Hiệp định thương mại tự do Việt Nam và Liên minh kinh tế Á - Âu (FTAVN-EAEU)
MỤC LỤC
Chương I. Quá trình đàm phán Việt Nam gia nhập Liên minh kinh tế Á- Âu (FTA EAEU)
1.1 Tổng quan về Liên minh kinh tế Á – Âu (EAEU)
Liên minh Kinh tế Á – Âu (EAEU)
ra đời tháng 1 năm 2015 là một tổ chức hội nhập kinh tế khu vực thuộc không
gian hậu Xô Viết. Sự gắn kết giữa các thành viên của EAEU nhằm đẩy mạnh hội
nhập sâu trong lĩnh vực kinh tế hoàn toàn phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế
khu vực mạnh mẽ trên thế giới hiện nay. Có thể nói, EAEU là một tổ chức tham
vọng nhưng cũng rất hiện thực, dựa trên những ưu việt về kinh tế và cùng có
lợi. EAEU là bước tiến mới về sự hợp tác kinh tế giữa các nước thành viên, mở
ra nhiều triển vọng to lớn cho tăng trưởng kinh tế, tạo nên những ưu việt mang
tính cạnh tranh mới và những khả năng mới trong thế giới hiện nay.
Liên minh Kinh tế Á Âu gồm
5 quốc gia thành viên (Nga, Belarus, Kazakhstan, Armenia , Kyrgyzstan) được
thành lập trên cơ sở nâng cấp Liên minh Hải quan giữa Nga, Belarus và
Kazakhstan thông qua việc ký kết Hiệp ước thành lập Liên minh Kinh tế Á - Âu hiện
nay, với các mốc thời gian như sau:
-
Ngày 01/01/2010: Thành lập Liên minh Hải quan
giữa Nga, Belarus và Kazakhstan.
-
Ngày 01/7/2011: Thực hiện xóa bỏ biên giới
hải quan giữa các nước thành viên của Liên minh Hải quan.
-
Ngày 01/01/2012: Thành lập Không gian kinh
tế thống nhất.
-
Ngày 29/5/2014: Nga, Belarus và Kazakhstan
đã ký kết Hiệp ước thành lập Liên minh Kinh tế Á - Âu theo khuôn mẫu của Liên
minh Châu Âu (EU) nhằm mở rộng quan hệ kinh tế giữa ba nước.
-
Ngày 01/01/2015: Liên minh Kinh tế Á - Âu
chính thức được thành lập. Sau đó Armenia đã tham gia Liên minh vào tháng 10
năm 2014 và Kyrgyzstan tham gia Liên minh vào tháng 5 năm 2015.
Liên minh Kinh tế Á-Âu được
hình thành với những mục tiêu cụ thể được thực hiện theo lộ trình như sau:
-
Năm 2007: Bắt đầu tiến trình thống nhất
kinh tế khu vực.
-
Ngày 01/01/2015: Hiệp ước thành lập Liên
minh có hiệu lực, bắt đầu thực hiện trao đổi hàng hóa, dòng vốn, dịch vụ và lao
động. Theo đó, có sự tự do lựa chọn đào tạo và nơi làm việc, triển khai điều phối
chung trong các lĩnh vực như năng lượng, công nghiệp, nông nghiệp và giao thông
vận tải.
-
Ngày 01/01/2016: Thị trường chung mở cửa
cho dược phẩm và thiết bị y tế.
-
Năm 2019: Thống nhất thị trường năng lượng
thông thường.
-
Năm 2025: Thống nhất thị trường dầu mỏ và
khí đốt, hoàn thành việc kiến tạo các điều kiện cho thị trường tài chính duy nhất;
thiết lập liên minh tiền tệ và thực hiện đồng tiền chung.
Liên minh Kinh tế Á - Âu
có tổng diện tích 20,2 triệu km2 (chiếm 14% diện tích đất đai của thế giới);
dân số khoảng 182,7 triệu người; tổng sản phẩm quốc nội (GDP) khoảng 2,2 nghìn
tỷ USD; sản lượng công nghiệp đạt 1,3 nghìn tỷ USD; tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
khoảng 580 tỷ USD .
Về tổ chức, Ủy ban Kinh tế
Á - Âu (EEC) là cơ quan thường trực của Liên minh Kinh tế Á - Âu, bắt đầu hoạt
động từ tháng 02 năm 2012. Chức năng của EEC là đảm bảo sự phát triển của Liên
minh Kinh tế Á - Âu và triển khai các đề xuất, kế hoạch hội nhập khu vực. EEC
là cơ quan siêu quốc gia và hoạt động trên cơ sở lợi ích của các nước tham gia
Liên minh chứ không vì lợi ích của bất kỳ chính phủ quốc gia nào. Quyết định của
EEC mang tính bắt buộc với các nước thành viên Liên minh.
EEC ra quyết định trên cơ
sở tham vấn 5 nước thành viên, nhằm giảm thiểu các tác động bất ổn toàn cầu và
nâng cao vị thế của Liên minh trên thị trường quốc tế. EEC gồm 10 thành viên cấp
Bộ trưởng là đại diện của 5 nước trong đó có một người được bổ nhiệm là Chủ tịch
Ủy ban Kinh tế Á - Âu. Nhiệm kỳ Chủ tịch EEC là 4 năm, do Hội đồng Nguyên thủ
các nước thành viên bổ nhiệm và gia hạn (nếu có). Các thành viên của Ủy ban ra
quyết định bằng hình thức bỏ phiếu.
Nguyên tắc chính trong
các hoạt động của EEC là không chính trị hóa, cân bằng lợi ích, hiệu quả và
minh bạch. EEC hoạt động tích cực trong diễn đàn quốc tế với mục tiêu thu hút
các đối tác quan trọng từ Châu Âu và khu vực Châu Á Thái Bình Dương tham gia tiến
trình hội nhập của Liên minh này.
1.2 Quá trình đàm phán để Việt Nam gia nhập Liên minh kinh tế Á – Âu (EAEU)
Việt Nam chính thức bước những bước vững chắc vào
nền kinh tế quốc tế và đang ngày càng khẳng định vị thế của mình trên trường quốc
tế thông qua những hành động cụ thể. Hơn 20 năm qua, Việt Nam đã ký nhiều Hiệp
định thương mại tự do và được bạn bè quốc tế tin cậy lựa chọn như một đối tác
tiềm năng. Kể từ Hiệp định thương mại tự do ASEAN (AFTA, ký kết năm 1996) đến
nay, Việt Nam đã tham gia và hoàn tất đàm phán 12 hiệp định thương mại tự do
(FTA) song phương và đa phương. Trong số đó có 10 FTA đã có hiệu lực, 02 hiệp định
đã kết thúc đàm phán. Đặc biệt, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới gần
đây như TPP, VN-EU FTA… sẽ gần như ngay lập tức mở cửa thị trường cho các doanh
nghiệp nước ngoài tiến vào thị trường Việt Nam, là cơ hội để các doanh nghiệp
Việt tiến sâu hơn vào các thị trường lớn như Mỹ và EU.
Theo tinh thần Nghị quyết số 22-NQ/TWC của Bộ
Chính trị về hội nhập quốc tế ban hành ngày 10/4/2013 và Nghị quyết đại hội Đảng
lần thứ XII xác định hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn. Chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn của Đảng nhằm thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong đó, hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải
tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế,
củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc, thúc đẩy phát triển văn hóa, xã hội… Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng, thuận theo xu thế phát triển toàn cầu, Việt Nam đã mạnh dạn ký kết thêm
nhiều Hiệp định thương mại tự do với các nước nhằm tăng cường vị thế và gây dựng
hình ảnh trên trường quốc tế, đồng thời cũng để tạo sức ép đổi mới, nâng cao
năng lực cạnh tranh, phát triển kinh tế trong nước.
Gần nhất phải kể đến Hiệp định thương mại tự do giữa
Việt Nam và Liên minh kinh tế Á - Âu (VN - EAEU FTA) chính thức có hiệu lực từ
ngày 05/10/2016. Việt Nam trở thành đối tác đầu tiên trên thế giới ký FTA với
Liên minh kinh tế Á - Âu (EAEU). Hiệp định thương mại tự do giữa một bên là
CHXHCN Việt Nam và bên kia là EAEU và các quốc gia thành viên (bao gồm Liên
bang Nga, Cộng hòa Belarus, Cộng hòa Kazakhstan, Cộng hòa Armenia và Cộng hòa
Kyrgyzstan) đã được hai bên khởi động từ tháng 3/2013, qua 2 năm đàm phán với 8
phiên chính thức và nhiều phiên họp giữa kỳ, ngày 29/5/2015 Thủ tướng Chính phủ
các nước đã thay mặt Nhà nước chính thức ký Hiệp định này tại Bura bay,
Kazakhstan.
Hiệp định VN-EAEU là một Hiệp định thương mại tự
do "thế hệ mới" bao gồm các chương chính về Thương mại hàng hóa; Quy
tắc xuất xứ; Phòng vệ thương mại; Thương mại dịch vụ; Đầu tư; Sở hữu trí tuệ;
Các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động, thực vật (SPS); Quy
tắc xuất xứ; Thuận lợi hóa hải quan; Phòng vệ thương mại; Hàng rào kỹ thuật
trong thương mại (TBT); Công nghệ điện tử trong thương mại; Cạnh tranh; Pháp lý
và thể chế. Hiệp định này đi vào có hiệu lực sẽ tạo ra cơ hội thuận lợi cho
hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang thị trường rộng lớn với 182,7 triệu dân và GDP
đạt khoảng 2.200 tỷ USD.
Mặc dù Việt Nam luôn cố gắng chủ
động, tích cực tham gia đàm phán, tuy nhiên qua kinh nghiệm với việc triển khai
và thực hiện các Hiệp định thương mại tự do trước đây Việt Nam đã ký kết thì Việt
Nam còn gặp phải không ít khó khăn, thách thức về một số vấn đề cơ bản như hệ thống pháp luật
và năng lực quản lý Nhà nước trên một số lĩnh vực trực tiếp liên quan đến hội
nhập quốc tế nói chung và tham gia FTA nói riêng hiện còn nhiều bất cập; năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp còn yếu; Nhà nước chưa có chiến lược bài bản rõ
ràng khi tham gia các hiệp định FTA, đặc biệt là mức độ sẵn sàng và sự chuẩn bị
chưa tốt…
Khác với các
Hiệp định thương mại truyền thống, các FTA “thế hệ mới” có phạm vi tác động
rộng hơn, sâu hơn cả những nội dung thương mại và các nội dung “phi thương mại”
như: lĩnh vực môi trường, lao động, doanh nghiệp nhà nước, sở hữu trí tuệ, mua
sắm chính phủ, an toàn thực phẩm… Các FTA này không chỉ tác động đối với tiến
trình tự do hóa thương mại toàn cầu, khu vực và mỗi quốc gia mà còn tác động
đối với hệ thống pháp luật, đến cả thể chế, chính sách của các thành viên. Vì
vậy, kéo theo đó là những ảnh hưởng đến an ninh chính trị và tình hình an ninh
trật tự của đất nước.
Việt Nam muốn tận dụng, phát huy được tất cả những
ưu đãi mà FTA đem đến, phải thực sự làm tốt công tác chuẩn bị cả về cơ sở pháp
lý, công tác tuyên truyền, vận động doanh nghiệp tham gia, một mặt nâng cao chất
lượng sản phẩm, hàng hóa, đáp ứng được yêu cầu của thị trường mới, cam kết đảm
bảo đầy đủ tiêu chuẩn về chất lượng, bảo vệ môi trường, minh bạch thuế quan… đủ
sức cạnh tranh công bằng với tất cả các đối tác, thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa, tạo
sức bật cho nền kinh tế Việt Nam phát triển lành mạnh.Việc Việt Nam ký kết các
FTA nói chung và Hiệp định VN - EAEU nói riêng là một sự kiện quan trọng, là thời
cơ và thách thức đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.
Chương II. Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á – Âu (FTA VN-EAEU)
2.1 Cấu trúc
Hiệp định thương mại tự
do giữa Việt Nam – Liên minh Kinh tế Á – Âu (FTA VN-EAEU) bao gồm:
-
15 Chương.
Các
chương chính gồm:
Nhóm
về hàng hóa: Các Chương thương mại hàng hóa, Quy tắc xuất xứ, Phòng vệ thương mại,
Các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động vật (SPS), Hàng rào kỹ
thuật trong thương mại (TBT), Thuận lợi hóa và hải quan ….
Nhóm
khác: Các Chương Thương mại dịch vụ, Đầu tư, Sỡ hữu trí tuệ, Thương mại điện tử,
Cạnh tranh, Pháp lý và pháp chế.
Riêng
Chương Thương mại Dịch vụ, Đầu tư và di chuyển thể nhân được đàm phán song
phương giữa Việt Nam và Liên bang Nga và cam kết đạt được chỉ áp dụng song
phương giữa hai nước (không áp dụng cho các đối tác trong EAEU).
-
Các phụ lục: về mở cửa thị trường Hàng
hóa, Dịch vụ, Đầu tư, Quy tắc xuất xứ, …
2.2 Nội dung Hiệp định thương mại tự do FTA VN-EAEU
2.2.1 Các cam kết về thuế quan
a) Cam kết của EAEU
Cam kết mở cửa thị trường
hàng hóa (qua loại bỏ thuế quan) của EAEU cho Việt Nam có thể chia thành các
nhóm sau:
- Nhóm loại bỏ thuế quan ngay sau khi
hiệp định có hiệu lực (EIF): gồm 6.718 dòng thuế, chiếm khoảng
59% biểu thuế.
- Nhóm loại bỏ thuế quan theo lộ trình
cắt giảm từng năm và sẽ loại bỏ thuế quan ở năm cuối của lộ trình (muộn nhất là
đến 2025): gồm 2.876 dòng thuế, chiếm khoảng 25% biểu thuế.
- Nhóm giảm ngay sau khi Hiệp định có
hiệu lực 25% so với thuế hiện tại và sau đó giữ nguyên:
bao gồm 131 dòng thuế, chiếm khoảng 1% biểu thuế.
- Nhóm không cam kết (N/U):
bao gồm 1.453 dòng thuế, chiếm 13% biểu thuế (nhóm này được hiểu là EAEU không
bị ràng buộc phải loại bỏ hay giảm thuế quan, nhưng có thể đơn phương loại bỏ/giảm
thuế nếu muốn).
- Nhóm áp dụng biện pháp Phòng vệ ngưỡng
(Trigger): gồm 180 dòng thuế, chiếm khoảng 1,58% biểu thuế:
Đây là biện pháp nửa giống
Hạn ngạch thuế quan (có ngưỡng giới hạn về số lượng), nửa giống Phòng vệ (có thủ
tục tham vấn đánh giá về khả năng gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa nơi
nhập khẩu).
Sản phẩm áp dụng:
Một số sản phẩm trong nhóm Dệt may, Da giầy và Đồ gỗ được quy định trong Phụ lục
về các sản phẩm áp dụng Biện pháp phòng vệ ngưỡng trong Hiệp định.
Quy tắc áp dụng:
Đối với mỗi sản phẩm, mỗi năm sẽ áp dụng một ngưỡng mà nếu khối lượng nhập khẩu
sản phẩm đó vào EAEU vượt quá ngưỡng quy định cho năm đó thì phía EAEU sẽ ngay
lập tức thông báo bằng văn bản cho phía Việt Nam.
Nếu quyết định áp dụng biện
pháp phòng vệ ngưỡng, EAEU phải thông báo cho Việt Nam ít nhất là 20 ngày kể từ
ngày ra quyết định, và biện pháp phòng vệ ngưỡng sẽ chỉ có hiệu lực ít nhất sau
30 ngày kể từ ngày quyết định áp dụng được đưa ra.
Nếu bị áp dụng biện pháp
phòng vệ ngưỡng, các sản phẩm liên quan sẽ không được hưởng thuế suất ưu đãi
theo Hiệp định nữa mà sẽ bị áp thuế MFN trong thời hạn hiệu lực của quyết định
áp dụng biện pháp phòng vệ ngưỡng.
Lưu ý: Một trong hai bên
(Việt Nam hoặc EAEU) có thể yêu cầu bên kia tham vấn và/hoặc cung cấp các thông
tin yêu cầu nhằm làm rõ các điều kiện áp dụng biện pháp phòng vệ này.
Thời gian áp dụng biện
pháp phòng vệ ngưỡng: Thông thường Quyết định áp dụng biện
pháp phòng vệ ngưỡng có hiệu lực (được áp dụng) trong 6 tháng; nhưng nếu khối
lượng nhập khẩu sản phẩm bị áp dụng biện pháp phòng vệ ngưỡng vượt quá 150% mức
ngưỡng theo quy định vào ngày bắt đầu áp dụng biện pháp phòng vệ ngưỡng, thì thời
gian áp dụng biện pháp này có thể được kéo dài thêm 3 tháng.
- Nhóm Hạn ngạch thuế quan: chỉ bao gồm 2 sản phẩm là gạo và lá thuốc
lá chưa chế biến
Dưới đây là các biểu đồ
thuế được đàm phán, bào gồm 11.360 dòng thuế:


Bảng 1: Cam kết mở cửa của
EAEU cho một số sản phẩm chủ lực của Việt Nam.
Sản
phẩm
|
Tỷ
lệ dòng thuế cắt giảm
|
Tỷ
lệ dòng thuế xóa bỏ hoàn toàn
|
Tỷ
lệ dòng thuế xóa bỏ ngay sau khi có hiệu lực
|
Chú
ý
|
Dệt may
|
82%
|
42% - Lộ trình 10 năm
|
36%
|
Có áp dụng cơ chế phòng
vệ ngưỡng
|
Giày dép
|
77%
|
73% - Lộ trình 5 năm
|
|
Có áp dụng cơ chế phòng
vệ ngưỡng
|
Túi xách
|
100%
|
100%
|
Phần lớn
|
|
Thủy sản
|
100%
|
95% - Lộ trình 10 năm
|
71%
|
|
Đồ gỗ
|
76%
|
65% - Lộ trình 10 năm
|
|
Có áp dụng cơ chế phòng
vệ ngưỡng
|
Nhựa
|
100%
|
97%
|
|
|
Bảng 2: Cam kết của EAEU về hạn ngạch
thuế quan đối với sản phẩm gạo của Việt Nam.
Mã
HS
|
Mô
tả
|
Số
lượng hạn ngạch
|
Mức
thuế suất trong hạn ngạch
|
Mức
thuế suất ngoài hạn ngạch
|
1006 30 670 0
|
Gạo đồ hạt dài
(Parboiled rice) với tỷ lệ độ dài/rộng bằng hoặc lớn hơn 3
|
10.000 tấn
|
0
|
Theo quy định hiện hành
|
1006 30 980 0
|
Gạo hạt dài loại khác với
tỷ lệ độ dài/rộng bằng hoặc lớn hơn 3
|
0
|
Theo quy định hiện hành
|
b) Cam kết của Việt Nam.
Cam kết mở cửa thị trường
hàng hóa của Việt Nam cho EAEU chia làm 4 nhóm:
- Nhóm
loại bỏ thuế quan ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực (EIF): chiếm khoảng 53% biểu
thuế.
- Nhóm
loại bỏ thuế quan theo lộ trình cắt giảm từng năm và sẽ loại bỏ thuế quan ở năm
cuối của lộ trình (muộn nhất là đến 2026): chiếm khoảng 35% tổng số dòng thuế,
cụ thể:
·
Nhóm đến năm 2018 loại bỏ thuế quan hoàn
toàn: 1,5% tổng số dòng thuế trong biểu thuế (chế phẩm từ thịt, cá, và rau củ
quả, phụ tùng máy nông nghiệp, máy biến thế, ngọc trai, đá quý…)
·
Nhóm đến năm 2020 loại bỏ thuế quan hoàn
toàn: 22,1% tổng số dòng thuế trong biểu thuế (giấy, thủy sản, đồ nội thất, máy
móc thiết bị điện, rau quả, sản phẩm sắt thép, …)
·
Nhóm đến năm 2022 loại bỏ thuế quan hoàn
toàn: 1% tổng số dòng thuế trong biểu thuế (bộ phận phụ tùng ô tô, một số loại
động cơ ô tô, xe máy, sắt thép, …)
·
Nhóm đến năm 2026 loại bỏ thuế quan hoàn
toàn: 10% tổng số dòng thuế trong biểu thuế (rượu bia, máy móc thiết bị, dụng cụ
phụ tùng, ô tô nguyên chiếc (xe tải, xe buýt, ô tô con, ô tô trên 10 chỗ…).
- Nhóm
không cam kết (U): Chiếm khoảng 11% tổng số dòng thuế trong biểu thuế.
- Nhóm
cam kết khác (Q): các sản phẩm áp dụng Hạn ngạch thuế quan...

Bảng 3 - Cam kết mở cửa của Việt Nam
đối với một số sản phẩm chủ lực của EAEU (Nguồn: Bộ Tài chính).
Chú ý: Đây là tổng hợp
chung theo đa số các sản phẩm trong nhóm, đối với mỗi sản phẩm cụ thể, đề nghị
kiểm tra theo mã HS trong Biểu cam kết thuế của Việt Nam.
STT
|
Sản
phẩm
|
Cam
kết
|
1
|
Xăng dầu
|
- Xoá bỏ thuế nhập khẩu vào năm 2027
|
2
|
Sắt thép
|
-
Xoá bỏ ngay: Nguyên liệu thô, 1 số ống
thép hàn, ống thép không hàn, thép cuộn cán nóng, thép đặc biệt và thép hợp
kim chế tạo cơ khí,...
-
Lộ trình 5 năm: 1 số loại thép
không gỉ, SP sắt thép...
-
Lộ trình 7-10 năm: phôi thép, thép
cán nguội, thép mạ kim loại và phủ màu, thép xây dựng...
|
3
|
Phân bón
|
-
Xóa bỏ ngay: Phân DAP, Urê, một số
loại khác
-
Lộ trình 10 năm: Phân NPK
-
Loại trừ: Phân SA
|
4
|
Rượu bia
|
-
Xóa bỏ thuế nhập khẩu trong vòng 10
năm đối với: Bia, Đồ uống có cồn (Vodka, rượu mạnh khác), Rượu vang
|
5
|
Máy móc thiết bị
|
-
Xoá bỏ ngay: 1 số dụng cụ, thiết bị
quang học, sp công nghiệp kỹ thuật cao, hàng gia dụng, sp điện tử và linh kiện,
…
-
Lộ trình 3 năm: Máy kéo, động cơ điện,…
-
Lộ trình 5 năm: Dụng cụ từ kim loại
cơ bản, ắc quy điện,…
-
Lộ trình 10 năm: Pin, quạt, máy biến
thế,…
|
6
|
Phương tiện vận tải và
phụ tùng
|
-
Lộ trình 10 năm: Xe tải, xe buýt, ô
tô con, ô tô dưới 10 chỗ, ô tô trên 10 chỗ, xe rơ-mooc, một số loại xe chuyên
dụng thuộc danh mục ưu tiên.
-
Lộ trình 5-7 năm: Phụ tùng (bộ phận
và phụ kiện của thân xe, phanh và trợ lực của phanh, cầu chủ động, cụm bánh
xe, túi khí, thùng nhiên liệu,…)
|
7
|
Nông sản
|
-
Xoá bỏ ngay: thịt bò, sản phẩm sữa,
bột mì.
-
Lộ trình 3-5 năm: thịt, cá đóng hộp,
và đã chế biến.
-
Lộ trình 5 năm: thịt gà, thịt lợn.
|
8
|
Thủy sản
|
-
Xóa bỏ ngay: tôm, cua, hàu, mực, …
-
Lộ trình 5 năm: cá tươi hoặc ướp lạnh
(0302),…
-
Lộ trình 10 năm: Cá đông lạnh
(0303),…
|
Bảng 4 – Cam kết của Việt
Nam về hạn ngạch thuế quan đối với một số sản phẩm của EAEU.
Mặt
hàng
|
Trứng
gia cầm
|
Lá
thuốc lá chưa chế biến
|
Lượng hạn ngạch ban đầu
|
8.000 tá
|
500 tấn
|
Tăng trưởng hạn ngạch
|
5%/năm
|
Không tăng
|
Thuế suất trong hạn ngạch
|
Cắt giảm đều về 0%-2018
|
0% - 2020
|
Thuế suất ngoài hạn ngạch
|
Theo quy định hiện hành
|
Theo quy định hiện hành
|
2.2.2 Cam kết về xuất xứ
Quy
tắc xuất xứ: Để được hưởng ưu đãi thuế quan theo Hiệp
định này, hàng hóa phải đáp ứng được các quy tắc xuất xứ của Hiệp định. Cụ thể,
hàng hóa sẽ được coi là có xuất xứ tại một Bên (Việt Nam hoặc EAEU) nếu:
-
Có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất
toàn bộ tại một Bên, hoặc,
-
Được sản xuất toàn bộ tại một hay hai bên,
từ những nguyên vật liệu có xuất xứ từ một hay hai Bên, hoặc
-
Được sản xuất tại một Bên, sử dụng nguyên
vật liệu không có xuất xứ nội khối nhưng đáp ứng được các yêu cầu về Quy tắc xuất
xứ cụ thể từng mặt hàng được quy định trong Hiệp định.
Nói chung, Quy tắc xuất xứ
cụ thể mặt hàng trong FTA Việt Nam – EAEU khá đơn giản, thông thường hàng hóa
chỉ cần có hàm lượng giá trị gia tăng – VAC ≥ 40% (một số có yêu cầu VAC ≥
50-60%) hoặc có sự chuyển đổi mã HS ở cấp độ 2, 4, 6 số là được hưởng ưu đãi
thuế quan.
Chú ý, VAC được tính theo
công thức: (Trị giá FOB – Trị giá nguyên vật liệu không có xuất xứ)/Trị giá FOB
x 100%.
Ngoài ra, Hiệp định có
quy định về Tỷ lệ không đáng kể (De Minimis) cho phép hàng hóa không đáp ứng được
yêu cầu về chuyển đổi mã HS vẫn được hưởng ưu đãi thuế quan nếu có hàm lượng
nguyên liệu không có xuất xứ không vượt quá 10% giá FOB của hàng hóa.
Bảng 5 – Ví dụ về Quy tắc
xuất xứ đối với một số sản phẩm.
STT
|
Sản
phẩm
|
Quy
tắc xuất xứ
|
1
|
Dệt may
|
- Đa
số là chuyển đổi HS 2 số, một số trường hợp là chuyển đổi HS 4 số
- (Một
công đoạn)
|
2
|
Giày dép
|
- Mũ
giày phải có xuất xứ tại các nước thành viên của Hiệp định
- Các
nguyên phụ liệu không bị hạn chế bởi nguồn gốc xuất xứ (có thể nhập khẩu từ
các nước ngoài thành viên)
|
3
|
Đồ gỗ nội, ngoại thất
|
- Được
phép sử dụng nguyên liệu gỗ nhập khẩu từ nước thứ ba nhưng không được nhập khẩu
bán thành phẩm hoặc bộ phận về lắp ráp , có nghĩa là tất cả các vật liệu
không có xuất xứ được sử dụng trong việc sản xuất các hàng hóa cuối cùng đã
trải qua một sự thay đổi trong việc phân loại mã số thuế hàng hóa ở HS 4 số
(thay đổi trong Nhóm)
|
4
|
Một số thủy sản chế biến,
đóng hộp như cá ngừ, tôm
|
- Hàm
lượng giá trị gia tăng ≥ 40%
|
5
|
Chè
|
- Chuyển
đồi HS 2 số
- Một
số sản phẩm cho phép chuyển đổi mã HS 2 số hoặc hàm lượng giá trị gia tăng ≥
40%
|
6
|
Các sản phẩm nông nghiệp
|
- Đa
số có yêu cầu xuất xứ nội khối
|
7
|
Các sản máy móc thiết bị,
điện tử, điện gia dụng
|
Đa số có yêu cầu hàm lượng
giá trị gia tăng cao (≥ 50-60%)
|
Vận
chuyển trực tiếp: Hàng hóa có xuất xứ được hưởng ưu đãi
thuế quan theo Hiệp định này nếu được vận chuyển trực tiếp từ nước xuất khẩu
sang nước nhập khẩu đều là thành viên của Hiệp định, trừ một số trường hợp được
vận chuyển qua lãnh thổ của một hay nhiều nước thứ 3 nhưng phải thỏa mãn các điều
kiện:
-
Quá cảnh qua lãnh thổ của một nước thứ 3
là cần thiết vì lý do địa lý hoặc các yêu cầu về vận tải có liên quan.
-
Hàng hóa không tham gia vào giao dịch
thương mại hoặc tiêu thụ tại đó; và
-
Hàng hóa không trải qua các công khoản nào
khác ngoài việc dỡ hàng, bốc lại hàng, lưu kho hoặc các công khoản cần thiết
khác để bảo quản điều kiện của hàng hóa.
Mua
bán trực tiếp: Hiệp định cho phép hàng hóa được xuất
hóa đơn bởi một bên thứ 3 (pháp nhân có đăng ký tại một nước thứ 3 không phải
thành viên của Hiệp địn), nếu đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về quy tắc xuất xứ thì
vẫn được hưởng ưu đãi thuế quan, trừ trường hợp nước thứ 3 đó thuộc Danh sách
30 quốc đảo được nêu rõ ở trong Hiệp định.
Chứng
nhận xuất xứ: Về thủ tục cấp chứng nhận xuất xứ ưu đãi
(C/O), trong khi một số FTA thế hệ mới như TPP, FTA Việt Nam – EU hướng tới việc
áp dụng cơ chế doanh nghiệp tự chứng nhận xuất xứ, thì FTA Việt Nam – EAEU vẫn
áp dụng quy trình cấp chứng nhận xuất xứ thông qua một cơ quan có thẩm quyền do
nhà nước quy định như trong các FTA ký trước đây mà Việt Nam đang thực hiện.
Mẫu C/O được đính kèm
theo văn bản Hiệp định.
Theo Hiệp định này, Việt
Nam và EAEU đã cam kết sẽ nỗ lực để áp dụng Hệ thống xác minh và chứng nhận xuất
xứ điện tử (EOCVS) trong vòng tối đa 2 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực nhằm
xây dựng cơ sở dữ liệu mạng ghi lại thông tin của tất cả Giấy chứng nhận xuất xứ
được cấp bởi cơ quan được ủy quyền, và cơ quan hải quan nước nhập khẩu có thể
truy cập và kiểm tra tính hiệu lực và nội dung của bất kỳ Giấy chứng nhận xuất
xứ đã được cấp nào.
Tạm
ngừng ưu đãi: Khi có tình trạng gian lận xuất xứ có
tính hệ thống, hoặc Bên xuất khẩu từ chối không chính đáng và có hệ thống việc
xác minh (bằng văn bản hoặc thực tế) của Bên nhập khẩu về tình trạng gian lận,
thì Bên nhập khẩu có thể tạm ngừng ưu đãi thuế quan đối với hàng hóa và nhà xuất
khẩu có liên quan.
Nếu tình trạng gian lận
có hệ thống trên không chấm dứt, nước nhập khẩu có thể tạm ngừng ưu đãi đối với
hàng hóa giống hệt được phân loại theo dòng thuế tương tự ở cấp 8-10 số (giống
nhau về mọi mặt bao gồm tính chất vật lý, chất lượng và danh tiếng).
Tạm ngừng ưu đãi có thể
được áp dụng đến khi Bên xuất khẩu cung cấp các chứng từ thuyết phục, nhưng thời
hạn không quá thời gian 4 tháng và có thể được gia hạn tối đa 3 tháng.
2.2.3 Các cam kết khác.
Các cam kết về Dịch vụ, Đầu
tư và di chuyển thể nhân được đàm phán song phương giữa Việt Nam và Liên Bang
Nga. Hiện tại nội dung cụ thể cam kết (danh mục các lĩnh vực/biện pháp mở cửa vẫn
chưa được công bố).
Các nội dung cam kết khác
của Hiệp định về Sở hữu trí tuệ, Cạnh tranh, Phát triển bền vững... chủ yếu
mang tính hợp tác và không vượt quá những cam kết của Việt Nam trong WTO và tại
các FTA đã ký hoặc đang đàm phán.
2.3 Tác động của Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – Liên minh Kinh tế Á-Âu
2.3.1. Về chính trị
Việc ký kết Hiệp định tiếp tục khẳng định vai trò chủ động, tích
cực của Việt Nam trong quan hệ hợp tác toàn diện với các nước thành viên Liên
minh Kinh tế Á Âu, đặc biệt là trong việc thực hiện quan hệ đối tác chiến lược
toàn diện giữa Việt Nam với Liên bang Nga, nước có vai trò dẫn dắt trong Liên
minh; góp phần tăng cường vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Đối với Liên minh Kinh tế Á Âu, Việt Nam, nước có vị thế quan
trọng trong ASEAN, trở thành nước đầu tiên trên thế giới ký FTA. Việc ký kết
Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á Âu là một trong
những ưu tiên hàng đầu của Liên minh về hội nhập kinh tế với thế giới trong
giai đoạn hiện nay, qua đó Liên minh kỳ vọng sẽ mở rộng được quan hệ thương
mại, đầu tư với khu vực Đông Nam Á trong Chiến lược tăng cường quan hệ với khu
vực châu Á - Thái Bình Dương.
2.3.2. Về kinh tế.
Việc thực hiện cắt giảm thuế quan theo các cam kết FTA nói chung
và theo Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Kinh tế Á Âu nói riêng,
sẽ có tác động giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động sản
xuất, kinh doanh, qua đó làm gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, góp phần tác
động lan tỏa đa chiều trong toàn bộ nền kinh tế, trong đó có việc tăng thu ngân
sách Nhà nước từ các sắc thuế nội địa khác, tạo công ăn việc làm cho người lao
động và tăng tính chủ động của nền kinh tế.
Trong giai đoạn tới, khi thực
hiện Hiệp định, việc phía Liên minh xóa bỏ thuế ngay đối với nhiều nhóm mặt
hàng xuất khẩu chủ lực có kim ngạch lớn của Việt Nam sang Liên minh như dệt
may, giày dép, nông sản, thủy sản, hàng điện tử… sẽ tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp Việt Nam mở rộng thị trường, đồng thời góp phần tăng đáng kể kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này.
Hiện nay, Việt Nam nhập khẩu
không nhiều từ Liên minh, chủ yếu tập trung vào xăng dầu, sắt thép và Việt Nam
đang xuất siêu. Phần lớn các hàng hóa mà Việt Nam và Liên minh trao đổi với
nhau là mang tính hỗ trợ bổ sung, không cạnh tranh nhau. Dự kiến, sau khi Hiệp
định chính thức có hiệu lực, một số mặt hàng của Liên minh sẽ cạnh tranh với
hàng hóa của các đối tác khác trên thị trường Việt Nam, tạo điều kiện cho doanh
nghiệp và người dân Việt Nam có thêm lựa chọn về chủng loại, giá cả.
Ngoài ra, trong quá trình đàm
phán Hiệp định, hai bên cũng đã đạt được các mục tiêu của mình. Về phía Việt
Nam, đó là mục tiêu mở rộng cơ hội thị trường cho hàng Việt Nam xuất khẩu sang
các nước thành viên Liên minh, từ đó có thể thâm nhập sang các nước thuộc Liên
Xô cũ. Tiếp đến là mục tiêu thu hút đầu tư trong những lĩnh vực phía Liên minh
có thế mạnh như khai thác và chế biến khoáng sản, sản xuất năng lượng, chế tạo
máy, hóa chất...
Đồng thời, thông qua Hiệp định,
Việt Nam cũng có cơ hội đẩy mạnh và mở rộng đầu tư sang các nước Liên minh về
công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến, khai thác dầu khí... Ngoài ra còn mở
rộng cơ hội tiếp thu công nghệ tiên tiến trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước; tăng cường các quan hệ hợp tác song phương giữa Việt Nam và
các nước thành viên Liên minh, đặc biệt là củng cố quan hệ Đối tác chiến lược
toàn diện giữa Việt Nam và Liên bang Nga.
Về phía Liên minh, tham gia
Hiệp định là mong muốn mở rộng thị trường xuất nhập khẩu hàng hóa và đầu tư vào
Việt Nam, một nước có quan hệ hợp tác truyền thống, tin cậy từ lâu đời. Liên
minh mong muốn thông qua FTA với Việt Nam để mở rộng thị trường sang các nước
khu vực ASEAN nói riêng và châu Á - Thái Bình Dương nói chung. Tăng cường quan
hệ hợp tác với Việt Nam sẽ là bước đi ban đầu để Liên minh có cơ sở trước khi
xem xét, quyết định việc mở rộng quan hệ thương mại tự do với các nước khác.
Hiệp định Thương mại tự do giữa
Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á Âu là Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới,
hiện đại và toàn diện với sự linh hoạt cần thiết, có mức độ cam kết cao, bảo
đảm cân bằng lợi ích và tính đến điều kiện cụ thể của từng Bên; là bước đột phá
cho quan hệ kinh tế-thương mại giữa Việt Nam với các nước thành viên Liên minh.
Cùng với các FTA khác, Hiệp
định sẽ hỗ trợ việc mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ và đầu tư
của Việt Nam sang Liên minh, tạo tiền đề quan trọng để Việt Nam đẩy mạnh quan
hệ thương mại và đầu tư sang các nước khác thuộc khối Cộng đồng các Quốc gia
độc lập (SNG), mà nhiều nước trong số đó đang tiếp tục bày tỏ mong muốn trở
thành thành viên của Liên minh.
Chương III. Cơ hội và thách thức khi triển khai FTA VN-EAEU
3.1 Cơ hội từ FTA VN-EAEU đối với doanh nghiệp
Việt Nam hiện đang cùng
lúc đàm phán rất nhiều FTA với các đối tác lớn. Mỗi FTA lại đem đến cho doanh
nghiệp những cơ hội khác nhau.
FTA Việt Nam – EAEU được
kỳ vọng sẽ mang lại các lợi ích lớn về thương mại hàng hóa bởi ít nhất 03 lý
do:
- Thứ
nhất, EAEU trong đó đặc biệt là Nga là một thị trường rộng lớn mà hiện vẫn
tương đối đóng với hàng hoá nước ngoài (thông qua hàng rào thuế quan cao). Cụ
thể, dù đã gia nhập WTO nhưng mức thuế nhập khẩu trung bình vào Nga vẫn còn là
cao, đặc biệt là các sản phẩm nông nghiệp. FTA Việt Nam - EAEU có thể khai
thông hàng rào thuế quan cao này.
- Thứ
hai, Việt Nam là đối tác FTA đầu tiên của EAEU đến thời điểm này. Trên thực tế,
khu vực EAEU đã từng đàm phán FTA với một số nước nhưng không đạt được tiến triển
và bị đình trệ hoặc hủy bỏ. Vì vậy, nếu ký được FTA với khu vực này, hàng hóa
Việt Nam sẽ có lợi thế đặc biệt.
- Thứ
ba, cơ cấu sản phẩm giữa Việt Nam và các nước EAEU là tương đối bổ sung cho
nhau chứ không cạnh tranh trực tiếp. Do đó những tác động bất lợi truyền thống
của việc mở cửa thị trường Việt Nam cho đối tác qua FTA sẽ được giảm bớt nhiều.
- Cuối
cùng, hiện tại mạng lưới người Việt sống, học tập và làm việc tại Nga tương đối
đông đảo, các doanh nghiệp có thể tận dụng các kinh nghiệm và mối quan hệ từ mạng
lưới này để tiếp cận thị trường này.
Trong quan hệ thương mại với EAEU, những mặt
hàng có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao của Việt Nam là thủy sản, gạo, các mặt
hàng thực phẩm, may mặc, đồ da, đồ gỗ. Theo báo cáo của Vụ Thị trường châu Âu
(Bộ Công Thương), mặt hàng thủy sản và thủy sản chế biến được EAEU mở cửa có lộ
trình tối đa trong 10 năm với 95% tổng số dòng thuế, trong đó hơn 71% dòng thuế
được xóa bỏ hoàn toàn ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực (tương đương 100% tổng
kim ngạch xuất khẩu trung bình trong 3 năm (2010 - 2012) của Việt Nam vào
EAEU), 5% số dòng thuế còn lại là các mặt hàng Việt Nam không có thế mạnh xuất
khẩu. Do đó, có thể thấy trước khi có VN - EAEU FTA, mức thuế trung bình của
hàng thủy sản và thủy sản chế biến vào khoảng 35% nay về bằng 0% là một lợi thế
có thể giúp hàng thủy sản Việt Nam có sức cạnh tranh lớn với các nước
khác.
Mặt hàng gạo được nhận định là “nhạy
cảm” vì giới hạn sang thị trường EAEU là 10.000 tấn/năm, nhưng EAEU và Việt Nam
đã cam kết sau 3 năm sẽ xem xét lại con số này. Đối với hàng dệt may, theo dự
báo của Hiệp hội Dệt may Việt Nam, ngay sau khi VN - EAEU FTA có hiệu lực, kim
ngạch hàng dệt may giữa hai bên sẽ tăng trưởng 50% ngay trong năm đầu tiên và
tăng trung bình 20%/năm trong 5 năm tiếp theo. Giá trị kim ngạch hàng dệt may
sẽ tăng từ 700 triệu USD hiện nay lên 1 tỷ USD trong 1 - 2 năm tới, đưa Việt
Nam từ vị trí nhà cung cấp hàng dệt may thứ 8 tiến lên vị trí thứ 4 tại thị
trường này. Còn đối với mặt hàng da giày, có 77% tổng số dòng thuế được cam kết
cắt, giảm, trong đó 73% được xóa bỏ hoàn toàn theo lộ trình tối đa 5 năm, tương
đương hơn 99% tổng kim ngạch xuất khẩu trung bình trong 3 năm (2010 - 2012) của
Việt Nam vào thị trường này. Theo khảo sát của Tổng cục Thống kê, 55,7% số doanh
nghiệp ngành da giầy có đơn hàng xuất khẩu tăng trong năm 2015 do tác động của
VN – EAEU FTA.
Hàng xuất khẩu của EAEU sang Việt Nam
gồm có dầu mỏ và khí đốt, thịt (bò, ngựa, cừu, dê), các sản phẩm sữa, ô-tô và
phụ tùng (từ Nga); hàng may mặc, ô-tô và phụ tùng, thiết bị vận tải (từ
Bê-la-rút); hàng may mặc, đồ da, các sản phẩm dầu mỏ, than đá (từ Ca-dắc-xtan).
Tuy nhiên, ngay cả những mặt hàng của EAEU mà Việt Nam đưa về mức thuế bằng 0%
và đang nhập nhiều, như thịt bò và sữa, cũng là những mặt hàng mà theo đánh giá
của EAEU trong vòng 5 năm tới Liên minh này chưa có khả năng gia tăng xuất
khẩu. Vì thế, mức độ cạnh tranh của Việt Nam với các nước EAEU trong lĩnh vực
nông nghiệp là không đáng kể.
Việc cắt giảm/xóa bỏ thuế quan sẽ thúc
đẩy các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng chủng loại hàng hóa xuất khẩu, tận dụng
các lợi thế so sánh của Việt Nam, như hàng may mặc, thủy sản, điện tử, đồ gỗ và
các hàng hóa khác. Cũng nhờ tính bổ sung cho nhau trong cơ cấu hàng xuất, nhập
khẩu mà việc nhập khẩu các mặt hàng từ EAEU sẽ giúp cải thiện cơ cấu các mặt
hàng nhập khẩu của Việt Nam, trong khi không làm ảnh hưởng nhiều đến khả năng
cạnh tranh ngành của Việt Nam. Thông qua VN - EAEU FTA, việc hợp tác sẽ hiệu
quả hơn khi hai bên tận dụng các lợi thế không chỉ trong lĩnh vực thương mại
hàng hóa mà cả trong các lĩnh vực dịch vụ và đầu tư.
Theo đánh giá, sau khi Hiệp định có
hiệu lực, kim ngạch xuất nhập khẩu hai bên sẽ đạt khoảng 10 - 12 tỷ USD vào năm
2020, gần gấp 3 lần so với năm 2014 (đạt khoảng 4 tỷ USD). Theo ước tính của
Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Liên minh này sẽ tăng khoảng
18% - 20% hằng năm.
3.2
Thách thức từ FTA VN-EAEU đối với doanh nghiệp.
Theo cam kết tại Hiệp định
này, Việt Nam sẽ phải mở cửa thị trường trong nước cho khoảng 90% các sản phẩm
đến từ các nước EAEU, đặc biệt là các sản phẩm mà khu vực này có thế mạnh xuất
khẩu như chăn nuôi, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải. Vì vậy, về lý thuyết,
việc mở cửa sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh đáng kể cho các ngành sản xuất trong nước:
Thứ nhất, Việt Nam sẽ phải mở cửa thị trường cho các nước
EAEU theo VN - EAEU FTA và chắc chắn là các sản phẩm thế mạnh của Liên minh,
như phụ tùng - thiết bị - máy móc, kim loại, phân bón, dầu thô, khí hóa
lỏng,... sẽ vào thị trường Việt Nam với giá cả cạnh tranh hơn.
Thứ hai, EAEU là thị trường khu vực hiện tại vẫn tương đối “đóng” với
hàng hóa nước ngoài. Đây là khó khăn chính của doanh nghiệp Việt Nam khi xuất
khẩu sang thị trường này. Khái niệm “đóng” ở đây bao gồm cả hai nghĩa: 1-
“Đóng” do thuế quan với hàng hóa nhập khẩu còn tương đối cao; 2- “Đóng” do rất
nhiều những rào cản phi thuế khác, như yêu cầu về chất lượng sản phẩm tương đối
cao; quy trình, thủ tục nhập khẩu tương đối phức tạp và còn thiếu rõ ràng,
không nhất quán ngay giữa các nước EAEU.
Thứ ba, các khó khăn khác, như phương tiện thanh toán (nhất là trong bối
cảnh Nga bị cấm vận như hiện nay khiến Việt Nam phải tìm cách thanh toán bằng
nội tệ)(2), ngôn ngữ tiếng Nga không thông dụng, thiếu thông tin về đối tác bạn
hàng, khoảng cách địa lý);...
Ngoài ra còn
có những khó khăn và thách thức nhất định đối với việc xuất khẩu một số mặt
hàng cụ thể như thủy sản vào Liên minh. Ngành thủy sản Việt Nam luôn xác định
đây là thị trường đầy tiềm năng, Nga và các nước trong EAEU có sức tiêu thụ đặc
biệt. Tuy nhiên, các quy định tiếp cận hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT)
và hiệp định về áp dụng các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch (SPS) của Nga và khối
Á - Âu rất chặt chẽ. Trong khi đó, sự hiểu biết của doanh nghiệp vừa và nhỏ của
Việt Nam về quy định của Nga về an toàn thực phẩm, kiểm dịch động thực vật chưa
tốt. Thêm vào đó, mặc dù nhiều doanh nghiệp Việt Nam tuy đã quen với việc xuất
khẩu sang nhiều thị trường lớn khác, như Nhật Bản, Mỹ, châu Âu nhưng thị trường
Á - Âu lại có hệ thống kiểm soát chất lượng khác do có sự kế thừa từ Liên Xô
trước đây.
Hoặc với
ngành hàng thép, khi thép giá rẻ của Nga được nhập vào Việt Nam, ngành thép sẽ
đối mặt với nhiều khó khăn. Hiện tổng lượng sản xuất thép của Nga đứng thứ năm
trên toàn cầu (đạt khoảng 70 triệu tấn/năm). Thép của Nga được đánh giá là có
chi phí sản xuất thuộc loại thấp nhất thế giới. Tuy nhiên, các dòng thuế nhạy cảm
với chúng ta chủ yếu liên quan đến thép xây dựng mà mặt hàng này Việt Nam có thể
cạnh tranh được, bởi Nga sản xuất thép ở miền Trung Nga, khi vận chuyển sang Việt
Nam, chi phí vận chuyển rất lớn. Hơn nữa, chúng ta đàm phán được lộ trình thích
hợp với sản phẩm thép xây dựng, còn các dòng thép khác Việt Nam vẫn đang phải
nhập khẩu của các nước, nếu nhập được từ Nga sẽ đẩy lùi được thép kém chất lượng.
Mặc dù còn nhiều khó khăn
như vậy, nguy cơ này được cho là không quá đáng lo ngại bởi:
- Thứ
nhất, rất nhiều các sản phẩm trong số này Việt Nam không sản xuất được, phải nhập
khẩu.
- Thứ
hai, với các sản phẩm cạnh tranh trực tiếp, thì thực tế ta cũng đã mở cửa theo
các FTA đã có, hoặc dự kiến cũng sẽ mở cửa trong các FTA sắp tới rồi, nên tác động
đến các doanh nghiệp trong nước của Hiệp định này, nếu có, thì cũng không phải
là cú sốc quá lớn.
- Thứ
ba, thách thức sẽ là động lực để nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh
nghiệp Việt Nam kinh doanh chưa hiệu quả.
So với nhiều thị trường
khác, thị trường EAEU còn có một số đặc điểm riêng có thể tạo ra những rủi ro
nhất định cho thương mại hàng hóa, đặc biệt là sự tồn tại của nhiều loại “rào cản
trá hình” như:
- Yêu
cầu về TBT, SPS không ổn định, thiếu minh bạch, do đó rất khó dự kiến trước;
- Quy
trình, thủ tục nhập khẩu tương đối phức tạp và không rõ ràng, không nhất quán
ngay trong bản thân nội khối 5 nước EAEU;
- Các
rào cản khác: Giao dịch với đối tác EAEU sử dụng chủ yếu là ngôn ngữ tiếng Nga
(chứ không sử dụng tiếng Anh thông dụng); Thiếu thông tin về đối tác bạn hàng
không sẵn có; Cơ chế thanh toán không thuận tiện…
FTA Việt Nam – EAEU chưa xử lý được các loại rào cản này. Trong khi
đó, nếu không vượt qua được những rào cản này, các lợi ích mà việc loại bỏ thuế
quan, mở cửa thị trường mà Hiệp định mang lại sẽ bị vô hiệu hóa. Vì vậy, các
doanh nghiệp cần đặc biệt chú ý xử lý các rào cản này để tiếp cận thị trường
EAEU, tận dụng lợi ích thuế quan to lớn mà Hiệp định này mang lại.
KẾT
LUẬN
Hiệp định thương
mại tự do Việt Nam — Liên minh Kinh tế Á-Âu (VN-EAEU FTA) chính thức có hiệu
lực từ ngày 05 tháng 10 năm 2016 (Liên minh Kinh tế Á-Âu (EAEU) bao gồm Liên
bang Nga, Belarus, Kazakhtan, Armenia và Kyrgyzstan). Theo cam kết tại VN-EAEU
FTA, về tổng thể hai Bên sẽ dành cho nhau mức mở cửa thị trường hàng hóa chiếm
khoảng 90% số dòng thuế, tương đương với trên 90% kim ngạch thương mại song
phương.
Theo số liệu
của Hải quan Việt Nam, năm 2016, thương mại hai chiều giữa Việt Nam và EAEU đạt
3,04 tỷ USD, tăng 23% so với năm 2015. Năm 2017, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa
Việt Nam và EAEU đạt 3,9 tỷ USD, tăng 28,3% so với năm 2016.
Về tỷ tận dụng
các ưu đãi nêu trên của Hiệp định, từ khi VN-EAEU FTA có hiệu lực cho đến hết
tháng 6 năm 2018, Việt Nam đã xuất khẩu sang thị trường EAEU trên 869 triệu USD
hàng hóa sử dụng Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) ưu đãi mẫu EAV theo Hiệp
định VN-EAEU FTA (khoảng 22%). Tính riêng 6 tháng đầu năm 2018, Việt Nam xuất
khẩu sang thị trường EAEU trên 281 triệu USD hàng hóa sử dụng C/O mẫu EAV, chiếm
khoảng 23% tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này. Một số mặt hàng xuất
khẩu có tỷ lệ sử dụng C/O mẫu EAV ở mức cao gồm hàng dệt may gần 78%, giày dép
59%, nhựa và các sản phẩm nhựa 87%.
Ngoài ra,
nhằm tăng cường hợp tác kinh tế song phương trong khuôn khổ Hiệp định VN-EAEU
FTA, tính tới nay hai Bên cũng đã đàm phán và ký kết các Nghị định thư, cụ thể:
Nghị định thư giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Liên bang Nga về hỗ trợ sản
xuất phương tiện vận tải có động cơ trên lãnh thổ Việt Nam ký ngày 21 tháng 3
năm 2016 (Nghị định thư ô tô với Liên bang Nga); Nghị định thư giữa Chính phủ
Việt Nam và Chính phủ Cộng hòa Belarus về hỗ trợ sản xuất phương tiện vận tải
có động cơ trên lãnh thổ Việt Nam ký ngày 23 tháng 3 năm 2016 (Nghị định thư ô
tô với Belarus); Nghị định thư về trao đổi thông tin Hải quan ký ngày 28 tháng
6 năm 2018.
Việc triển khai các Nghị định ô tô với Liên
bang Nga và Belarus nói chung và việc thành lập các liên doanh nói riêng sẽ góp
phần đa dạng thị trường phương tiện vận tải tại thị trường Việt Nam, hỗ trợ
tăng cường sự hiện diện của hàng công nghiệp của Nga và Belarus tại Việt Nam.
Đối với Nghị định thư trao đổi thông tin điện tử hải quan, nhờ cơ chế trao đổi,
truyền thông tin thường xuyên và ngay sau khi thông quan hàng hóa, Nghị định
thư sẽ góp phần tích cực vào công tác đấu tranh phòng chống các vi phạm hải
quan, đẩy nhanh quá trình thông quan hàng hóa, tạo thuận lợi cho thương mại và
thúc đẩy hàng hóa xuất khẩu của mỗi nước.
Cùng với ba Nghị định thư nói trên, hai Bên
đang đàm phán Nghị định thư về xây dựng Hệ thống chứng nhận và xác minh xuất xứ
điện tử dự kiến sẽ sớm kết thúc đàm phán nhằm hỗ trợ việc xác minh tính xác
thực của Chứng nhận xuất xứ để hưởng ưu đãi theo Hiệp định thương mại tự do
này.
Như vậy có thể nói,
qua 2 năm đầu thực hiện, VN-EAEU FTA đã trở thành một khung khổ pháp lý hữu
hiệu cho thúc đẩy hợp tác song phương giữa Việt Nam và khối EAEU, đặc biệt là
trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hóa.
Tuy nhiên, có một điều
mà chúng ta vẫn chưa thể thõa mãn được với FTA VN-EAEU này là hiện nay chỉ có
Liên bang Nga là nước chủ yếu quan hệ thương mại với Việt Nam trong FTA VN-EAEU
khi Liên bang Nga chiếm hơn 90% trong tổng kim ngạch thương mại giữa Việt Nam
và EAEU. Có thể thấy, Nga là bạn hàng quan trọng nhất trong FTA VN-EAEU này, và
quan hệ thương mại Việt Nam – Liên Bang Nga được đặt lên hàng đầu, song chúng
ta cần thiết phải mở rộng thị trường hơn nữa đến các nước thành viên.
Theo số liệu Hải quan
Việt Nam năm 2017, kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và Liên bang Nga đạt 3,56
tỷ USD (tăng 29% so với năm 2016), trong đó chiều xuất khẩu của Việt Nam sang
Liên bang Nga đạt 2,17 tỷ USD (tăng 34%), nhập khẩu đạt 1,39 tỷ USD (tăng 23%).
Trong 8 tháng đầu năm 2018 kim ngạch xuất nhập khẩu song phương đạt 3,11 tỷ USD
(tăng 36 % so với cùng kỳ năm 2017), trong đó xuất khẩu từ Việt Nam sang
Liên bang Nga đạt 1,68 tỷ USD (tăng 17,81%), nhập khẩu đạt 1,43 tỷ USD (tăng
66,28%).
Các mặt hàng điện tử, dệt may, thủy sản, cà
phê… của Việt Nam ngày càng được người tiêu dùng Nga quan tâm sử dụng. Đồng
thời, người tiêu dùng Việt Nam đã trở nên ngày càng ưa chuộc các máy móc thiết
bị, công nghệ, hàng tiêu dùng được nhập khẩu từ Liên bang Nga.
Có thể nói,
kể từ khi Hiệp định thương mại giữa Việt Nam và Liên minh có hiệu lực từ năm
2016, tốc độ tăng trưởng kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và các nước thành
viên có sự tăng trưởng mạnh mẽ, với mức tăng trung bình 30%/năm.
Điều này cho thấy, Hiệp định là khung khổ pháp lý quan trọng, tạo
hành lang thông thoáng cho cho doanh nghiệp của hai nước thúc đẩy thương mại và
đầu tư.
Có thể thấy,
mặc dù còn nhiều khó khăn và thách thức. Song, triển vọng về tương lai tươi
sáng của FTA VN-EAEU là có. Và chúng ta, cố gắng hết mình để làm cho sự phát
triển thương mại giữa Việt Nam và Liên minh kinh tế Á – Âu ngày một tiếng bước
và trong tương lai cố gắng hội nhập sâu rộng hơn vào thị trường này, vốn là khu
vực giao lưu kinh tế truyền thống của chúng ta. Kế tục sự hợp tác hữu nghị bền
vững giữa Việt Nam – Liên Xô trước đây./
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn bản FTA Việt Nam –
Liên minh Kinh tế Á - Âu.
2. Nguyễn Khánh Ngọc,
2015: “Tổng quan về FTA Việt Nam – EAEU”, tài liệu hội thảo phổ biến về FTA Việt
Nam – EAEU của Trung tâm WTO – VCCI.
3. Đào Thu Hương, 2015:
Cam kết thuế quan của Việt Nam trong FTA Việt Nam – EAEU, tài liệu hội thảo phổ
biến về FTA Việt Nam – EAEU của Trung tâm WTO – VCCI.
4. Bùi Hồng Minh, 2015:
Cam kết mở cửa thị trường hàng hóa của EAEU trong FTA Việt Nam – EAEU, tài liệu
hội thảo phổ biến về FTA Việt Nam – EAEU của Trung tâm WTO – VCCI.
5. Toàn bộ thông tin về
FTA Việt Nam – Liên minh Kinh tế Á Âu trên trang web Trung tâm WTO: http://trungtamwto.vn/fta/da-ky-ket/viet-nam-lien-minh-kinh-te-a-au
6. Văn bản FTA Việt Nam –
Liên minh Kinh tế Á Âu bằng Tiếng Việt:
