VỀ NGƯỜI PHỤ NỮ LÀ THƯỢNG CẤP CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC (LIN) NHỮNG NĂM THÁNG Ở MOSKVA 1934-1938.



Hệ thống lưu trữ tài liệu cá nhân của Liên Xô thật là tuyệt vời, hiện nay viện Gen di truyền của Nga đã số hóa khoảng 190 triệu cái tên, kể cả những người sống từ thời Đế Quốc Nga trước Cách mạng tháng Mười. Mặc dù hơi cực xíu nhưng cuối cùng tôi cũng tìm thêm được thông tin về bà Vera Vasilievna - thượng cấp của đồng chí Nguyễn Ái Quốc tại Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản.

Vậy tại sao tôi lại quan tâm bà Vera Vasilievna?

Thực ra, trước đây khi nghiên cứu về các vấn đề "khúc mắc" giữa Nguyễn Ái Quốc và Quốc tế Cộng sản giai đoạn 1934-1938, người ta thường căn cứ trên các tài liệu về báo cáo của bà Vasilievna gửi BCH Quốc tế Cộng sản về trường hợp Nguyễn Ái Quốc trong "Vụ án Moskva 1936".

Xu hướng đánh giá tiêu cực, đối lập một cách thái quá Nguyễn Ái Quốc với Quốc tế Cộng sản (vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp) dựa trên những nhận xét của bà Vasilievna đánh giá Nguyễn Ái Quốc trong báo cáo gửi ngày 29-6-1935 gửi Bộ Phương Đông và Vụ Tổ chức cán bộ của Quốc tế Cộng sản và việc bà Vasilievna từ chối chấp nhận để đồng chí Nguyễn Ái Quốc (lúc này bí danh là Lin) làm đại diện của Đảng Cộng sản Đông Dương tại Đại hội VII QTCS 1935.

Sỡ dĩ có xu hướng đánh giá tiêu cực trên là do trong một thời gian khá dài chúng ta tương đối ngầm đồng ý với mạch logic: thời kỳ 1928 - 1938 là thời kỳ Đảng Cộng sản Bolsheviks Liên Xô tiến hành các hoạt động tả khuynh trong việc "đẩy mạnh chuyên chính vô sản một cách cực đoan, tiến hành đàn áp thanh trừng nội bộ dựa trên nền chuyên chính cực đoan đó", do đấy hình thành nên xu hướng suy nghĩ rằng trong Đảng Cộng sản Liên Xô lúc đấy thiên về vấn đề giai cấp, còn Nguyễn Ái Quốc thiên về vấn đề dân tộc. Và tất nhiên, các bài nghiên cứu thường hướng đến hiểu rằng, người ta "đì" Nguyễn Ái Quốc là vì đồng chí khác quan điểm với Quốc tế Cộng sản, với đồng chí Stalin!

Với kinh nghiệm nghiên cứu về về đồng chí Stalin nói riêng, Quốc tế Cộng sản nói chung, thì cá nhân tôi trong quá trình tìm hiểu về Lịch sử Cách mạng của Đảng Bolsheviks, Lịch sử xây dựng Nhà nước Xô viết, ... đã nhận ra rằng mạch logic trên là không chính xác. Đặc biệt khi đọc các bài nghiên cứu về Quốc tế Cộng sản và cương lĩnh giải phóng dân tộc do Viện hàn lâm KHXH Liên Xô xuất bản về Đại hội V, Đại hội VI của Quốc tế Cộng sản, cũng như là đọc được những góp ý thẳng thẳng của đồng chí Stalin về phong trào giải phóng của nhân dân Indonesia, thì cá nhân tôi đánh giá hoàn toàn ko có chuyện Quốc tế Cộng sản (hay Stalin) thực hiện việc đối lập vấn đề dân tộc và giai cấp.

Ngược lại cần nên hiểu một cách marxist rằng Chính sách và cương lĩnh về vấn đề dân tộc và giải phóng các dân tộc thuộc địa của Quốc tế Cộng sản là chính sách chưa hoàn thiện đối với giai đoạn phát triển mới của tình hình thế giới, cũng như là chưa nhận thức đầy đủ những đặc điểm riêng biệt của những nước thuộc địa. Vì thế cho đến Đại hội VI của Quốc tế Cộng sản, cơ bản vẫn giữ nguyên cương lĩnh từ Đại hội II, do Lenin đề xuất. Do đấy chúng ta cần hiểu rằng Quốc tế cộng sản cần phải có thời gian lâu dài để bổ sung và phát triển lý luận phù hợp với tình hình của quốc tế và thời đại. Cố nhiên là chúng ta ko bỏ qua những xu hướng tâm lý tả khuynh xuất hiện trong Đại hội VI của Quốc tế Cộng sản, tuy nhiên những xu hướng đó là cục bộ và có nhiều nguồn gốc xuất hiện khác nhau bao gồm đến từ các thế lực âm mưu chống chính quyền Xô viết hay các cán bộ thiếu trình độ lý luận chứ không phải xuất phát từ các quan điểm chính của Quốc tế Cộng sản .

Thời điểm 1934-1938, là thời điểm vô cùng đặc biệt. Khi Chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên phạm vi Liên Xô vào năm 1934 với việc 92% thành phần kinh tế đã được cải tạo sang xã hội chủ nghĩa, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố, nền kinh tế và công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa đạt những bước phát triển chưa từng có trong lịch sử thì đồng nghĩa với việc các thế lực âm mưu chống chính quyền Xô viết có xu hướng dân tộc tư sản, tiểu tư sản càng mất dần khả năng quay trở lại chính trường sau khi các hoạt động chống đối chính trị, phá hoại sản xuất, tuyên truyền chống Nhà nước Xô viết thất bại. Các nhóm này đi lại vết xe đổ của các đảng cơ hội chính trị như phái Mensheviks, xã hội cách mạng, Bund Do Thái, các đảng tư sản và bảo hoàng khác đó là dụng bạo lực vũ trang chống lại Đảng Bolsheviks và Chính quyền Xô viết bằng khủng bố trắng ngay sau Cách mạng tháng Mười thành công. Thì ngày nay, các nhóm chống chính quyền Xô viết mới như nhóm: ly khai Hồi giáo chủ nghĩa của Sultan-Galiyev, các nhóm chính trị có xu hướng Trotskyism của Trung tâm phản cách mạng Trotskyist-Zinovievis đứng đầu là Zinoviev và Kamenev, nhóm phản cách mạng có xu hướng cánh hữu của Bukharin, nhóm đảo chính quân sự của cựu Nguyên soái Tukhachevsky, bọn cựu phái Bund Do Thái và Đảng Công nhân Do Thái, … cũng đi lại vết xe đổ đấy.

Đặc điểm chung của tất cả các nhóm chống chính quyền Xô viết đó là họ đã hoàn toàn thất bại trong cuộc đấu tranh chính trị và mất dần toàn bộ khả năng giành lấy chính quyền, nhất là sau hai Kế hoạch 5 năm của Liên Xô đã củng cố ngày càng vững chắc nền kinh tế Xô viết, Chính quyền Xô viết và học thuyết xây dựng Nhà nước Xã hội chủ nghĩa của Stalin.

Việc sử dụng con đường bạo lực cách mạng khủng bố trắng chống chính quyền là một quy luật tất yếu của các nhóm phản cách mạng đã thất bại trong cuộc đấu tranh có tính chất phi bạo lực để giành chính quyền, điều này đã diễn ra trong thời kỳ sau Cách mạng tháng Mười khi phái Mensheviks, xã hội cách mạng và phái Bund khi tiến hành ám sát Đại sứ Đức tại Moskva, ám sát các nhà lãnh đạo có tiếng của nước Nga Xô viết 1918, ám sát cả lãnh tụ Lenin. Thì ngày nay họ ám sát các lãnh tụ Đảng và nhà nước Xô viết như Kirov, Stalin, ...

Còn một điều đặc biệt khác – chủ yếu nhất và quan trọng nhất đó là có một sự thật khác bên cạnh các cuộc bạo loạn chống chính quyền Xô viết từ bên ngoài, là trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô, suốt một thời gian dài bị thống trị bởi những người theo chủ nghĩa quan liêu - những kẻ tự xưng là Marxist - Leninist nhưng thực tế đã làm méo mó chủ nghĩa Marx - Lenin để phục vụ lợi ích đám quan liêu chủ nghĩa hình thành Trong đảng Cộng sản Liên Xô – vốn là thế lực chịu trách nhiệm chính cho các hành vi trấn áp những năm 1934-1938, điển hình đứng đầu là Yagoda, Yezhov – 2 nhân vật đứng đầu cơ quan An ninh Liên Xô NKVD.

Trong thời kỳ đất nước bước chân vào chế độ xã hội chủ nghĩa thông qua việc xây dựng bản Hiến pháp 1936, nhằm chống lại những biện pháp cải cách có tính chất tiến bộ của đồng chí Stalin và nhóm Trung kiên, nhóm quan liêu chủ nghĩa lợi dụng các vụ án của bọn phản cách mạng đã tiến hành chống những cải cách tiến bộ thông qua việc phủ quyết những nghị quyết quan trọng trong Hội nghị tháng 7/1936. Thời kỳ đấy, rất nhiều cán bộ cấp trung ương đã đề xuất đàn áp thẳng tay bọn phản cách mạng, thường xuyên phủ quyết cải cách với các lý do “chưa phù hợp”, “bọn phản cách mạng trà trộn”, “phải trấn áp bọn khủng bố”. Trong thời kỳ đấy Nikita Khrushchev đã đề xuất xử bắn 20.000 phạm nhân ở Moskva, có đến hàng chục bức thư đề xuất như vậy.

Tại phiên tòa công khai năm 1938, cựu Ủy viên Nhân dân Bộ Nội vụ G. Yagoda, đã nhận tội vì đã dàn xếp vụ giết người tiềm nhiệm của mình, đồng chí V. Menzhinsky, để bảo đảm con đường thăng tiến của y và giúp y nắm quyền kiểm soát thực tế cơ quan an ninh của Liên Xô. Yagoda còn thừa nhận, khi y nắm vị trí này, đã bảo vệ những kẻ đã mưu sát nhà marxist-leninist nổi tiếng của Đảng, những người bạn chiến đấu thân cận của Stalin, đồng chí Kirov và đồng chí M. Gorky.

Sau khi Yagoda bị bắt, Nikolay Yezhov lên thay, một người đã ngụy trang bên ngoài bản thân mình như một nhà Stalinist thứ thiệt. Nhưng y chống lại đề xuất dự thảo cải tiến bộ Luật bầu cử vào tháng 7/1936 của Stalin. Xử bắn 2 đồng chí thân cận nhất của Stalin, những thành viên chủ chốt trong ban Dự thảo Hiến pháp của Stalin.

Thực chất các chính sách cấp tiến như luật bầu cử cho phép người ta thay thế hệ thống chuyên chính vô sản trước đây bằng hệ thống bầu cử nhân dân, điều đó làm ảnh hưởng đến khả năng trụ vững trong chính quyền của các thành phần quan liêu. Người dân đã vui mừng khôn xiết khi 500 quan chức tham nhũng, lộng quyền đã đã sa lưới ngay sau khi Hiến pháp 1936 thông qua.

xxxxxxxxxxxxxxxxxxxx

Sự thật là những lời nhận xét, đánh giá mà bà Vera Vasilievna đối với Nguyễn Ái Quốc, mà nhiều người cho là tiêu cực, vào những năm 1935 lại là vô cùng quý giá. Điều đấy giúp đồng chí Nguyễn Ái Quốc thoát khỏi tình cảnh bị truy vấn đặc biệt trong bối cảnh diễn ra các biến cố vô cùng khắc nghiệt ở Liên Xô khi ấy, nhất là bức thư của Ban lãnh đạo Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương viết ngày 20/4/1935 gửi Quốc tế Cộng sản đã lên án Nguyễn Ái Quốc.

Nội dung thư kết tội Nguyễn Ái Quốc phải chịu trách nhiệm chính về việc hơn 100 Đảng viên của Đảng Cách mạng Thanh niên bị bắt do việc Nguyễn Ái Quốc biết Lâm Đức Thụ trước đây là kẻ phản bội mà vẫn tiếp tục sử dụng ; Nguyễn Ái Quốc rất sai lầm khi yêu cầu mỗi học viên cung cấp hai ảnh, họ tên, địa chỉ, họ tên cha mẹ, ông bà nói chung những người sinh thành và địa chỉ chính xác của 2 đến 10 bạn thân. Những bức ảnh của các học viên do Nguyễn Ái Quốc và Lâm Đức Thụ yêu cầu đều vào tay mật thám. Ở trong nước, ở Xiêm, ở khắp các nhà tù người ta nói nhiều về trách nhiệm của Nguyễn Ái Quốc. Đường lối chính trị của Đảng Cộng sản do Nguyễn Ái Quốc chỉ đạo trước đây bị phê phán gay gắt trong các Đảng viên và quần chúng cách mạng. Trong thư còn nói về sai lầm của Nguyễn Ái Quốc khi hợp nhất các tổ chức cộng sản vào năm 1930, yêu cầu Nguyễn Ái Quốc trong thời gian gần nhất cần viết cuốn sách tự chỉ trích những sai lầm về chính trị của mình.

Như vậy, cần nhận thức một cách đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc kể từ khi đặt chân lên đất nước Liên Xô vào năm 1934, hoàn toàn không bị đối xử “đì” bởi những lý do mà ngày nay cho rằng đồng chí có quan điểm khác với “bên trên”. Mà thực chất vấn đề ở đây xuất phát từ báo cáo của Ban Chỉ huy Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương, về nhận thức cục bộ của một tập thể có xu hướng tả khuynh đối với các vấn đề của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Và đồng chí Nguyễn Ái Quốc sẽ phải gặp nguy hiểm nếu dính vào các tội "các nhóm phản cách mạng", "dân tộc chủ nghĩa cánh hữu" (Bukharinist).

Vera Vasilievna, lúc đấy là người chịu trách nhiệm nhóm sinh viên Việt Nam đã viết báo cáo dài 3 trang gửi Ban Phương Đông và Vụ Tổ chức cán bộ của Quốc tế Cộng sản với nội dung đề nghị: “Đề nghị cần nghiên cứu kỹ nội dung bức thư của Ban lãnh đạo Hải ngoại và cung cấp thêm những thông tin về Nguyễn Ái Quốc để Quốc tế Cộng sản có cơ sở đánh giá chính xác, đầy đủ, toàn diện về Nguyễn Ái Quốc”.

Đồng chí Vera Vasilievna nhận xét: “Nguyễn Ái Quốc là người cộng sản Đông Dương đầu tiên, là người rất có uy tín giữa những người cộng sản, là người đã tổ chức các nhóm cộng sản đầu tiên trên cơ sở đó để thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương. Khi hợp nhất Đảng, Nguyễn Ái Quốc tự nhận mình là đại diện của Quốc tế Cộng sản, mặc dầu Quốc tế Cộng sản chưa trao ủy quyền. Trong thời gian hợp nhất Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Ủy ban lâm thời và đã để xảy ra một số sai lầm như hợp nhất một cách máy móc các nhóm cộng sản, không phân định rõ ràng quan hệ với các tầng lớp địa chủ và tư sản… Do đó, uy tín của đồng chí bị giảm sút, đặc biệt, trong đội ngũ những người lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Hội nghị tháng 10-1930 của Đảng Cộng sản Đông Dương đã nghiêm khắc phê phán những khuyết điểm của đồng chí. Sau Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc đảm nhận công việc liên lạc viên, công tác tại Trung Quốc và Hồng Kông. Trong các bức thư từ Ban lãnh đạo Đảng phản ánh tâm trạng không bằng lòng của Nguyễn Ái Quốc, về công việc của một liên lạc viên bình thường mà luôn thể hiện vai trò lãnh đạo; đã đưa ra những ý kiến, ghi chú, nhận xét của mình trong các chỉ thị, thông báo của Quốc tế Cộng sản và cản trở những thông tin từ đất nước gửi Quốc tế Cộng sản.

“Ngày 6-6-1931, Nguyễn Ái Quốc bị mật thám Anh bắt tại Hồng Kông và bị kết án 2 năm tù giam. Trong thời kỳ này, chúng tôi (Vasilievna) liên hệ với luật sư bào chữa thông qua Tổ chức cứu trợ những người cộng sản bị nạn của Pháp, gửi tiền để thuê luật sư bào chữa và luật sư đã tổ chức cho Nguyễn trốn thoát, việc này đã được luật sư nói rõ trong thư gửi chúng tôi. Một thời gian sau đó, có tin là Nguyễn Ái Quốc đã chết trong tù vì lao phổi. Năm 1933, xuất hiện tin rằng Nguyễn Ái Quốc không chết mà được thả tự do và biến mất.

“Vào tháng 7-1934, Nguyễn Ái Quốc đến Moskva. Theo lời kể của Nguyễn Ái Quốc thì khó xác định được vì sao trốn thoát khỏi mật thám Pháp một cách dễ dàng sau án ngồi tù của mình, và vì sao chỉ bị kết án một cách nhẹ nhàng vậy. Tôi đã nhiều lần đề nghị Nguyễn Ái Quốc trình bày bằng văn bản về các việc liên quan đến bị bắt, bị kết án tù, được giải thoát và trở về với chúng ta, nhưng Nguyễn Ái Quốc đã không thực hiện. Chuyến trở về, theo Nguyễn Ái Quốc kể thì do Vaillant-Couturier trong thời gian ở Trung Quốc đã tổ chức giúp đỡ. Tôi nghĩ rằng, tất cả những vấn đề này cần được thẩm tra kỹ lưỡng. Sau khi đến đây, Nguyễn Ái Quốc được cử đi học tại Trường Mác – Lênin cho đến ngày nay. Thống nhất với các đồng chí Mip và Côchenxky chưa thể nắm hết các hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, mặc dầu chúng tôi biết rằng, Nguyễn luôn luôn kiên trì phấn đấu. Nguyễn đã nhiều lần yêu cầu tôi trao đổi về việc tổ chức liên hệ với Đảng, đặc biệt, rất quan tâm tới các chuyến đi công tác của các sinh viên, về việc họ đi đâu và với những nhiệm vụ gì. Nguyễn rất khổ tâm và nóng lòng về việc không được tham gia những nhiệm vụ bí mật. Trong mối quan hệ với các sinh viên, Nguyễn luôn cố gắng đóng vai trò là người thầy, người lãnh đạo, nhưng về lý luận tỏ ra yếu kém và thường xuyên để xảy ra sai sót trong quá trình trao đổi. Trong bản thân Nguyễn chứa đựng nhiều tư tưởng dân tộc chủ nghĩa và tàn dư cũ, những thứ đó có thể chống lại ý nguyện của mình.

Trên đây là những dẫn chứng tôi đã trình bày. Nguyễn Ái Quốc khi tự phê bình tỏ ra bình tĩnh và luôn luôn chấp nhận những tự chỉ trích đó.

Điểm lại những sự kiện và tư liệu, phải chăng cần khẳng định vị trí đại diện trong Đảng của Nguyễn Ái Quốc. Phải chăng Nguyễn Ái Quốc có thể tham gia Đại hội (Quốc tế Cộng sản) như một đại biểu chính thức?”.

Trong những vụ việc liên quan đến Nguyễn Ái Quốc, những việc nào quan trọng, gây tác động nguy hiểm cần được làm sáng tỏ trước khi Ban thẩm tra thành lập và nhóm họp để kịp thời minh oan cho đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Đó là những vụ việc sau:

1. Vì sao biết Lâm Đức Thụ là kẻ phản bội vẫn còn sử dụng?

2. Vì sao thời gian bị bắt ở Hồng Kông bị tòa án kết tội nhẹ và vì sao thoát tù một cách dễ dàng?

3. Bằng cách nào để đến được Matxcơva?

Do những vấn đề trên, nên đồng chí Vasilievna trong thư trả lời đề nghị của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương trước việc Đảng cử đồng chí Nguyễn Ái Quốc làm đại diện tại Đại hội VII Quốc tế Cộng sản 1935, có viết: “Đối với đồng chí Nguyễn Ái Quốc, chúng tôi cho rằng trong hai năm tới đây, đồng chí ấy cần phải nghiêm túc học tập và không được làm việc gì khác. Sau khi học xong, chúng tôi sẽ có những kế hoạch riêng để sử dụng đồng chí ấy. Vì vậy, những đề nghị của các đồng chí liên quan đến Nguyễn Ái Quốc là không được chấp nhận”.

Thực chất là đồng chí Vasilievna muốn Nguyễn Ái Quốc – đang là nhân vật được lưu ý bởi Vụ cán bộ của Quốc tế Cộng sản – tránh xa sự chú ý không cần thiết của những nhân vật quan liêu chủ nghĩa lúc này đang truy bắt, trấn áp các tổ chức phản cách mạng, các tổ chức dân tộc cực hữu, nhằm củng cố và bảo vệ vị trí của mình trong Đảng, đồng thời tiến hành loại bỏ những người mà chúng không ưa bằng các thủ pháp chính trị đê hèn và bẩn thỉu; cũng như là vấn đề tư cách đại diện của Đảng Cộng sản Đông Dương tại Đại hội VII. Sự im lặng này có giá trị hết sức quý báu.

Đồng chí Vasilievna đã trực tiếp gặp Nguyễn Ái Quốc trao đổi về những buộc tội có trong thư của Ban lãnh đạo Hải ngoại. Đặc biệt việc vì sao biết Lâm Đức Thụ là kẻ phản bội mà vẫn sử dụng. Nguyễn Ái Quốc đã trả lời dứt khoát rằng phát hiện Lâm Đức Thụ phản động rất muộn, mãi sau này mới tỏ. Việc này được Tổng bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, đồng chí Lê Hồng Phong đã khẳng định trong báo cáo giải trình về Nguyễn Ái Quốc gửi Quốc tế Cộng sản.

Về việc thời gian bị bắt ở Hồng Kông, vì sao được tòa án kết tội nhẹ và thoát tù một cách dễ dàng, đồng chí Vasilievna đã có trong tay chứng cứ thuyết phục rằng đã liên lạc, gửi tiền thuê luật sư Loseby lo việc Nguyễn Ái Quốc thông qua Hội cứu trợ những người cộng sản bị nạn của Pháp.

Bằng cách nào để đến được Moskva? Sau khi ra tù, Nguyễn Ái Quốc bắt liên lạc được với người bạn cũ thời kỳ hoạt động ở Đảng Cộng sản Pháp là Paul Vaillant-Couturier lúc này đang ở Trung Quốc và được bố trí trở lại nước Nga. Quốc tế Cộng sản đã cử đồng chí Radumopva gặp trực tiếp Vaillant-Couturier hỏi về vụ việc và được trả lời là do đồng chí bố trí cho Nguyễn Ái Quốc trở lại nước Nga.

Để chuẩn bị tốt nội dung làm việc cho Ban thẩm tra, bà Vasilievna đã viết Bản giải trình dài 6 trang, tổng hợp tất cả những vụ việc liên quan đến quá khứ, hiện tại của Nguyễn Ái Quốc. Đặc biệt, đã đưa ra những ý kiến cực kỳ có lợi cho Nguyễn Ái Quốc, khẳng định rằng Nguyễn Ái Quốc là người Cộng sản chân chính, hy sinh cống hiến hết mình cho Đảng, không phải là kẻ phản bội, chưa bao giờ có sự liên hệ với mật thám. Dẫn đến việc sai lầm về chính trị, chưa có kinh nghiệm hoạt động bí mật, trình độ lý luận còn yếu… là do chưa được đào tạo cơ bản. Gần đây, Nguyễn Ái Quốc tích cực học tập, nghiên cứu, cố gắng vươn lên để nhận thức đúng bản chất những sai lầm trong quá khứ…

Trong Bản giải trình, Vasilievna đề nghị thành phần Ban thẩm tra có từ 3 đến 5 người có uy tín lớn, trong đó, dứt khoát phải có mặt của Lê Hồng Phong với Bản giải trình về Nguyễn Ái Quốc. Đây là một đề nghị cực kỳ quan trọng, như một sự bảo lãnh vận mệnh chính trị trong sạch của Nguyễn Ái Quốc trước Ban thẩm tra của Quốc tế Cộng sản.

Tháng 2 năm 1936, Ban thẩm tra được thành lập, lúc đầu, có 2 ý kiến bút phê của Lãnh đạo Quốc tế Cộng sản:

Ý kiến một, đề nghị Ban thẩm tra có các đồng chí: 1. Manuinxki. 2. Krapxki. 3. Hải An. 4. Vương Minh. 5. Barixta. 6. Raimốp.

Ý kiến hai, đề nghị gồm các đồng chí: 1. Cônxinna. 2. Hải An. 3. Krapxki. 4. Barixta. 5. Xtipannốp.

Đến ngày 19 tháng 2 năm 1936, do có nhiều lý do khác nhau, thành phần Ban thẩm tra chỉ có các đồng chí: Cônxinna, Hải An và Krapxki.

Ban thẩm tra nhóm họp và đi đến những kết luận chính như sau:

1. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã mắc một số sai lầm nghiêm trọng trong hoạt động bí mật. Ban thẩm tra yêu cầu đồng chí từ nay không để xảy ra những trường hợp tương tự. Đề nghị đồng chí rút kinh nghiệm bài học này trong hoạt động bí mật sau này.

2. Ban thẩm tra không tìm ra chứng cứ nghi ngờ nào về sự trung thành chính trị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc.

3. Hồ sơ vụ việc về Nguyễn Ái Quốc được hủy bỏ.

Bản kết luận đã được Krapxki và Hải An ký.

Có thể thấy rất rõ, tầm quan trọng của đồng chí Vasilievna như thế nào trong việc bảo vệ danh dự và uy tín chính trị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Đó xuất phát từ những cán bộ Quốc tế Cộng sản rất công tâm trong việc nhận thức và đánh giá các vấn đề một cách đúng đắn. Đồng thời nó cho thấy mạch logic xem xét vấn đề vụ án Nguyễn Ái Quốc của Quốc tế Cộng sản không phải là một dạng chuyên chính vô sản cực đoan, quan điểm tả khuynh như nhiều người vẫn nghĩ. Ngược lại, từ khi Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản – 1943 khi Quốc tế Cộng sản giải tán, xu hướng dân chủ hóa ngày càng mở rộng, Quốc tế cộng sản năm 1938 gần như không còn là bộ máy chỉ huy cho các Đảng Cộng sản khác như thời kỳ trước, mà đơn thuần trở thành lực lượng tham vấn, tham mưu cho các Đảng Cộng sản. Vì trong tình hình các Đảng Cộng sản lúc này không giống như hồi năm 1918 khi vừa mới ra đời nữa, hiện nay tất cả đã đủ lông đủ cánh rồi, đã đến lúc chính các Đảng Cộng sản phải tự gánh lấy trách nhiệm thực hiện cách mạng xã hội ở chính Tổ quốc mình. Do đấy Quốc tế Cộng sản hướng đến việc giải tán mình.

Đồng chí Vera Vasilievna không chỉ đơn thuần là một cán bộ của Quốc tế Cộng sản, đồng chí còn là một giảng viên, một cán bộ giảng dạy tại Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Đồng chí giảng dạy về các môn Xây dựng Đảng và Vấn đề Đông Dương. Ngoài ra đồng chí còn là phụ trách nhóm Việt Nam tại Trường Đại học cộng sản Phương Đông mang tên đồng chí I.V. Stalin, đồng chí đảm nhiệm vị trí trưởng phòng Đông Dương.

Đồng chí Vera Vasilievna luôn sát cánh cùng các sinh viên Việt Nam, trong những năm 1930, có khoảng 60 sinh viên người Việt theo học tại Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông, Trường Quốc tế Lenin và Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Vasilievna vừa là cấp trên, là người giáo viên, là người đồng chí và là người bạn của các đồng chí Việt Nam.

Năm 1936, khi xem những phim thời sự về chiến tranh ở Tây Ban Nha cho các nhà điện ảnh Xô Viết quay. Được gặp gỡ các đồng chí Tây Ban Nha công tác ở Moskva đến chơi để hỏi tình hình và kinh nghiệm chiến đấu. Nguyễn Ái Quốc đã bày tỏ chia sẻ với các chiến sĩ yêu nước Tây Ban Nha niềm vui, hy vọng cùng với những đau khổ và lo âu. Cuộc chiến đấu anh dũng của họ đã làm đồng chí vô cùng xúc động. Nguyễn Ái Quốc đã có lúc đến gặp Vasilievna để xin gia nhập đội quân tình nguyện của công dân Liên Xô chiến đấu chống bọn độc tài ở Tây Ban Nha.

Thấu hiểu và chia sẽ với tinh thần quốc tế cộng sản sáng như ngọc của Nguyễn Ái Quốc, nhưng vì sự cần thiết của đồng chí Nguyễn Ái Quốc cho cuộc cách mạng ở Đông Dương, bà Vasilievna từ chối một cách vui vẻ:

- Việt Nam cần đồng chí hơn!

Khi các lò lửa chiến tranh xuất hiện ngày một rõ ràng vào năm 1938, nhận thức hoàn toàn tình hình quốc tế và thời cơ của cách mạng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã viết thư cho Quốc tế cộng sản nói về tình thế khó khăn của mình và đề nghị được bố trí công việc. Trong thư, Nguyễn Ái Quốc viết: “Đừng để tôi sống quá lâu trong tình trạng không hoạt động và giống như là sống ở bên cạnh, ở bên ngoài của Đảng”.

Trong hoàn cảnh đó, đồng chí Vasilievna đã ủng hộ nguyện vọng của Nguyễn Ái Quốc và viết thư đề nghị Ban Bí thư Quốc tế cộng sản ủng hộ nguyện vọng của đồng chí, trong ghi rõ: “Đồng chí Lin là Ủy viên Ban chấp hành Trung ương, là Người có uy tín lớn trong Đảng Cộng sản Đông Dương, nay từ đây về thì Đảng sẽ chăm chú lắng nghe những ý kiến của đồng chí ấy”.

Quốc tế Cộng sản đã tổ chức một cuộc họp bí mật, trong đó có sự tham gia của các đồng chí G. Đimitrốp, Tổng Bí Thư Quốc tế Cộng sản và đồng chí Vasin Coolarốp ra chỉ thị về công tác cho Nguyễn Ái Quốc. Sau đó, Quốc tế Cộng sản đã ra quyết định số 60 (mật): “Sinh viên mang số hiệu 19 (Lin) từ ngày 29-9-1938 đã rời khỏi biên chế của Viện (về nước).

Đầu tháng 10- 1938, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đáp xe lửa từ Moskva, đi về Phương Đông để trở về Tổ quốc.

Thời gian trôi đi rất lâu, tưởng chừng sẽ khó có ngày gặp lại. Tại Moskva Tổ quốc cách mạng tháng Mười. Những đồng chí từng là các giáo sư chuyên về lịch sử Đông Nam Á và Đông Dương tại Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa ngày ngày ngóng tin những người học trò, những người đồng chí Việt Nam giờ đang thế nào sau những biến cố lịch sử khi Chiến tranh Thế giới lần thứ 2 xảy ra.

Năm 1950, sau khi giành thắng lợi to lớn của Chiến dịch Biên giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa đến Liên Xô để tranh thủ sự giúp đỡ của các bạn đối với sự nghiệp Cách mạng chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Theo Hồ sơ lưu trữ của Liên Xô, đồng chí Hồ Chí Minh đã gặp gỡ lại người “thượng cấp” của mình, đồng chí Vasilievna – lúc này là một nhà sử học chuyên nghiên cứu về các vấn đề các nước thuộc địa. Tại đây, cả hai đã có những trao đổi thân tình về những năm tháng tại Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa; về tình hình và nhiệm vụ cách mạng của Việt Nam. Bà Vasilievna đã say mê đối với cuộc cách mạng giải phóng của một dân tộc nhỏ bé đang đấu tranh kiên cường chống bọn xâm lược Pháp.

Vasilievna đã tìm thấy nguồn cảm hứng trong các nghiên cứu của mình, những năm sau đó bà có gửi thư cho Chủ tịch Hồ Chí Minh về kế hoạch của mình trong việc nghiên cứu lịch sử Cách mạng Việt Nam và nhận được bức thư trả lời của Hồ Chủ tịch đề ngày 4/8/1958 có nội dung:

“Thân gửi Vasilievna.

Tôi đã nhận được thư và kế hoạch của đồng chí thông qua đồng chí Nguyễn Khánh Toàn. Xin chân thành cảm ơn đồng chí!

Các đồng chí Việt Nam và tôi rất vui mừng chào đón chuyến thăm của đồng chí. Tôi hoàn toàn tin tưởng rằng, đồng chí sẽ đóng góp đáng kể cho ngành Nghiên cứu Việt Nam. Chúng tôi đã sắp xếp để Bộ văn hóa nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – chuyên nghiên cứu về văn học, lịch sử và địa lý – sẽ mời đồng chí đến thăm đất nước chúng tôi.

Về vấn đề cuốn sách nhân dịp kỷ niệm 15 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chúng tôi sẽ học hỏi, nghiên cứu và trả lời đồng chí. Đó là một điều tuyệt vời khi các nhà khoa học Việt Nam sẽ nỗ lực hết sức trong việc hợp tác với các nhà khoa học Liên Xô.

Chúc đồng chí luôn mạnh khỏe/ Hồ Chí Minh”.

Giữa năm 1959, Vasilievna trong chuyến đi công tác ở Bắc Kinh đã có dự định sang thăm Việt Nam và gặp gỡ lại các đồng chí, bạn bè cũ. Nhưng rất tiếc, đồng chí đã đột ngột qua đời. Sự ra đi của đồng chí Vasilievna là sự tổn thất lớn cho tình hữu nghị và đoàn kết giữa Việt Nam – Liên Xô.

Về đời tư của đồng chí Vasilievna, đồng chí là tiến sĩ có chuyên môn về kinh tế, nhưng những năm tháng công tác tại Quốc tế Cộng sản khiến đồng chí có lĩnh vực chuyên môn khá tốt về việc nghiên cứu các nước thuộc địa. Vì sao đồng chí lại trở thành nhà sử học có thể là do ảnh hưởng từ người chồng, vốn là một nhà sử học rất nổi tiếng của Liên Xô – giáo Mark Zorky, giảng viên Đại học Quốc gia Moskva mang tên Lomonosov, trong Chiến tranh vệ Quốc, đồng chí tình nguyện gia nhập Hồng quân và hi sinh vào tháng Mười 1941 trong những ngày bảo vệ thủ đô Moskva trước gót giày của bọn xâm lược Đức.

Những tác phẩm của đồng chí có thể kể đến như: Miến Điện (1942), Bắc Phi thuộc Pháp (1943), Đông Dương (1947), Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước Đông Nam Á (1949), Cuộc khủng hoảng ngày càng sâu sắc của hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc (1954), Sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc (1958), Cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và phong trào giải phóng dân tộc ở Châu Phi (1953), Liên bang Miến Điện (1958), Đông Nam Á: Tiểu luận kinh tế và lịch sử (1958).

V. Vaxilieva, A. Guber, Novikov Mkhitarian là những giáo sư nghiên cứu về Việt Nam và Đông Nam Á tiên phong trong những năm 30 thế kỷ trước, là những người thầy, người bạn, người đồng chí của Nguyễn Ái Quốc và hơn 60 sinh viên đã từng học tập tại các trường Đại học Lao động Công sản Phương Đông mang tên I.V. Stalin và Viện nghiên cứu những vấn đề dân tộc và thuộc địa KUTV. Những người đã có những ảnh hưởng quan trọng trong việc định hình về ngành nghiên cứu Việt Nam học ở Liên Xô.

#Gấu