân dân tín nhiệm. Nhất thiết không thể nhờ tiền tài hay một thế lực gì khác mà chui lọt vào đó được”[6; tr.189]. Tiếp theo đó, ngày 25/3/1948, Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh số 152 qui định thể lệ bầu cử vào các Ủy ban hành chính kháng chiến, qui định về tiêu chuẩn, phẩm chất, năng lực của những người muốn tham gia vào trong bộ máy chính quyền phụng sự nhân dân. Đến ngày 25/5/1950, Người lại kí tiếp Sắc lệnh số 80 về bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, Người đã không quên nhấn mạnh “Chính phủ là công bộc của dân và công việc của Chính phủ đều nhằm vào mục đích duy nhất là mưu cầu hạnh phúc, tự do cho mọi người. Cho nên, Chính phủ nhân dân bao giờ cũng đặt quyền lợi của dân lên hết thảy. Để xứng đáng là người đại biểu của dân, là công bộc của dân, các cán bộ phải không ngừng rèn luyện phẩm chất và năng lực của mình”...[2; tr.251] Điều này cho thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi trọng tinh thần phục vụ nhân dân trong mỗi cán bộ, đảng viên, bất kể đó là ai và làm công việc gì. Cùng với đó, Người đặc biệt quan tâm đến việc củng cố khối đại đoàn kết toàn dân dựa trên nền tảng Liên minh công – nông và trí thức, nhằm xây dựng Nhà nước Việt Nam thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, một Nhà nước tự do và dân chủ. Triết lí dân chủ trong di sản tư tưởng của Người là yêu cầu xuyên suốt trong mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức, cơ quan Nhà nước về tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một hình thức chính trị. Nhà nước thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của công dân, xác định nhân dân là chủ thể quyền lực. Theo đó, quyền làm chủ của nhân dân được thể chế hóa thành qui đinh, nguyên tắc tổ chức, vận hành của Nhà nước và thể chế chính trị tạo nên chế độ dân chủ với bản chất “tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”, nhằm tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, pháp luật tiến bộ, công minh đối với tất cả mọi người trong xã hội. Bởi, mỗi khi tiếng nói của người dân được tôn trọng, dân không chỉ là đối tượng thụ hưởng lợi ích mà còn là chủ thể tham gia đánh giá, giám sát cơ chế, chính sách, pháp luật Nhà nước. Khi có một môi trường xã hội dân chủ, thì sẽ tạo được dư luận xã hội tích cực, thúc đẩy hành động sáng tạo của đông đảo quần chúng nhân dân để bảo vệ chế độ, bảo vệ Nhà nước. Với từng người dân, dân chủ là động lực mạnh mẽ để thực hiện tự do tư tưởng, hình thành nhân cách trung thực và sáng tạo. Dân chủ là chất dinh dưỡng và sinh khí tốt nhất cho sự nuôi dưỡng, phát triển các tài năng, cho sự hình thành nhân cách làm người, khắc phục tình trạng phân thân, giả dối, xu thời, cơ hội..., làm lệch lạc, biến dạng nhân cách do thiếu vắng hoặc yếu kém về dân chủ gây ra. Vì vậy, muốn có một xã hội văn minh, công bằng, phải dựa trên nền tảng dân chủ, mà cốt lõi của nó là tôn trọng giá trị, nhân cách con người, tin cậy năng lực, quí trọng phẩm giá, khách quan trong đánh giá, có chính sách thỏa đáng để mọi người tận tụy hết mình trong công việc, trong sự nghiệp phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Có thể nói, Hồ Chí Minh là người đã hóa thân một cách trọn vẹn vào trong nhân dân. Hồ Chí Minh đã thấu hiểu dân tình, chăm lo dân sinh, nâng cao dân trí để không ngừng thực hành dân chủ cho nhân dân. Trong chế độ mới dân chủ, giá trị cao nhất của độc lập dân tộc là đem lại quyền làm chủ thực sự cho người dân, phải trao lại cho dân mọi quyền hành...Các cơ quan Đảng và Nhà nước là tổ chức được dân ủy thác làm công vụ cho dân..., đó là sự thể hiện nhất quán triết lí, tư tưởng, đạo đức nhân văn của Người.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho thấy các quan điểm về dân chủ, phát huy quyền dân chủ và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là quá trình đấu tranh, phát triển tư duy lí luận không ngừng của Đảng, cùng với sự song hành triết lí dân chủ “dân là gốc, dân làm chủ”, “Nhà nước của dân, do dân, vì dân” trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ những giá trị bất biến ấy, đã soi sáng cho Đảng và Nhà nước ta tiếp tục phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong thời đại mới, dựa trên những triết lí mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra, lấy đó làm mục tiêu và động lực để phát triển đất nước, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, theo mục tiêu“xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Hồ Chí Minh tuyển tập (1980) – T2 – NXB Sự thật, Hà Nội
2. Hồ Chí Minh toàn tập (1984) – T4 – NXB Sự thật, Hà Nội
3. Hồ Chí Minh toàn tập (1985) – T5 – NXB Sự thật, Hà Nội
4. Hồ Chí Minh toàn tập (1985) – T8 – NXB Sự thật, Hà Nội
5. Hồ Chí Minh toàn tập (1985) – T6 – NXB Sự thật, Hà Nội
6. Hồ Chí Minh toàn tập (1987) – T7 – NXB Sự thật, Hà Nội
7. Hồ Chí Minh toàn tập (1995) – T5 – NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
8. Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 1946 (1956) – NXB Sự thật, Hà Nội.
Nguyễn Đình Dũng
HTKH "Những khía cạnh triết học trong tư tưởng Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và thực tiễn"