Hai đường lối về Cách mạng Trung Quốc: đường lối Quốc tế Cộng sản và đường lối phe đối lập Trotskyist




Hai đường lối về Cách mạng Trung Quốc:

đường lối Quốc tế Cộng sản - Stalin và đường lối phe đối lập Trotskyist


Vào nửa sau của những năm 1920, phe đối lập theo chủ nghĩa Trotsky (Trotsky, Zinoviev, Radek và Kamenev) đã buộc tội "bộ máy quan liêu theo chủ nghĩa Stalin" tức là Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik) [CPSU (B)] và Quốc tế Cộng sản bán rẻ Cách mạng Trung Quốc và những người cộng sản Trung Quốc - tức phản bội Cách mạng Trung Quốc.

Kể từ đó, lời vu khống này đã được những kẻ phản cách mạng Trotskyist, những kẻ phản động theo chủ nghĩa xét lại, những nhà dân chủ xã hội và thậm chí cả một số người theo chủ nghĩa Mác-Lê-nin "ngây ngô", lặp đi lặp lại hàng nghìn lần.

Phân tích của Quốc tế Cộng sản về Cách mạng Trung Quốc:

Quốc tế cho rằng đối tượng chủ yếu của Cách mạng Trung Quốc là chống phong kiến, yếu tố nông thôn - nông dân là vấn đề cốt lõi của cách mạng ở một nước nửa thuộc địa phong kiến như Trung Quốc. Vào thời điểm đó, dân số Trung Quốc khoảng 400-450 triệu người, trong đó 350 hoặc 400 triệu người sống ở nông thôn. 90% dân chúng là nông dân bị chế độ phong kiến ​​bóc lột, do đó, đặc điểm nổi bật nhất của Cách mạng Trung Quốc là cuộc chiến chống chế độ phong kiến.

Do đó, Cách mạng Trung Quốc là một cuộc cách mạng vô sản do liên minh công - nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân chống lại chế độ phong kiến ​​và toàn bộ cơ cấu quân phiệt-quan liêu của nó. Liên minh công - nông là cơ sở và nội dung của cách mạng dân chủ tư sản Trung Quốc. Ở Trung Quốc lúc bấy giờ, cách mạng dân chủ tư sản không thể không chống đế quốc, vì chủ nghĩa đế quốc ủng hộ toàn và gắn chặt với chế độ phong kiến.

Chính chủ nghĩa đế quốc là người nuôi dưỡng, truyền cảm hứng, ủng hộ và duy trì chế độ phong kiến ​​và đứng về phía chế độ phong kiến. Ở các nước thuộc địa, nửa thuộc địa, nhân dân đấu tranh chống phong kiến ​​đồng thời tham gia đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, vì lợi ích của chủ nghĩa đế quốc gắn bó chặt chẽ với lợi ích của giai cấp thống trị phong kiến.

Ngay từ năm 1913, Lenin đã có dịp chỉ ra rằng giai cấp tư sản lạc hậu ở châu Âu, vì sợ hãi trước sức mạnh đang lên của giai cấp vô sản, đã “ủng hộ mọi thứ lạc hậu, thiếu thốn và thời trung cổ” và “kết hợp với tất cả các lực lượng lạc hậu và lỗi thời” trong nỗ lực bảo tồn hệ thống nô lệ làm công ăn lương đang lung lay.

Phân tích của Trotsky về Cách mạng Trung Quốc:

Trotsky đã đánh giá thấp và không nhấn mạnh tầm quan trọng quyết định của chế độ phong kiến Trung Quốc, cho rằng Cách mạng Trung Quốc chỉ nhằm mục đích chấm dứt sự phụ thuộc của Trung Quốc vào các nước đế quốc; rằng cuộc cách mạng này chống đế quốc chủ yếu vì nó hướng đến việc xóa bỏ các hiệp ước bất bình đẳng mà các nước đế quốc khác nhau áp đặt lên Trung Quốc.

Vào tháng 5 năm 1927, Trotsky đệ trình lên Ủy ban Trung ương của CPSU (B) và Ủy ban Điều hành của Quốc tế luận điểm sau:

“Bukharin mưu toan biện hộ cho đường lối thoả hiệp cơ hội chủ nghĩa bằng cách viện cớ rằng "những tàn tích phong kiến" đóng một vai trò chủ yếu trong nền kinh tế Trung Quốc, - mưu toan đó hoàn toàn không có căn cứ. Nếu ngay như trong việc đánh giá nền kinh tế Trung Quốc Bukharin có dựa trên cơ sở phân tích kinh tế chứ không phải dựa trên cơ sở những định nghĩa kinh viện, thì "những tàn tích phong kiến" cũng vẫn không thể bào chữa được co cái chính sách rõ ràng là đã làm dễ dàng cho cuộc chính biến tháng Tư. Cuộc cách mạng Trung Quốc mang tính chất dân tộc - tư sản mà nguyên nhân cơ bản là sự phát triển lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản Trung Quốc đã vấp phải tình trạng thuế quang của Nhà nước Trung Quốc bị lệ thuộc vào các nước đế quốc" (Trotsky: Cách mạng Trung Quốc và những đề cương của Stalin)

Sẽ không khó hiểu khi đồng chí Stalin gọi Trotsky chẳng khác nào cố vấn của Trương Tác Lâm. Stalin nhận xét:

"Xin thưa rằng quan điểm ấy là quan điểm của vị cố vấn tối cao của "cụ lớn" Trương Tác Lâm".

"Nếu quan điểm của Trotsky là đúng, thì phải thừa nhận rằng Trương Tác Lâm và Tưởng Giới Thạch đúng, vì chúng không muốn có cách mạng ruộng đất cũng như cách mạng công nhân, mà chỉ đấu tranh nhằm thủ tiêu những hiệp nghị bất bình đẳng và thiết lập một chế độ thuế quan độc lập của Trung Quốc mà thôi” (Bài phát biểu tại Quốc tế Cộng sản ngày 24/5/1927).

Tiếp tục, đồng chí Stalin phân tích:

"Vì vậy, chúng ta có hai đường lối cơ bản:

"(A) đường lối của Quốc tế, nó tính đến sự tồn tại của những tàn tích phong kiến ở Trung Quốc, coi đó là hình thức áp bức chủ yếu; tính đến ý nghĩa quyết định của phong trào ruộng đất mạnh mẽ, tính đến mối liên hệ giữa những tàn tích phong kiến và chủ nghĩa đế quốc, tính chất dân chủ - tư sản của cuộc cách mạng Trung Quốc và tính chất nổi bật của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.

“(B) đường lối của Trotsky, nó phủ nhận ý nghĩa chủ yếu của ách áp bức phong kiến - quân phiệt, không thấy ý nghĩa quyết định của phong trào cách mạng ruộng đất ở Trung Quốc và chỉ thấy những lợi ích của chủ nghĩa tư bản Trung Quốc đang đòi cho Trung Quốc được độc lập về thuế quan, để giải thích tính chất phản đế của cuộc cách mạng Trung Quốc".

“Sai lầm cơ bản của Trotsky (và do đó là của phe đối lập) là ỏ chỗ đánh giá thấp cuộc cách mạng ruộng đất ở Trung Quốc, không hiểu tính chất dân chủ - tư sản của cuộc cách mạng đó, phủ nhận những tiền đề của phong trào ruộng đất có sự tham gia của hàng bao triệu nông dân ở Trung Quốc, ở chỗ đánh giá thấp vai trò của nông dân trong cách mạng Trung Quốc”(Stalin: bài phát biểu tại kỳ họp thứ 10 của Hội nghị toàn thể lần thứ 8 của Quốc tế cộng sản, ngày 24 tháng 5 năm 1927).

Việc Trotsky đánh giá thấp vai trò của tầng lớp nông dân không phải là vấn đề mới. Cơ sở của nó chính là quan điểm cốt lõi của chính Chủ nghĩa Trotsky của ông ta, "Cách mạng thường trực".

"Việc đánh giá thấp vai trò của nông dân trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản, là điều sai lầm mà Trotsky mắc phải từ năm 1905, sai lầm đó biểu lộ đặc biệt rõ vào thời kỳ trước cuộc cách mạng tháng Hai 1917, và cho tới nay Trotsky vẫn mắc phải".

Đồng chí Stalin chỉ rõ:

“Đặc điểm trong công thức của Trotsky là ở chỗ nhìn thấy giai cấp tư sản, giai cấp vô sản, nhưng lại không thấy nông dân và không hiểu vai trò của nông dân trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản, - chính đặc điểm ấy là sai lầm cơ bản của phái đối lập trong vấn đề Trung Quốc".

“Chủ nghĩa nửa menshevik của Trotsky và của phái đối lập trong vấn đề tính chất của cách mạng Trung Quốc, cũng chính là ở chỗ đó".

“Từ sai lầm cơ bản này mà đẻ ra tất cả những sai lầm khác của phái đối lập, đẻ ra tất cả những sự hỗn độn trong các đề cương của phái đối lập trong vấn đề Trung Quốc” (Stalin: bài phát biểu tại kỳ họp thứ 10 của Hội nghị toàn thể lần thứ 8 của Quốc tế cộng sản, ngày 24 tháng 5 năm 1927).

Chính Chủ nghĩa Trotsky đã khiến Trotsky sai lầm trong cách mạng dân chủ tư sản ở nước Nga, điều mà chính miệng Trotsky thừa nhận trong bức thư gửi Olminski ngày 6/12/1921. Trong cuộc tranh luận vấn đề Cách mạng Trung Quốc hồi 1927, Trotsky lại tiếp tục sử dụng cái lý luận mà chính ông ta thừa nhận là sai lầm, để đánh giá tình hình cách mạng Trung Quốc. Như vậy, Trotsky chưa từ bỏ Chủ nghĩa Trotsky trước tháng Mười 1917, mặc dù chính ông ta thừa nhận nó là sai lầm.

Các vấn đề khác của phe đối lập Trotskyist:

Vấn đề số 1 - “Sự không hợp lý về mặt lô-gíc” của Trotsky đối với vấn đề Vũ Hán.

Trong thời kỳ của mặt trận thống nhất toàn dân tộc, đặc biệt là khoảng thời gian từ năm 1925 đến ngày 12 tháng 4 năm 1927, có lúc Trotsky và phe đối lập yêu cầu những người cộng sản phải rút khỏi Quốc dân đảng.

Trước tiên, một vài lời về Quốc dân đảng trong thời kỳ này: nó là một khối gồm một số giai cấp bị áp bức - đó là một khối của giai cấp tư sản dân tộc, của người nghèo thành thị, của giai cấp nông dân, của giới trí thức tiểu tư sản, và của giai cấp vô sản. Đó là một khối về cơ bản gồm giai tầng. Trong khoảng thời gian từ năm 1925 đến ngày 12 tháng 4 năm 1927, giai cấp tư sản dân tộc đã đóng một vai trò tiến bộ.

Trotsky yêu cầu Đảng Cộng sản Trung Quốc rút sự ủng hộ đối với Quốc dân đảng. Tại sao? Vì giai cấp tư sản luôn phản cách mạng. Trotsky mắc sai lầm khi so sánh giai cấp tư sản Trung Quốc (ở một nước bị áp bức) với giai cấp tư sản Nga (ở một nước đế quốc).

Giai cấp tư sản của một nước bị áp bức có thể trong một thời gian nhất định, trong những điều kiện cụ thể, đóng vai trò tiến bộ và trở thành bạn đồng minh của giai cấp vô sản.

Liên minh như vậy là hợp pháp, miễn là giai cấp vô sản không bị cản trở trong công việc tổ chức độc lập giữa các quần chúng nhân dân rộng rãi theo chương trình của chính mình. Thực tế là việc trở thành một phần của Quốc Dân Đảng đã tạo điều kiện thuận lợi cho công việc của Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Vào ngày 12 tháng 4 năm 1927, cánh hữu của Quốc dân đảng, do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo, đã tiến hành cuộc đảo chính và bắt đầu tàn sát những người cộng sản. Giai cấp tư sản dân tộc thành lập trung tâm phản cách mạng ở Nam Kinh, đào ngũ khỏi cách mạng và đứng về phía phản cách mạng và chủ nghĩa đế quốc.

Tại sao? Đó là a) nỗi sợ hãi của Cách mạng ruộng đất; và b) áp lực của chủ nghĩa đế quốc đối với Tưởng Giới Thạch ở Thượng Hải.

Sau khi giai cấp tư sản dân tộc đào ngũ, cánh tả của Quốc dân đảng đặt trụ sở chính ở Vũ Hán, nơi trở thành cơ sở cho sự phát triển tối đa của cuộc cách mạng ruộng đất do Đảng cộng sản Trung Quốc lãnh đạo.

Thái độ của phái đối lập Trotskyist đối với Chính phủ Vũ Hán?

Trotsky mô tả đó là “cái bịa đặt” - nhưng lại không ủng hộ việc rút khỏi "cái bịa đặt" này, Đảng cộng sản Trung Quốc lúc đó đang liên minh với cánh tả của Quốc dân đảng ở Vũ Hán.

Xin trích dẫn một đoạn trong bài phát biểu của Stalin, trong đó mô tả một cách khéo léo thái độ của Trotsky - "sự không hợp lý 'lô-gíc' này" - đối với vấn đề Vũ Hán. Đây là những gì Stalin đã nói:

“Cứ cho Vũ Hán là cái bịa đặt. Nhưng nếu Vũ Hán là cái bịa đặt, thì tại sao Trotsky lại không yêu cầu đấu tranh kiên quyết chống cái bịa đặt ấy đi ? Những người cộng sản đã ủng hộ cái bị đặt, tham gia cái bịa đặt và lãnh đạo cái bịa đặt ... từ bao giờ vậy ? Nhưng người cộng sản có nhiệm vụ phải đấu tranh chống cái bịa đặt, điều đó không phải là một sự thật hay sao? Tại sao Trotsky không đề nghị đấu tranh chống cái bịa đặt, chẳng hạn như bằng cách đòi những người cộng sản phải lập tức rút khỏi Quốc dân đảng Vũ Hán và chính phủ Vũ Hán? Tại sao Trotsky đề nghị ở lại trong cái bịa đặt đó chứ không phải rút khỏi cái bịa đặt ấy ? Vậy ở đó đâu là lô-gíc?".

“Có phải sở dĩ có sự mất ăn khớp 'lô-gíc ấy là vì sau khi khua chân múa tay về Vũ Hán và gọi Vũ Hán là cái bịa đặt, thì về sau Trotsky đã tỏ ra nhút nhát và, trong đề cương của mình, không dám rút ra một kết luận thích đáng, hay không ?".

Đó là quan điểm của Trotsky về vấn đề Vũ Hán.

Zinoviev mô tả chính phủ Vũ Hán là một chính phủ theo chủ nghĩa Kemal. Một cuộc cách mạng Kemalist là một cuộc cách mạng của giai cấp trên, của giai cấp tư sản buôn bán chống lại chủ nghĩa đế quốc, mà ngay từ đầu nó đã hướng đến công nhân và nông dân, một cuộc cách mạng bị bế tắc ngay từ giai đoạn đầu tiên, với ý tưởng chuyển thành một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Điều đó hoàn toàn sai lầm.

Một chính phủ như vậy sẽ không chống lại chế độ phong kiến. Vì vậy, không có chỗ cho những người cộng sản trong một chính phủ như vậy. Nếu Vũ Hán thực sự là một chính phủ như vậy, thì việc lật đổ một chính phủ như vậy là hoàn toàn cần thiết. "Nhưng chỉ có những người thông thường có cái lô-gíc thông thường của loài người, thì mới có thể nghĩ như vậy." (Stalin)
Nhưng Zinoviev không những không ủng hộ việc lật đổ chính phủ ấy, mà lại nhiệt tình ủng hộ nó.

Đây là những gì Zinoviev đã nói trong luận án của mình, được công bố tại Hội nghị toàn thể của Ủy ban Trung ương Đảng CPSU vào tháng 4 năm 1927:

“Cần phải viện trợ một cách hết sức tích cực và toàn diện cho Vũ Hán, bằng cách đó tổ chức một cuộc chiến đấu đánh bại bọn Louis-Eugène Cavaignac. Trong thời gian sắp tới, cần tập trung sự nỗ lực chính là vào việc giúp đỡ công tác tổ chức và củng cố ở Vũ Hán”.

Nhận xét của Stalin về quan điểm đặc biệt này của Zinoviev là: "Ai mà có thể hiểu được!"

Đây là cách Stalin tóm tắt sự bối rối của phe đối lập về vấn đề đang thảo luận:

“Tất cả những điều đó nói lên cái gì? Nó chứng tỏ rằng phái đối lập đã bị rối bời trong những mâu thuẫn. Phái này đã không còn khả năng suy nghĩ một cách lô-gíc nữa và đã bị mất hết mọi triển vọng".

“Quan điểm hỗn độn, mất hết mọi triển vọng trong vấn đề Vũ Hán, - đó là phương châm của Trotsky và của phái đối lập, nếu như nói chung còn có thể gọi sự hỗn độn ấy là phương châm”.

Phe đối lập Trotskyist đã lúng túng trong việc xác lập một lập trường thống nhất đối với vấn đề Vũ Hán.

Vấn đề số 2 - phe đối lập yêu cầu thành lập Xô viết tại Vũ Hán.

Vào lúc mà chính phe đối lập đang yêu cầu ủng hộ Chính phủ Vũ Hán, thì đồng thời họ cũng yêu cầu thành lập các Xô viết đại biểu. Nhưng Xô viết là trung tâm tổ chức cuộc cách mạng - cơ quan của cuộc khởi nghĩa, nhưng há chẳng phải điều đó mâu thuẫn với sự tồn tại của Chính phủ Vũ Hán hay sao ? Nếu Xô viết không tồn tại để thực hiện chức năng của mình, thì nó tồn tại một cách vô nghĩa và sáo rỗng.

Phe đối lập Trotskyist vướng vào mâu thuẫn vô vọng này vì:

(i) nó đã nhầm lẫn cuộc cách mạng dân chủ tư sản ở Trung Quốc với một cuộc cách mạng vô sản,

(ii) nó nhầm lẫn giữa cuộc cách mạng dân chủ tư sản ở Trung Quốc với cuộc cách mạng dân chủ tư sản vào tháng 2 năm 1917 ở Nga, khiến họ mù quáng không phân biệt được giai cấp tư sản của một nước bị áp bức, nửa thuộc địa, có thể, trong một thời gian nhất định, có thể đóng một vai trò tiến bộ và chống chủ nghĩa đế quốc, trong đó giai cấp tư sản của một nước đế quốc như Nga không thể và đã không đóng một vai trò tiến bộ như vậy.

Tóm lại, đồng chí Stalin đã tóm tắt hai luồng ý kiến giữa Quốc tế Cộng sản và Trotskyist:

“ Và vì vậy, trước mắt chúng ta có hai luồng ý kiến hoàn toàn khác nhau về vấn đề Trung Quốc - của Quốc tế Cộng sản và của Trotsky và Zinoviev.

“ Quốc tế Cộng sản.

“Những tàn tích phong kiến và cái thượng tầng kiến trúc quan liêu - quân phiệt dựa vào những tàn tích đó, được bọn đế quốc ở tất cả các nước ra sức ủng hộ - đó là sư thật cơ bản của tình hình thực tại hiện nay ở Trung Quốc.

“Hiện nay Trung Quốc đang kinh qua một cuộc cách mạng ruộng đất nhằm chống lại những tàn tích phong kiến cũng như chống lại chủ nghĩa đế quốc.

“Cách mạng ruộng đất là cơ sở và nội dung của cách mạng dân chủ tư sản ở Trung Quốc.

“Quốc dân đảng ở Vũ Hán và chính phủ Vũ Hán là trung tâm của phong trào cách mạng dân chủ tư sản.

“Nam Kinh và chính phủ Nam Kinh là trung tâm của thế lực phản cách mạng quốc gia.

“Chính sách ủng hộ Vũ Hán đồng thời là chính sách mở rộng cuộc cách mạng dân chủ tư sản, và giành lấy tất cả những kết quả do đó mà có. Vì vậy nên những người Cộng sản đã tham gia Quốc dân Đảng Vũ Hán và trong chính phủ cách mạng Vũ Hán; sự tham gia ấy không loại trừ việc những người cộng sản phải ra sức phê phán tính lừng chừng và tính dao động của những người đồng minh với mình trong Quốc dân đảng, mà là lấy nó làm tiền đề.

“Sự tham gia ấy của những người cộng sản cần được sử dụng để giúp cho giai cấp vô sản dễ dàng thực hiện vai trò độc quyền lãnh đạo trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản ở Trung Quốc, và để làm cho chóng đến giờ phút chuyển sang cách mạng vô sản .

“Đến khi cuộc cách mạng dân chủ tư sản tiến gần đến thắng lợi hoàn toàn và đến khi - trong quá trình phát triển của cuộc cách mạng tư sản - xuất hiện những con đường chuyển sang cách mạng vô sản, đến lúc đó thì cần phải thành lập các Xô viết đại biểu công nông binh, là yếu tố của tình trạng hai chính quyền song song tồn tại, là những cơ quan đấu tranh nhằm lập nên chính quyền mới, là những cơ quan của chính quyền mới tức Chính quyền Xô viết.

“Đến khi đó khối liên minh của những người cộng sản ở bên trong Quốc dân đảng sẽ cần phải được thay thế bằng một khối liên minh bên ngoài Quốc dân đảng, và Đảng cộng sản sẽ phải trở thành người lãnh đạo duy nhất của cuộc cách mạng mới ở Trung Quốc.

“Nếu làm như Trotsky và Zinoviev, nghĩa là nếu bây giờ, khi cuộc cách mạng dân chủ tư sản đang còn ở trong giai đoạn đầu của sự phát triển và Quốc dân đảng là hình thức tổ chức cách mạng dân tộc dân chủ thích ứng nhất và thích hợp nhất với những đặc điểm riêng của Trung Quốc, - nếu bây giờ mà đề nghị lập ngay các Xô viết đại biểu công nông và tạo ngay một tình trạng hai chính quyền song song tồn tại, thì như vậy có nghĩa là phá hoại phong trào cách mạng, làm suy yếu Vũ Hán, làm cho Vũ Hán dễ dàng bị sụp đổ và giúp đỡ bọn Trương Tác Lâm và Tưởng Giới Thạch".

“ Trotsky và Zinoviev

“Những tàn tích phong kiến ở Trung Quốc, - đó chỉ là sự bịa đặt của Bukharin mà thôi. Hoặc là Trung Quốc hoàn toàn không còn những tàn tích phong kiến, hoặc là những tàn tích đó rất không đáng kể khiến chúng không thể có một ý nghĩa đôi chút quan trọng.

“Thế là hiện nay ở Trung Quốc có cuộc cách mạng ruộng đất. Nhưng do đâu mà có cuộc cách mạng ruộng đất ấy, điều đó thì ông trời cũng không biết được (cười).

“Điều chủ yếu hiện nay không phải là cuộc cách mạng ruộng đất, mà là cuộc cách mạng nhằm thiết lập nền độc lập thuế quan cho Trung Quốc, có thể nói là cuộc cách mạng chống lại chế độ thuế quan.

“Quốc dân đảng Vũ Hán và chính phủ Vũ Hán hoặc là 'cái bịa đặt' (Trotsky) hoặc Chủ nghĩa Kemal (Zinoviev).

“Một mặt, cần tạo ra hai chính quyền song song tồn tại để lật đổ chính phủ Vũ Hán bằng cách thành lập ngay các Xô viết (Trotsky). Mặt khác cần phải củng cố chính phủ Vũ Hán, cần phải giúp đỡ một cách tích cực và toàn diện cho chính phủ Vũ Hán, mà cũng lại bằng cách thành lập ngay các Xô viết (Zinoviev).

“Theo lệ thường mà nói thì những người cộng sản nên lập tức rút ra khỏi "cái bịa đặt" đó, tức là rút ra khỏi chính phủ Vũ Hán và Quốc dân đảng Vũ Hán. Nhưng tuy vậy tốt hơn thì họ nên ở lại trong chính "cái bịa đặt" đó, tức là ở lại trong chính phủ Vũ Hán và Quốc dân đảng Vũ Hán. Mà ở lại Vũ Hán để làm gì, một khi Vũ Hán là "cái bịa đặt", - về điều này thì chỉ có một mình thượng đế biết được thôi. Mà ai không đồng ý với điều ấy, thì kẻ đó là phản phúc, phản bội (cười)".

“Đó là đường lối của Trotsky và Zinoviev.

“Vị tất có thể hình dung được một cái gì phi lý hơn và mơ hồ hơn cái gọi là đường lối đó.

“ Chúng ta cảm tưởng trước mặt chúng ta không phải là những người marxist mà là những anh chàng sự vụ chủ nghĩa nào đó đã xa rời cuộc sống hoặc, nói đúng hơn nữa, là những khách du lịch "cách mạng" đã đi nhiều nơi như Sukhum và Kislovodsk, họ thấy nói có hội nghị toàn thể mở rộng lần VII của Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản trong đó đã đưa ra một phương châm cơ bản về cách mạng Trung Quốc, rồi sau đó qua báo chí họ được biết rằng ở Trung Quốc quả thật đã nổ ra một cuộc cách mạng gì đó, hoặc là cách mạng ruộng đất, hoặc là cách mạng chống chế độ thuế quan, và họ quyết định là cần phải thảo ra những đề cương này, đến đầu tháng Năm lại thảo ra những đề cương khác, và sau khi thảo xong cả một mớ đề cương ấy rồi thì họ đem gửi tới Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản, chắc họ tưởng rằng việc đưa ra một lô rất nhiều những đề cương mơ hồ và đầy mâu thuẫn đó sẽ là biện pháp cơ bản để cứu vãn cách mạng Trung Quốc.

“Thưa các đồng chí, đó là hai đường lối về những vấn đề của cách mạng Trung Quốc.

“ Các đồng chí sẽ phải chọn lấy một trong hai đường lối ấy.”.
Đồng chí Stalin kết thúc bài phát biểu của mình bằng những lời sau đây:

“Thưa các đồng chí, tôi phải nói rằng Trotsky đã chọn một thời cơ quá ư không đúng lúc để đả kích đảng và Quốc tế. Tôi vừa nhận được tin cho biết Chính phủ bảo thủ Anh đã quyết định cắt đứt quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Chẳng cần chứng minh cũng thấy rõ là giờ đây một cuộc tấn công rộng khắp đang được tiến hành nhằm chống lại những người cộng sản. Trận tấn công ấy đã bắt đầu. Bọn này thì chỉ lấy chiến tranh và sự can thiệp ra đe doạ đảng Cộng sản B Liên Xô. Bọn kia thì lấy phân liệt ra đe doạ. Ta thấy hình thành nen một cái gì giống như mặt trận thống nhất từ Chamberlain đến Trotsky”.

“Có thể là người ta muốn làm như vậy để lam cho chúng ta khiếp sợ. Nhưng vị tất cần phải chứng minh rằng những người Bolshevik không phải thuộc đám trẻ con hay sợ sệt. Trong lịch sử của chủ nghĩa Bolshevik đã có không ít những "mặt trận" như thế. Lịch sử của chủ nghĩa Bolshevik cho thấy rằng những "mặt trận" như thế đã không ngừng bị tinh thần kiên quyết cách mạng và lòng dũng cảm vô song của những người Bolshevik đập tan.

“Các đồng chí có thể vững tin rằng chúng ta sẽ đập tan được cả cái "mặt trận" mới này nữa (Vỗ tay).
Chủ nghĩa Trotsky đã có một lịch sử lâu dài trong việc chọn những thời điểm không thích hợp để phát động các cuộc tấn công vào chủ nghĩa Lenin - chủ nghĩa Bolshevik. Họ đã làm điều này thường xuyên từ năm 1905 trở đi, suốt những năm 1920 và 1930.

Lý do cho sai lầm của phe đối lập: Chiến thuật

Ngoài chương trình đã bị phá sản liên quan đến triển vọng Cách mạng Trung Quốc, phe Đối lập cũng phá sản các khía cạnh khác về chiến thuật.

Nguyên tắc chiến thuật đầu tiên của chủ nghĩa Lê-nin: xem xét các đặc điểm dân tộc đặc thù của một quốc gia nhất định

Nhầm lẫn giữa Cách mạng Trung Quốc với Cách mạng Nga, phe đối lập đã đưa ra khẩu hiệu vào tháng 4 năm 1926: Không liên minh với giai cấp tư sản Trung Quốc, thời kỳ Quảng Đông, giai cấp tư sản Trung Quốc đóng một vai trò tiến bộ và quân đội quốc gia đã đến được Dương Tử, vùng cách mạng rộng lớn.

Kết quả của những chiến thắng này, phe đối lập rút lui, từ bỏ công thức cũ và áp dụng một công thức 'mới', tức là Đảng cộng sản Trung Quốc không được rút khỏi Quốc dân đảng - đó là sai lầm đầu tiên mà phe đối lập phải chịu vì không tính đến những đặc thù dân tộc của cuộc cách mạng Trung Quốc.

Ví dụ thứ hai: Phe đối lập không hiểu rằng cách mạng Trung Quốc là chống đế quốc, chính vì chủ nghĩa đế quốc đã nuôi dưỡng, bảo vệ và hỗ trợ những kẻ bóc lộc nhân dân Trung Quốc, chế độ phong kiến. Khi hàng chục triệu nông dân tham gia vào phong trào, nông dân chống chế độ phong kiến ​​và đế quốc, phe đối lập một lần nữa buộc phải thừa nhận rằng mình đã sai và rút lui. Đây là sai lầm thứ hai dành cho phe đối lập.

Ví dụ thứ ba: Ở Trung Quốc, giai cấp tư sản buôn bán đất đai và cho nông dân Trung Quốc thuê. Vì thương nhân không phải là lãnh chúa phong kiến, phe đối lập đã đưa ra một công thức cho rằng chế độ phong kiến ​​và những tàn tích của phong kiến ​​không có hậu quả gì, rằng Cách mạng Trung Quốc không phải là một cuộc cách mạng ruộng đất, trước hết là chống lại chế độ phong kiến, mà là một cuộc cách mạng đối với quyền tự chủ về hải quan, tức chống đế quốc. Phe đối lập quên rằng chính chế độ phong kiến ​​đã bóc lột người dân Trung Quốc, rằng toàn bộ cơ cấu quân sự-quan liêu ở Trung Quốc dựa vào sự thống trị của những tàn dư phong kiến. Đó là sai lầm thứ ba dành cho phe đối lập.

Như Stalin đã nhận xét “Sự mâu thuẫn giữa công thức và thực tế - đó là rất nhiều nhà lãnh đạo phe đối lập vướng phải”.

Nguyên tắc chiến thuật thứ hai của chủ nghĩa Lênin: vấn đề đồng minh

Giai cấp vô sản không thể làm gì nếu không có đồng minh. Nhưng những đồng minh này phải là đồng minh của quần chúng, những người không ngăn cản giai cấp vô sản tự tổ chức độc lập, không ngăn cản đảng cộng sản tổ chức giai cấp vô sản và quần chúng nông dân, và động viên họ tham gia cách mạng, những người sẽ không ngừng tìm mọi cách để tuyên truyền những điều đó.

Trong những điều kiện đó, giai cấp vô sản phải tận dụng mọi cơ hội để giành lấy cho mình một đồng minh quần chúng, ngay cả khi một đồng minh quần chúng đó là đồng minh tạm thời, yếu ớt, trống rỗng, không ổn định và không đáng tin cậy. Đó là bản chất của nguyên tắc chiến thuật thứ hai của chủ nghĩa Lê-nin. Giai cấp vô sản Trung Quốc có những đồng minh như vậy không? Có, có tồn tại.

Trong giai đoạn đầu của cuộc cách mạng (Thời kỳ Mặt trận thống nhất toàn dân tộc), những đồng minh này là: (i) giai cấp tư sản dân tộc; (ii) người nghèo thành thị; (iii) tầng lớp trí thức tiểu tư sản, và (iv) tầng lớp nông dân.

Trong thời kỳ này, Quốc Dân Đảng là một tổ chức quần chúng và một lực lượng cách mạng. Lúc đó Quảng Châu là trung tâm của cuộc đấu tranh cách mạng chống chủ nghĩa đế quốc.

Thành tựu của thời kỳ này là gì? Thành tựu của thời kỳ này là:

(1) Sự mở rộng lãnh thổ của cuộc cách mạng: quân cách mạng đã tiến đến tận Dương Tử;

(2) Giai cấp vô sản Trung Quốc có cơ hội tự tổ chức công khai. Đảng cộng sản Trung Quốc có được khả năng tổ chức công khai giai cấp vô sản trong các công đoàn, ủy ban bãi công, v.v.;

(3) Những người cộng sản Trung Quốc đã có thể tập hợp thành một đảng quần chúng gồm năm hoặc sáu nghìn người;

(4) Giai cấp vô sản Trung Quốc đã có công tạo ra những hạt nhân đầu tiên là các tổ chức công nông, hội nông dân;

(5) Đảng cộng sản Trung Quốc đã có thể thâm nhập vào Quân đội.

Đối với Đảng cộng sản Trung Quốc, vào thời điểm đó là một lực lượng tương đối nhỏ, đây là những lợi ích to lớn.

Ngày 12 tháng 4 năm 1927, giai cấp tư sản dân tộc đào ngũ theo phản cách mạng và thành lập một trung tâm phản cách mạng ở Nam Kinh. Vào thời điểm này, giới trí thức tiểu tư sản đứng về phía cách mạng, và một trung tâm cách mạng được thành lập ở Vũ Hán.

Trong thời kỳ này, các đồng minh của giai cấp vô sản là: (i) giai cấp nông dân; (ii) người nghèo thành thị, và (iii) giới trí thức tiểu tư sản. Sẽ là sai lầm nếu trong thời kỳ này, phe cánh tả của Quốc Dân Đảng chưa bị thất sủng, rút khỏi Quốc Dân Đảng Vũ Hán; Vũ Hán vào thời điểm này là trung tâm của cuộc cách mạng.

Thành quả của thời kỳ Vũ Hán là:

(1) Đảng Cộng sản, từ một đảng không đáng kể có từ 5.000 đến 6.000 đảng viên đã trở thành một đảng có 50.000 hoặc 60.000 đảng viên.

(2) Công đoàn đã phát triển thành một lực lượng to lớn và bao gồm 3 triệu thành viên;

(3) Các tổ chức của nông dân được mở rộng bao gồm hàng chục triệu nông dân trong đó;

(4) Đảng Cộng sản có được khả năng công khai tổ chức cuộc cách mạng;

(5) Đảng Cộng sản và giai cấp vô sản bắt đầu thay đổi từ chỗ chỉ là một nhân tố tầm thường trở thành lãnh đạo chính của Cách mạng Trung Quốc. Nó trở thành nhân tố quan trọng nhất của cuộc cách mạng, tập hợp xung quanh mình nhiều đoàn thể quần chúng nhân dân Trung Quốc.

Đó là những thành tựu của thời kỳ này.

Chính sách đúng đắn, nhưng không có nghĩa thể tự nó tự đảm bảo cho chiến thắng.

Khi Quốc dân Đảng rời bỏ cuộc cách mạng, phe đối lập Trotskyist bắt đầu nói rằng điều này là do Quốc tế Cộng sản đã tuân theo một chính sách sai lầm. Nhưng một chính sách đúng đắn không thể tự nó đảm bảo chiến thắng. Điều cần thiết để đạt được thành công không chỉ là một chính sách đúng đắn, mà còn là sự cân bằng thế và lực của các lực lượng giai cấp. Nếu lực lượng phản động mạnh hơn, cuộc cách mạng có thể bị thất bại mặc dù nó được hướng dẫn bởi một chính sách đúng đắn. Tuy nhiên, có một điều chắc chắn rằng: để đạt được thành công, ngoài sự cân bằng thế và lực của các lực lượng giai cấp, cần phải có một chính sách đúng đắn, một chương trình và chiến thuật đúng đắn.

Đây là những gì Stalin nói về vấn đề trên:

“Phe đối lập coi sự thất bại tạm thời của cuộc cách mạng [ở Trung Quốc] là chính sách của Quốc tế.” Nhưng “chỉ những người đã đoạn tuyệt với chủ nghĩa Mác mới có thể nói như vậy. Chỉ những người đã đoạn tuyệt với chủ nghĩa Mác mới có thể đòi hỏi một chính sách đúng đắn phải luôn luôn và nhất thiết phải dẫn đến chiến thắng ngay lập tức trước kẻ thù” (Stalin: Về vấn đề Trung Quốc, 'Pravda', ngày 28 tháng 7 năm 1927)

Tiếp theo đó:

“Một chính sách đúng đắn không nhất thiết phải luôn luôn dẫn đầu và không thể không hướng đến chiến thắng trước kẻ thù. Chiến thắng trực tiếp trước kẻ thù không chỉ quyết định bằng chính sách đúng đắn mà trước hết được quyết định bởi tương quan lực lượng giai cấp, bởi ưu thế rõ rệt về sức mạnh của lực lượng cách mạng, bởi sự tan rã trong lòng địch, bởi một thuận lợi của tình hình quốc tế."

“ Chỉ với những điều kiện đó, một chính sách đúng đắn của giai cấp vô sản mới có thể trực tiếp dẫn đến thắng lợi".

“ Nhưng có một yêu cầu bắt buộc mà một chính sách đúng phải luôn đáp ứng và trong mọi điều kiện. Yêu cầu đó là chủ trương của Đảng phải nâng cao sức chiến đấu của giai cấp vô sản, nhân rộng quan hệ với quần chúng lao động, nâng cao uy tín trong quần chúng, biến giai cấp vô sản thành người lãnh đạo cách mạng".

“ Có thể khẳng định rằng giai đoạn vừa qua đã tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho thắng lợi trực tiếp của cách mạng Trung Quốc? Rõ ràng, nó không thể ".

“ Có thể khẳng định rằng chính sách Cộng sản ở Trung Quốc đã không nâng cao sức chiến đấu của giai cấp vô sản, chưa nhân rộng quan hệ với quần chúng rộng rãi, và chưa nâng cao uy tín trong quần chúng này? Rõ ràng, nó không thể ".

“ Chỉ những người mù mới có thể không thấy rằng giai cấp vô sản Trung Quốc đã thành công trong thời kỳ này trong việc cắt đứt quần chúng nông dân rộng rãi với giai cấp tư sản dân tộc lẫn giới trí thức tiểu tư sản, để tập hợp họ theo tiêu chuẩn của chính mình ”.

Nhờ vào chính sách đúng đắn mà Đảng cộng sản Trung Quốc theo đuổi trong thời kỳ này, mối quan hệ với quần chúng càng phát triển và uy tín của đảng trong quần chúng đã tăng lên rất nhiều. Ngay cả phe đối lập Trotskyist, trong thời kỳ này, đã tuyên bố rằng việc Đảng cộng sản Trung Quốc theo đuổi chính sách của một khối cách mạng với Quốc Dân Đảng Vũ Hán là đúng.

Nhưng ngay sau khi Vũ Hán từ bỏ cuộc cách mạng, và vì sự đào ngũ này, phe đối lập bắt đầu khẳng định rằng chính sách của một khối với Quốc Dân Đảng Vũ Hán là không chính xác và tìm cách quy kết thất bại tạm thời của Cách mạng Trung Quốc là do chính sách của Quốc tế Cộng sản, điều đó cho thấy miệng lưỡi không xương sống của phái đối lập, một sự đoạn tuyệt với chủ nghĩa Mác và rời bỏ nguyên tắc chiến thuật thứ hai của chủ nghĩa Lê-nin - sự cần thiết của giai cấp vô sản để đảm bảo cho mình những đồng minh của quần chúng.

Nguyên tắc chiến thuật thứ ba: vấn đề giáo dục quần chúng

Điều này liên quan đến vấn đề giáo dục quần chúng; câu hỏi làm thế nào một khẩu hiệu cho đảng có thể trở thành một khẩu hiệu cho quần chúng. Những người cộng sản phải làm thế nào để lãnh đạo quần chúng đến các vị trí cách mạng, để họ (quần chúng) tự mình thuyết phục bằng kinh nghiệm chính trị của mình về tính đúng đắn của khẩu hiệu của Đảng? Đảng cộng sản phải lãnh đạo quần chúng như thế nào để biến một công thức, một quan điểm trước mắt thành một công thức như khẩu hiệu của thời đại? Người cộng sản thực sự phải hành động như thế nào? Điều này có tầm quan trọng đặc biệt.

Trotskyist sẽ luôn nói“chúng tôi là người đầu tiên nói với bạn rằng giai cấp tư sản dân tộc sẽ đào ngũ”. Nhưng vấn đề ở đây không phải là vấn đề ai là người đầu tiên nói với chúng ta rằng giai cấp tư sản dân tộc sẽ đào ngũ. Vấn đề đặt ra là chúng ta chủ trương chính sách nào tại một thời điểm cụ thể - một chính sách phù hợp với tình hình và không đi quá xa so với quần chúng, cũng không bị tụt hậu. Nếu phát hành một khẩu hiệu trong một thời gian dài trước khi được đông đảo công chúng chấp nhận thì sẽ không đủ cơ sở để vào một ngày nọ có thể tự huênh hoang rằng tôi là người đầu tiên đưa ra khẩu hiệu cụ thể đó.

Đảng cộng sản phải nhìn xa hơn quần chúng, nhưng đồng thời cũng không được bỏ xa họ. Nếu đảng cộng sản thực hiện theo các chiến thuật kéo dài quá lâu, thì những chiến thuật đó không thể được gọi là chiến thuật nhìn xa; đây là những chiến thuật lộn xộn.

Giai đoạn thứ nhất: thời kỳ Mặt trận Thống nhất dân tộc

Phe đối lập không bao giờ mệt mỏi khi đề cập đến một bức điện do Quốc tế gửi vào tháng 10 năm 1926, có nội dung: “Cho đến khi Thượng Hải bị chiếm, phong trào nông dân không nên được tăng cường ”.

Bức điện này sai và Stalin thừa nhận là đúng như vậy. Và Quốc tế đã hủy nó trong vòng năm tuần kể từ khi gửi đi.

Các sự kiện cần được ghi nhận liên quan đến bức điện này:

1 . Chính Quốc tế Cộng sản và Stalin phải chịu trách nhiệm hủy bỏ bức điện này chứ không phải phe đối lập;

2. Lần đầu tiên phe đối lập nêu vấn đề này của bức điện, là chín tháng sau khi bức điện này thực sự bị hủy bỏ.

Bức điện này là được biết đến khá hẹp, chia làm nhiều đợt; nó không mang theo mình những quan điểm chủ đạo mà Quốc tế đã chỉ thị cho Đảng cộng sản Trung Quốc như trước đây.

Quan điểm của Quốc tế cộng sản được thể hiện trong một số tài liệu nổi tiếng mà Trotskyist và những kẻ giả mạo lịch sử khác đã làm lơ đi.

Quốc tế kêu gọi Đảng cộng sản Trung Quốc "củng cố liên minh của mình với giai cấp nông dân” , “đưa ra một chương trình nông nghiệp cấp tiến” và xác định “với cuộc cách mạng ruộng đất”.

Đây là một đoạn trích từ nghị quyết (một tài liệu thực sự xác định đường lối của Quốc tế) của Hội nghị toàn thể thứ bảy của Quốc tế cộng sản, vào tháng 11 năm 1926, tức là một tháng sau bức điện nói trên:

“Đặc điểm đặc biệt của tình hình hiện nay là tính chất quá độ của nó, thực tế là giai cấp vô sản phải lựa chọn giữa viễn cảnh về một khối với nhiều bộ phận đáng kể của giai cấp tư sản và viễn cảnh củng cố hơn nữa liên minh của mình với giai cấp nông dân. Nếu giai cấp vô sản không đưa ra được một chương trình trọng nông triệt để thì sẽ không thể lôi kéo được giai cấp nông dân vào cuộc đấu tranh cách mạng và sẽ từ bỏ quyền lãnh đạo của mình trong công cuộc giải phóng dân tộc”('Nghị quyết của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Quốc tế ')

Tiếp:

“Chính phủ Nhân dân Quảng Châu sẽ không thể giữ được quyền lực trong cuộc cách mạng, sẽ không thể đạt được chiến thắng hoàn toàn trước chủ nghĩa đế quốc nước ngoài và phản động của bản địa cho đến khi sự nghiệp giải phóng dân tộc được xác định bằng cuộc cách mạng ruộng đất”.

Cho phép tôi trích dẫn một số đoạn trong bài phát biểu của Stalin vào tháng 11 cùng năm - 1926. Bài phát biểu của Stalin được xuất bản với tiêu đề Triển vọng của cuộc cách mạng ở Trung Quốc. Chính bài phát biểu này, chứ không phải bức điện trên, là đặc trưng cho đường lối của Stalin và của Quốc tế về Cách mạng Trung Quốc.

Đây là những gì Stalin đã nói trong bài phát biểu của mình:

“Tôi biết, trong Quốc dân đảng, thậm chí cả trong Đảng cộng sản Trung Quốc, có một số người không nhận thấy khả năng phát động cách mạng trong nông thôn, vì họ cho rằng nông dân tham gia cách mạng thì sẽ phá hoại mặt trận thống nhất phản đế. Thưa các đồng chí đó là một sai lầm lớn. Nông dân Trung Quốc tham gia cách mạng càng nhan chóng, càng triệt để thì mặt trận phản đế càng có sức mạnh, càng có uy thế.”.

Và xa hơn:

“Tôi biết rằng, trong Đảng cộng sản Trung Quốc, có một số đồng chí cho rằng việc công nhân bãi công đòi cải thiện tình hình sinh hoạt vật chất và địa vị pháp quyền là không cần thiết và họ khuyên công nhân không nên bãi công (có tiếng nói: ở Quảng Đông và Thượng Hải có như vậy đấy). Thưa các đồng chí đó l2 sai lầm rất lớn. Như thế là đánh giá quá thấp vai trò và ý nghĩa của giai cấp vô sản Trung Quốc. Trong các luận cương nói trên, cần phải vạch rõ những hiện tượng hết sức xấu ấy. Nếu Đảng cộng sản Trung Quốc không lợi dụng hoàn cảnh thuận lợi hiện nay để giúp đỡ công nhân cải thiện tình hình sinh hoạt vật chất và địa vị pháp quyền của họ, dù là bằng phương pháp bãi công, thì đó là một sai lầm rất lớn. Nếu không thế thì làm cách mạng ở Trung Quốc để làm gì?”.

Đây là tài liệu thứ ba tháng 12 năm 1926 do Quốc tế Cộng sản gửi cho Đảng cộng sản Trung Quốc:

“ Một chính sách chung về sự rút lui trong thành thị và hạn chế cuộc đấu tranh của người lao động để cải thiện cuộc sống của họ là hoàn toàn sai lầm. Cuộc đấu tranh ở nông thôn phải được mở rộng, nhưng đồng thời phải tranh thủ hoàn cảnh thuận lợi để nâng cao điều kiện vật chất và địa vị pháp lý của công nhân, đồng thời bằng mọi cách đấu tranh của công nhân có tính tổ chức, loại trừ việc vượt quá hoặc chạy quá xa về phía trước. Cần phải đặc biệt nỗ lực chỉ đạo cuộc đấu tranh ở các đô thị chống lại giai cấp tư sản lớn và trên hết là chống đế quốc, để tách biệt giai cấp tư sản nhỏ và tư sản vừa Trung Quốc càng xa càng tốt trong khuôn khổ của mặt trận thống nhất chống lại cái chung kẻ thù.”.

Đây là tài liệu thứ tư được ban hành trước cuộc đảo chính của Tưởng Giới Thạch:

“Công việc của Quốc dân đảng và các đơn vị Cộng sản trong quân đội phải được tăng cường; chúng phải được tổ chức ở những nơi chưa có, nhưng có thể tổ chức; nơi không thể tổ chức các đơn vị cộng sản, cần phải tiến hành với các công tác của những đảng viên bí mật.

“Cần phải thông qua quá trình trang bị vũ khí cho công nhân và nông dân và chuyển các ủy ban nông dân ở các địa phương thành cơ quan thực sự của chính quyền được trang bị vũ trang tự vệ , v.v.

“Đảng Cộng sản ở mọi nơi phải tiến lên như vậy; chính sách bán hợp pháp là không thể chấp nhận; Đảng Cộng sản không được kìm hãm phong trào quần chúng; Đảng Cộng sản không nên che đậy chính sách xảo trá và phản động của Quốc dân đảng, và nên vận động quần chúng xung quanh Đảng Cộng sản Trung Quốc trên cơ sở vạch trần bản chất Quốc dân đảng .

“ Tất cả những người làm công tác chính trị trung thành với cách mạng phải chú ý đến thực tế là vào thời điểm hiện tại, cùng với việc tập hợp lại các lực lượng giai cấp và tập trung quân đội đế quốc, cách mạng Trung Quốc đang trải qua một giai đoạn quan trọng, và rằng nó có thể đạt được những thắng lợi hơn nữa chỉ khi kiên quyết áp dụng những biện pháp phù hợp vào quá trình phát triển phong trào quần chúng. Nếu không một nguy cơ to lớn đe dọa cuộc cách mạng. Do đó, việc thực hiện các chỉ thị là cần thiết hơn bao giờ hết”(Stalin: Về Trung Quốc, tình hình quốc tế và việc bảo vệ Liên Xô , 1927, CW Vol X).

Trên thực tế, ngay từ tháng 4 năm 1926, một năm trước khi cuộc đảo chính do Quốc Dân Đảng và Tưởng Giới Thạch tổ chức, Quốc tế đã cảnh báo Đảng Cộng sản Trung Quốc, và chỉ ra rằng cần phải làm việc để “loại bỏ dần ảnh hưởng của Quốc dân đảng”.

Các tài liệu trên cho thấy rõ các chiến thuật của Mặt trận thống nhất chống lại chủ nghĩa đế quốc trong giai đoạn đầu - thời kỳ Quảng Châu - của Cách mạng Trung Quốc, khi cuộc cách mạng đang giáng đòn chủ yếu vào chủ nghĩa đế quốc nước ngoài, và khi giai cấp tư sản dân tộc tham gia cuộc cách mạng và ủng hộ phong trào cách mạng.

Tất cả những tài liệu này đều được phe đối lập biết, nhưng họ lờ đi mà không đề cập đến chúng. Như Stalin đã nói: “Tại sao phe đối lập không nói hết những gì họ biết? Bởi vì mục đích của nó là gây tranh cãi chứ không phải đưa ra sự thật”(Bài phát biểu trước Hội nghị toàn thể của Ban Chấp hành Trung ương của Ủy ban Kiểm soát Trung ương của CPSU, ngày 1 tháng 8 năm 1927).

Stalin tiếp tục đề cập đến Hội nghị toàn thể lần thứ sáu hồi tháng 2 - 3 năm 1926 của Quốc tế, tại đó một nghị quyết nhất trí đã được thông qua, và đưa ra dự đoán gần giống về giai đoạn đầu tiên của Cách mạng Trung Quốc (thời kỳ Quảng Châu) như Quốc tế đã đưa ra, mà phe đối lập từ chối một năm sau đó. Zinoviev đã bỏ phiếu cho nghị quyết này, và không một thành viên nào của Ban chấp hành Quốc tế, thậm chí cả Trotsky, Kamenev hoặc các nhà lãnh đạo khác của phe đối lập, phản đối nó.

Giai đoạn thứ hai của Cách mạng Trung Quốc: thời kỳ Vũ Hán

Phe đối lập khẳng định rằng Quốc tế đã không cảnh báo Đảng cộng sản Trung Quốc về khả năng phản bội của phe cánh tả của Quốc dân đảng sang phe phản cách mạng. Khẳng định này bị bác bỏ bởi hai tài liệu tháng 5 năm 1927, trong đó Quốc tế ấn tượng về việc Đảng cộng sản Trung Quốc cần phải phát triển cách mạng ruộng đất một cách có hệ thống; tổ chức tám hoặc mười đội quân công nông cách mạng với những cán bộ tuyệt đối tin cậy; tổ chức và tăng cường các hoạt động làm tan rã hậu phương và trong các đơn vị của Tưởng Giới Thạch; và thu hút các lãnh đạo nông dân và giai cấp công nhân mới vào Đảng của Quốc Dân Đảng, để tiếng nói mạnh mẽ của họ có thể làm chùn bước các nhà lãnh đạo cũ hoặc khiến họ bị bị thất sủng.

“Phải loại bỏ sự phụ thuộc vào những tướng không đáng tin cậy. Huy động khoảng 20.000 người cộng sản, và khoảng 50.000 công nhân và nông dân cách mạng từ Hồ Nam và Hồ Bắc, thành lập một số binh đoàn mới, sử dụng các sinh viên tại trường sĩ quan làm chỉ huy và tổ chức đội quân đáng tin cậy của riêng mình trước khi quá muộn. Nếu điều này không được thực hiện thì không có gì đảm bảo chống lại sự thất bại. Đó là một vấn đề khó khăn, nhưng không phải là không thực hiện được.

“Tổ chức một Tòa án quân sự cách mạng do những người theo chủ nghĩa Quốc dân đảng nổi tiếng không cộng sản đứng đầu. Trừng phạt những sĩ quan giữ liên lạc với Tưởng Giới Thạch hoặc những kẻ kích động binh lính chống lại nhân dân, công nhân và nông dân. Thuyết phục thôi là chưa đủ. Đã đến lúc phải hành động. Những kẻ vô lại phải bị trừng phạt. Nếu những người theo Quốc dân đảng không học cách trở thành những người Jacobins cách mạng, họ sẽ bị tiêu diệt cho đến khi nào nhân dân và cách mạng ngừng nghi ngờ” (xem bài phát biểu của Stalin ngày 1 tháng 8 năm 1927)

Tổng kết các lỗi của phe đối lập

Ở giai đoạn này, sẽ cực kỳ hữu ích nếu tổng hợp những sai sót của phe đối lập Trotskyist đối với câu hỏi về Cách mạng Trung Quốc bằng những lời sau đây của Stalin:

“ Những sai lầm chính của phe đối lập là:

“(1) Phe đối lập không hiểu đặc điểm và triển vọng của Cách mạng Trung Quốc;

“(2) Phe đối lập không thấy có sự khác biệt giữa cách mạng ở Trung Quốc và cách mạng ở Nga, giữa cách mạng ở các nước thuộc địa và cách mạng ở các nước đế quốc;

“(3) Phe đối lập phản đối những phương pháp của chủ nghĩa Lênin, về vấn đề thái độ đối với giai cấp tư sản dân tộc ở các nước thuộc địa trong giai đoạn đầu của cuộc cách mạng;

“(4) Phe đối lập không hiểu về sự tham gia của những người cộng sản vào Quốc dân đảng;

“(5) Phe đối lập đang vi phạm nguyên tắc chiến thuật của chủ nghĩa Lênin về vấn đề quan hệ giữa đội tiên phong (đảng) và hậu phương (quần chúng nhân dân lao động rộng lớn);

“( 6) Phe đối lập đang rời khỏi các nghị quyết của Hội nghị lần thứ sáu và thứ bảy của Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản”.

Tiếp tục Stalin:

“Phe đối lập ồn ào khoe khoang về chính sách của họ đối với vấn đề Trung Quốc và khẳng định rằng nếu chính sách đó được áp dụng thì tình hình ở Trung Quốc ngày nay [tức ngày 1 tháng 8 năm 1927] sẽ tốt hơn. Không cần chứng minh cũng thấy, nếu đi vào con đường sai lầm của phe đối lập, thì Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ rơi vào hoàn toàn bế tắc nếu nó áp dụng chính sách chống chủ nghĩa Lenin và chủ nghĩa phiêu lưu của phe đối lập.

“Thực tế là Đảng Cộng sản Trung Quốc đã phát triển trong một thời gian ngắn từ một nhóm nhỏ 5 hay 6 nghìn thành một đảng quần chúng có 60 nghìn đảng viên; việc Đảng cộng sản Trung Quốc đã thành công trong việc tổ chức cho gần 3.000.000 công đoàn viên vô sản trong các thời kỳ; thực tế là Đảng cộng sản Trung Quốc đã thành công trong việc lôi kéo hàng triệu nông dân ra khỏi cuộc sống lầm than của họ và lôi kéo hàng chục triệu nông dân vào các hội nông dân cách mạng; thực tế là Đảng cộng sản Trung Quốc đã thành công trong thời kỳ này trong việc chiến thắng toàn bộ các trung đoàn và sư đoàn của quân đội quốc gia; thực tế là Đảng cộng sản Trung Quốc đã thành công trong thời kỳ này trong việc chuyển đổi ý tưởng bá quyền của giai cấp vô sản từ một khát vọng thành hiện thực - việc Đảng cộng sản Trung Quốc đã đạt những thành công trong một thời gian ngắn, tất cả là do nó đã đi theo đúng con đường do Lenin vạch ra, con đường do Quốc tế Cộng sản chỉ ra .

“Không cần phải nói, nếu chính sách của phe đối lập, với những sai lầm và đường lối chống chủ nghĩa Lê-nin về các vấn đề cách mạng thuộc địa, được áp dụng, thì những thành quả này của cách mạng Trung Quốc sẽ không đạt được, hoặc sẽ là vô cùng không đáng kể.

“Chỉ những kẻ phản bội và những kẻ ưa mạo hiểm mới có thể nghi ngờ điều này".

Những thất bại năm 1927 chủ yếu do chủ nghĩa cơ hội của bè phái Trần Độc Tú.

Những thành công và thất bại của Đảng cộng sản Trung Quốc liên quan mật thiết đến việc nó có tuân theo đường lối của Quốc tế Cộng sản và của Stalin hay không.

Đứng đầu là Trần Độc Tú khét tiếng, Đảng cộng sản Trung Quốc vào thời điểm đó đã thất bại trong việc đào sâu cuộc cách mạng ruộng đất và vạch trần triệt để bộ mặt của Quốc dân đảng.

Không lâu sau thất bại năm 1927, Trần Độc Tú đã bị đánh bại, sau đó ông ta đã thực hiện một nỗ lực không thành công để phát động một phong trào Trotskyist ở Trung Quốc, và vào ngày 10 tháng 12 năm 1929, ông đã tuyên bố rằng cần phải “hoạt động tích cực về phía đối lập quốc tế do đồng chí Trotsky lãnh đạo”.

Nhìn nhận những thất bại năm 1927 của Đảng cộng sản Trung Quốc, Trần Độc Tú đã có những đổ lỗi cho vai trò của Quốc tế Cộng sản và Stalin, bằng cách vu khống ác ý:

“Tôi [Trần Độc Tú] , người hiểu biết không đủ rõ ràng, ý kiến ​​chưa đủ kiên quyết, sa lầy sâu vào bầu không khí của chủ nghĩa cơ hội, đã chân thành ủng hộ chính sách cơ hội của Đệ tam Quốc tế. Tôi vô thức trở thành một công cụ của phe Stalin hẹp hòi; Tôi đã không có cơ hội để phát triển; Tôi không thể cứu được Đảng; tôi không cứu được cách mạng … ”

Những lời dối trá thâm độc trong tuyên bố trên đã bị bác bỏ bởi con đường thắng lợi tiếp theo của Cách mạng Trung Quốc, sau đây là tuyên bố của Ban chấp hành Đảng cộng sản Trung Quốc vào ngày 7 tháng 8 năm 1927:

“Quốc tế Cộng sản đã nhiều lần chỉ thị cho Đảng cộng sản Trung Quốc phải đấu tranh để cải thiện điều kiện vật chất của quần chúng lao động. Đồng thời, Quốc tế Cộng sản chỉ ra rằng cần phải trang bị vũ khí cho công nhân một cách nhanh chóng, mạnh dạn và kiên quyết , nhất là những phần tử có ý thức giai cấp nhất và có tổ chức tốt nhất. ... Nhưng cơ quan lãnh đạo của Đảng ta đã phát triển một cách khác hẳn. Đơn giản là nó đã cản trở và hạn chế tối đa cuộc đấu tranh giai cấp và hành động cách mạng của công nhân. Thay vì truyền bá và thúc đẩy các phong trào bãi công, Ủy ban Trung ương, cùng với các lãnh đạo của Quốc dân đảng, quyết định một phương pháp hòa giải độc đoán và phán quyết rằng quyền lực cuối cùng thuộc về chính phủ Quốc dân. Dưới chính quyền liên minh các giai cấp, do giai cấp tư sản lãnh đạo ở giai đoạn đầu, chính sách này thực chất chỉ nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản và cản trở rất nhiều đến phong trào đấu tranh của công nhân ....

“Cách mạng ruộng đất là mấu chốt của cuộc cách mạng tư sản - dân chủ ở Trung Quốc. Quốc tế Cộng sản đã nhiều lần giải thích về vấn đề này .

“Quan hệ giữa Đảng và Quốc tế Cộng sản cũng không được tôn trọng đầy đủ. Trong lịch sử Quốc tế Cộng sản chưa từng có trường hợp nào mà các chỉ thị, nghị quyết lại thực sự bị bác bỏ trong tình thế nguy cấp như vậy. Đây không còn đơn thuần là một hành vi vi phạm kỷ luật đơn thuần, mà là một hành động tội ác chống lại phong trào cộng sản Trung Quốc và Quốc tế. ... Đảng Cộng sản Trung Quốc không chỉ thực hiện một chính sách sai lầm, một chính sách đưa cách mạng đến chỗ thất bại, tự nguyện ly khai cách mạng và đầu hàng kẻ thù, mà còn không chịu nhận lỗi và tuân theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản. ... ”

Sự thật trong tuyên bố trên của Đảng cộng sản Trung Quốc càng được chứng thực bằng đoạn trích sau đây được Trần Bá Đạt viết trong cuốn sách nhỏ, Stalin và Cách mạng Trung Quốc :

“Chủ nghĩa cơ hội của Trần Độc Tú năm 1927 hoàn toàn trái ngược với sự phân tích biện chứng này của Stalin. Chủ nghĩa cơ hội Trần Độc Tú sau đó đã hợp nhất với chủ nghĩa Trotsky phản cách mạng. Điều này đã được nhiều người biết đến và sẽ không cần phải nhắc đến nhiều hơn nữa ."

Những kẻ cơ hội trong Đảng cộng sản Trung Quốc đã đi xa đến mức xoá sổ sạch các bài viết của Stalin về Cách mạng Trung Quốc. “Cả vào năm 1927 khi Trần Độc Tú nắm quyền và sau đó, những kẻ cơ hội hoặc cố ý hoặc vô ý đã cản trở việc phổ biến trong Đảng Trung Quốc nhiều tác phẩm của Stalin về vấn đề Trung Quốc”.

“Cần phải chỉ ra mối liên hệ này rằng trong suốt hai mươi năm kể từ năm 1927, những sai lầm của chủ nghĩa cơ hội cả Cánh hữu và Cánh tả xảy ra trong đảng của chúng ta, trước hết là những vi phạm phân tích biện chứng của Stalin, liên quan đến bản chất của cuộc cách mạng, bằng cách xem nhẹ khía cạnh chống đế quốc hoặc chống phong kiến”(Trần Bá Đạt viết năm 1949).

Trong thời kỳ nội chiến kéo dài 10 năm, những kẻ cơ hội 'cánh tả', quên đi tính chất chống đế quốc của Cách mạng Trung Quốc, đã phản đối chủ trương tham gia mặt trận thống nhất chống đế quốc.

Tuy nhiên, trong cuộc Kháng chiến chống Nhật xâm lược, những kẻ cơ hội 'cánh tả' này đã tự biến mình thành những kẻ cơ hội hữu khuynh, có quan điểm giống với quan điểm của Trần Độc Tú. Họ không nhận ra ý nghĩa quyết định của việc phát triển sâu rộng phong trào nông dân.

Stalin phân tích những người này một cách chính xác khi ông nói rằng:

“Tôi biết rằng có… ngay cả những người cộng sản Trung Quốc cũng không cho rằng có thể mở cuộc cách mạng ở nông thôn, vì họ sợ rằng nếu giai cấp nông dân bị lôi kéo vào cuộc cách mạng thì nó sẽ phá vỡ mặt trận thống nhất chống đế quốc ”.

Họ đã quên lời dạy của chủ nghĩa Lenin của Stalin rằng “Mặt trận chống chủ nghĩa đế quốc ở Trung Quốc sẽ ngày càng mạnh mẽ hơn khi giai cấp nông dân Trung Quốc được lôi kéo vào cuộc cách mạng càng sớm và càng vững chắc”.

Họ chủ trương từ bỏ quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản. Họ “chỉ nhìn thấy giai cấp tư sản ” và không nhìn thấy một thắng lợi trong tương lai của cách mạng dân chủ nhân dân và của chủ nghĩa xã hội. Họ đã quên lời dạy của chủ nghĩa Lenin của Stalin và của Chính phủ về Cách mạng Trung Quốc rằng “vai trò của người khởi xướng và lãnh đạo Cách mạng Trung Quốc, vai trò lãnh đạo của giai cấp nông dân Trung Quốc tất yếu phải thuộc về giai cấp vô sản Trung Quốc và đảng của nó”.