AI ĐÃ PHẢN BỘI STALIN



 

·   LẦN THỨ NHẤT

Năm 1943, Stalin đã nói với các đồng chí của mình: “Tôi biết rằng sau khi tôi qua đời, sẽ có những kẻ mang nhiều rác rưởi tới phủ lên mộ của tôi. Nhưng rồi ngọn gió của lịch sử sẽ thổi bạt tất cả những thứ rác rưởi đó”.

Đoạn hồi ký về những ngày cuối cùng của Stalin của do trợ lý chỉ huy đội bảo vệ biệt thự của Stalin ở Kuntsevo – Petre Lodgachép - ghi lại:

<<Từ ngày 28 tháng 2 đến ngày 1 tháng 3, tại biệt thự có Khrustalyov, Lozgachev, Tukov và Butusova tham gia trực ban.

Stalin về đến biệt tự Kuntsevo lúc 24 giờ, ngay sau đó Beria, Malenkov, Khrushchev và Bulganin cũng đến biệt thự. Chúng tôi đặt lên bàn một loại nước quả pha rượu vang. Lúc 5 giờ sáng, khách khứa ra về, đại tá Khrustalyov khép cửa, và nói dường như Stalin có dặn: “Tất cả đi ngủ đi, tôi không cần gì đầu, không cần các anh nữa”, chúng tôi đã đi ngủ và thức dậy lúc 10 giờ sáng hôm sau.

Khrustalyov đã làm gì từ lúc 5 giờ đến 10 giờ sáng, chúng tôi không hề biết.

Lúc 10 giờ sáng, M. Starostin đã thay ca trực, thường thì Stalin dậy lúc 10-11 giờ, tôi xem đồng hồ đã 12 giờ mà không có động tĩnh gì trong phòng.

Các sĩ quan bảo vệ bắt đầu lo lắng và đoán già, đoán non: Tại sao Stalin vẫn chưa dậy, không hề gọi ai cả.

Lúc 16 giờ, Starostin nói: “Chúng ta phải làm gì bây giờ?”. Đến 18 giờ tôi bảo Starostin: “Anh là sĩ quan bảo vệ, anh vào thử xem”. Starostin trả lời: “Tôi sợ lắm. Anh mang tài liệu vào đi”.
Lúc 18 giờ 30, trong phòng Stalin bật điện sáng, mọi người thở phào nhẹ nhõm, nhưng không thấy Stalin gọi ai cả. Lúc 22 giờ 30 phút, nhân có chuyến xe chở thư và công văn đến biệt thự, tôi đã mạnh dạn bước vào phòng, tôi ngó vào cả phòng lớn, nhà tắm nhưng không thấy Stalin đâu cả, khi bước qua phòng lớn ra hành lang tôi để ý thấy một cánh cửa phòng ăn nhỏ đang bị mở, trong đó le lói anh đèn điện, tôi ngó vào phòng đó và vô cùng kinh ngạc khi chứng kiến bức tranh thảm kịch, Stalin nằm trên thảm, cạnh một cái bàn, tôi lo sợ, phỏng đoán liệu có phải một vụ ám sát, đầu độc hay do cơn đột quỵ ?

Tôi vội bước lại và nói: “Điều gì xảy ra vậy, thưa đồng chí Stalin?”, chỉ nghe thấy tiếng rên nhỏ. Trên sàn nhà là chiến đồng hồ bỏ túi của nhà máy đồng hồ số 1, tờ báo Sự thật. Trên bàn có một chai nước khóng và một chiếc cốc. Tôi lập tức gọi điện cho Starostin, Tukov và Butusova. Họ lập tức chạy lại và hỏi : “Đồng chí Stalin, chúng tôi đặt đồng chí lên đi văng nhé?”.

Ông gật đầu nhẹ - cả bốn chúng tôi khiêng Stalin ra đi văng ở phòng lớn, rõ ràng là ông đã bị ngấm lạnh trong chiếc áo sơ mi lính mỏng, có lẽ ông đã nằm đó với tình trạng nửa tỉnh nửa mê từ 19 giờ và chìm dần vào trạng thái mê man.


Chúng tôi lập tức gọi điện cho Bộ trưởng an ninh quốc gia S. Ignatiev, nhưng ông ta hướng dẫn chúng tôi phải gọi cho Beria. Chúng tôi gọi cho Malenkov, ông ta lí nhí gì đó không rõ rồi bỏ máy. Sau đó MỘT TIẾNG, Malenkov gọi điện lại cho Starostin và nói: “Tôi không tìm thấy Beria, các anh hãy tìm ông ta đi”. Sau đó MỘT TIẾNG, chính Beria gọi lại: “Không được nói gì và không được gọi điện cho ai về bệnh tình của Stalin” – rồi lập tức dập máy.

Tôi còn lại một mình bên người bệnh. Cảm giác bất lực vì không có ai giúp đỡ như chặn ngang họng làm tôi rớt nước mắt. Các bác sĩ mãi KHÔNG THẤY ĐẾN. Lúc ba giờ sáng mới có tiếng ô tô đến biệt thự. Trên xe bước xuống chỉ có Beria và Malenkov mà CHẢ có một BÁC SĨ nào.
Beria cúi đầu bước vào phòng, nơi Stalin đang được đặt nằm cạnh lò sưởi. Malenkov đi một đôi ủng mới, ông cởi bỏ ủng ở hành lang và bước vào phòng. Rời khỏi giường Stalin, Beria quát mắng <: “Này Lozgachev, cái gì mà làm náo loạn lên thế, có thấy đồng chí Stalin đang ngủ không? Đừng đánh thức chúng tôi và làm kinh động Stalin” >.

Mặc dù tôi đã báo cáo là đồng chí Stalin bệnh nặng nhưng họ vẫn rời phòng, bỏ đi. Lập tức tôi hiểu rằng cả Beria và Malenkov đều mong muốn cái chết của Stalin đến sớm. Tôi ở lại bên Stalin một mình, từng phút trôi qua thật chậm chạp như hàng giờ đồng hồ. Đến tận 6,7 giờ sáng hôm sau vẫn chưa thấy XE CẤP CỨU đâu cả. Điều này quả thật đáng sợ và khó hiểu: Điều gì đã xảy ra với các cộng sự của đồng chí Stalin?

Lúc 7 giờ 30 phút, Khrushchev đến và nói: “Các bác sĩ sắp đến”.

Lúc 9 giờ sáng ngày 2 tháng 3, các bác sĩ mới đến, trong số đó có Lukomsky, Myasnikov, Tareev, … Họ bắt đầu khám cho Stalin, tay họ run rẩy. Sau khi khám, họ nói rằng Stalin bị xuất huyết não, lúc đó mới bắt đầu cứu chữa, lắp đặt vòi để thở dưỡng khí”.>>

   Sự phản bội đầu tiêu đó chính là việc tước đi sự trợ giúp y tế vào thời điểm quan trọng nhất để cứu lấy Stalin, ông đã nằm nửa ngày trời với tình trạng bệnh tình nặng nề nhưng không được khẩn trương cứu chữa.

Người chịu trách nhiệm lớn nhất đó là Bộ trưởng An ninh Nhà nước Ignative, người đảm nhiệm trách nhiệm bảo vệ sức khỏe của các lãnh đạo. Đồng thời cả nhóm lãnh đạo trực tiếp đang ở đó bao gồm: Beria, Malenkov, Khrushchev, Bulganin.

Tuy nhiên, sự phản bội này là cả một quá trình. Trước đó, người ta đã dần tước đi hết những khả năng để bảo vệ Stalin.

Những người chịu trách nhiệm về an ninh cho Stalin lần lượt bị giết hại, bị tống giam vào tù dựa trên những cái cớ ngụy tạo. Trong đó đặt biệt phải kể đến là tướng Kosynkin – tư lệnh cảnh vệ Kremli, tướng Vlasick – trực tiếp bảo vệ Stalin và Poskrebyshev – người đã hơn 20 năm làm thư ký cho Stalin. Việc loại bỏ được tiến hành qua việc Beria đã lợi dụng khôn khéo Bộ trưởng Tài Chính Arseniy Zverev, khi ông này cáo buộc rằng có sự chi tiêu lãng phí trong công tác bảo vệ. Stalin rất khó chịu khi biết việc này, mà đặc biệt là ngay vào những người bảo vệ xung quanh mình nên quyết định thành lập ủy ban kiểm tra xem có vấn đề này không, tuy nhiên ủy ban này lại bao gồm có Beria, Malenkov, Zverev và một số người nữa, và tất nhiên báo cáo đã buộc tội Vlasick và Poskrebyshev, cả hai đều bị bắt. Hai nhân vật thân cận nhất của Stalin đã được thay thế bằng người của Beria.

Vì thế, ngay cả khi Stalin đang hấp hối, gần nửa ngày mà không một ai mảy may nghĩ đến việc phải cứu chữa lấy cho ông.



  •       LẦN THỨ HAI.
Cho đến nay, chúng ta hoàn toàn có thể nhận thức được đầy đủ rằng, kẻ xét lại Stalin đầu tiên chính là Beria chứ không phải Nikita Khrushchev. Cả Lavrentiy hay Nikita đều có động cơ để làm thế, tuy nhiên mức độ của họ khác nhau và tùy thuộc vào hoàn cảnh khác nhau, đồng thời không chỉ mỗi hai người họ. Để có thể thấy một bức tranh đầy đủ hơn, chúng ta sẽ đi từ từ qua các sự kiện.

Quyết định quan trọng cuối cùng của Stalin đó là thành lập Đoàn chủ tịch Ủy ban TW Đảng Cộng sản Liên Xô tại Đại hội 19 năm 1952 để thay thế Bộ Chính trị. Bổ sung vào dàn lãnh đạo Bộ Chính trị cũ như Beria, Bulganin, Voroshilov, Kaganovich, Malenkov, Mykoyan, Molotov, Khrushchev là một dàn những gương mặt trẻ.

Đó là: V.M. Andrianov (Bí thư thứ nhất Leningrad -50t), A.B. Aristov (Bí thư Ủy ban TW, Bí thư thứ nhất Ủy bam Khu vực Chlyabinsk – 49t), S.D. Ignatiev (Bộ trưởng Bộ An ninh Nhà nước-48t), D.S. Korotchenko (Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Ukraina-58t), V.V. Kuznetsov (Chủ tịch Hội đồng Công Đoàn Trung ương Liên bang-51t), O.V. Kuusinen (Chủ tịch đoàn chủ tịch Xô viết tối cao Cộng hòa Karelian-Phần Lan-61t), V.A. Malyshev (Bộ trưởng Bộ công nghiệp đóng tàu – 50t), L.G. Melnikov (Bí thư thứ nhất Ukraina-46t), N.A. Mikhailov (Bí thư Ủy Ban TW, Trưởng phòng tuyên truyền và cổ động – 46t), M.G. Pervukhin (Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng - 48t), P.K. Ponomarenko (Bí thư Ủy ban TW- 50t), M.Z. Saburov (Phó chủ tịch HDBT – 52t), M.A. Suslov (Bí thư Ủy ban TW – 50t), D.I Chesnokov (Trưởng văn phòng UBTW – 42t), N.M Shvernik (Chủ tịch đoàn chủ tịch Xô viết tối cao LX – 64t), M.F. Shkiryatov (Chủ tịch Ủy ban Kiểm soát Đảng – 59t).

Các thành viên dự bị bao gồm: L.I. Brezhnev (Bí thư UBTW – 46t), A.Ya. Vyshinsky (Bộ Trưởng ngoại giao – 49t), N.G. Zverev (Bộ trưởng tài chính -52t), N.G. Ignatov (Bí thư UBTW – 51t), I.G. Kabanov (Chủ tịch ủy ban kế hoạch NN – 54t), Kosygin (Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ - 48t), N.S. Patolichev (Bí thư thứ nhất Belorussia – 44t), N.M Pegov (Bí thư TW – 47t), A.M. Puzanov (Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Nga - 46t), N.F. Tevosyan (Phó chủ tịch HĐBT Liên Xô – 51t), P.F. Yudin (học giả - 53t).

Tại Đại hội 19 của Đảng, Stalin giao phó tương lai của đất nước vào họ, một tập thể rộng lớn của Đoàn chủ tịch UBTW gồm 36 người. Tại sao Stalin lại giao phó sứ mệnh vĩ đại ấy cho một tập thể? Như ông đã giải thích trong Đại hội 19, theo lời thuật của nhà văn Simonov, người đã trực tiếp tham gia Đại hội 19 thuật lại:

Chúng ta đã tiến hành đại hội, đại hội đã thành công và rất nhiều người cho rằng đấy là đại hội của sự thống nhất cao. Nhưng thực ra không hề có sự thống nhất như vậy. Có một số không nhất trí với các nghị quyết của chúng ta. Họ nói rằng tại sao chúng ta phải mở rộng số lượng Ban chấp hành? Một điều rất rõ ràng là chúng ta cần đưa vào Ban chấp hành một lực lượng mới. Nhiều người trong chúng ta đã già và chúng ta phải nghĩ đến việc sẽ trao cho ai lá cờ tư tưởng của chúng ta để tiếp tục tiến về phía trước? Để làm được việc đó, chúng ta phải bổ sung các đồng chí trẻ tuổi, trung thành, các nhà hoạt động chính trị mới. Để đào tạo một nhà hoạt động chính trị chúng ta cần 10 đến 15 năm. Đào tạo Các nhà hoạt động chính trị kiên định về tư tưởng chỉ có thể tiến hành trong thực tế cuộc sống trong cuộc đấu tranh với các tư tưởng sai trái.

Chính là điều đó đòi hỏi phải đưa vào Ban chấp hành Trung ương lực lượng trẻ mới và qua đó Đảng của chúng ta sẽ lớn mạnh lên. Lại có người hỏi tại sao chúng ta bãi nhiệm các vị bộ trưởng vốn là các nhà hoạt động Đảng và Nhà nước nổi tiếng? Chúng ta đã bãi nhiệm Bộ trưởng Molotov, Kaganovich, Volosilov và thay vào đó là các cán bộ trẻ. Trên cơ sở nào chúng ta quyết định như vậy? Chúng ta đều biết rằng công việc của các vị bộ trưởng là rất nặng nhọc nó đòi hỏi không thì kiến thức mà cả sức lực. Vì vậy chúng ta đã thay họ bằng các bộ trưởng trẻ hơn nhiều sức lực và nghị lực hơn. Chúng ta cần ủng hộ họ trên cương vị của mình.

Sau đó Stalin đã chỉ ra các thiếu sót sai lầm của các vị bộ trưởng. Về bộ trưởng ngoại giao Molotov, Stalin đã nói rằng đó là một đồng chí trung thành của Đảng nhưng chúng ta không thể bỏ qua các sai lầm của đồng chí ấy. Stalin đã vạch ra khuyết điểm về việc cho phép đại sứ quán Anh in ấn truyền bá tư tưởng tư sản ở nước Nga. Ngoài ra chính Molotov là người đề nghị trao trả bán đảo Crime xinh đẹp cho người Do Thái!

Stalin nói:

“…. Đồng chí ấy đưa ra đề nghị này để làm gì? Chúng ta đã có nước cộng hòa tự trị của người Do Thái. Hãy để cho họ phát triển nước cộng hòa này. Chả lẽ thế còn chưa đủ? Còn đồng chí Molotov không thể trở thành vị “luật sư không công” cho các kiến nghị vô lý của người Do Thái khi đòi lại bán đảo Crime của chúng ta. Đây là sai lầm chính trị thứ hai của đồng chí Molotov. Ngoài ra, Molotov còn để cho vợ (một người phụ nữ Do Thái) tham gia quá nhiều vào công việc của Bộ Chính trị. Bất cứ một việc gì vừa quyết định thì vợ đồng chí đã biết ngay”.

Simonov nhớ lại: “Tất cả đều bất ngờ khi nghe Stalin nói một cách lạnh lùng, cứng rắn, tôi không tin ở tai mình nữa… Đang nói về Molotov một cách không khoan nhượng. Cả gian họp nín thở”.

Stalin cũng đánh giá về Mikoyan, Stalin nói:

Ông ta đã phạm phải sai lầm nghiêm trọng trong chính sách với nông dân và nông trang tập thể. Trong khi nông dân là liên minh vững chắc của chúng ta”.

Cả Molotov và Mikoyan gần như là tái mặt, mặt cúi xuống trên bàn chủ tịch. Sau đó, khi Molotov phát biểu, thừa nhận sai lầm và hứa mãi là học trò của Stalin, thì Stalin đã ngắt lời và nói thẳng: “Không có ai là học trò của tôi cả. Tất cả chúng ta đều là học trò của Lenin vĩ đại!”.

Stalin đã đề nghị đổi tên Bộ Chính trị thành Đoàn chủ tịch với thành phần mở rộng – kể cả Ban bí thư là 36 người. Đồng thời Stalin cũng tuyên bố: đề nghị Ban chấp hành Trung ương cho mình thôi khỏi chức vụ Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung Ương và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.

Tuy nhiên các vị đại biểu đồng thanh từ chối đề nghị của Stalin. Malenkov đứng trên bục phát biểu: “Thưa đồng chí, chúng ta đã đồng ý và một lòng đề nghị đồng chí Stalin, lãnh tụ và người thầy vĩ đại sẽ vẫn là Tổng Bí thư của Đảng”.

Stalin cắt ngang: “Trong Hội nghị Trung ương chúng ta không nên ca ngợi nhau một cách hình thức mà cần phải xem xét vấn đề một cách thực tế, đề nghị giải quyết mọi việc không theo cảm tính mà theo công việc. Tôi đề nghị rút khỏi các chức vụ vì tôi cảm thấy đã già, không đủ sức đảm đương công việc”.

Nguyên soái Tymoshenko đứng lên và đề nghị: “Thể theo nguyện vọng của nhân dân, chúng tôi nhất trí bầu đồng chí là Tổng Bí thư”. Cả hội trường đứng dậy vỗ tay. Stalin đứng rất lâu và nhìn xuống phòng họp, sau đó ông khoát tay và lặng lẽ ngồi xuống, không nói gì.

Stalin hoàn toàn nhận thức một cách sâu sắc về tình hình trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô, những vấn đề mà trước đây, thời kỳ Yagoda, Yezhov đang lập lại bởi sự hiện diện của chủ nghĩa quan liêu trong Đảng. Vì lý lẽ đó, những nỗ lực cuối cùng ông là nhằm mong muốn gửi gắm niềm tin vào một Ban lãnh đạo Tập thể và dân chủ để có thể xây dựng và bảo vệ Nhà nước Xô viết ngày càng vững mạnh. Đáng tiếc là công việc đó hoàn toàn thất bại.

Bộ ba Beria, Malenkov và Khrushchev đã triệu tập Phiên họp liên tịch Trung ương Đảng, Hội đồng Bộ trưởng và Đoàn chủ tịch Xô viết tối cao đã diễn ra vào ngày 6-3-1953. sau khi nghe báo cáo của Bộ trưởng Y tế về sự qua đời của Stalin, Malenkov đã thông báo:

Tất cả chúng ta đều biết, trách nhiệm lớn lao để lãnh đạo đất nước đang đặt lên vai tất cả chúng ta. Mọi người đều rõ, đất nước không thể không được phép có một phút nào không có sự lãnh đạo, vì vậy, đã có phiên họp liên tịch này… Tôi được giao trách nhiệm báo cáo các đồng chí về biện pháp củng cố tổ chức Đảng và Nhà nước. Bảo đảm sự lãnh đạo liên tục cho đất nước… Đòi hỏi sự cố kết của Đảng, không cho phép sự phân liệt hay hoảng sợ nào”.

Cũng tại cuộc họp người ta quyết định thay vì Đoàn chủ tịch UBTW có 25 thành viên như Đại hội XIX đã quy định, họ đã thu hẹp thành phần chỉ còn lại các nhã lãnh đạo tối cao của Đảng: “Beria, Malenkov, Khrushchev, Voroshilov, Kaganovich, Molotov, Bulganin, Mikoyan, M. Saburov, M. Pervukhin”.

Voroshilov được bổ nhiệm vào vị trí Chủ tịch Đoàn chủ tịch Liên Xô tối cao Liên Xô. V. Molotov được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; N. Bulganin - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; A. Mikoyan - Bộ trưởng Bộ Ngoại thương, ...

Có đến 17 ghế trong số 25 ghế Bộ trưởng còn lại đã bỏ trống, họ từng bước chuyển giao quyền lực về tay mình.

Như vậy, sự phản bội lần thứ hai đối với Stalin đã diễn ra, ngay trước cả khi tiến hành tang lễ đó là sự vi phạm và phá hoại hệ thống cơ cấu quyền lực của Đảng bằng việc hình thành một nhóm lợi ích cố định.



·         LẦN THỨ BA

Trong hồi ký của mình Svetlana Alliluyeva đã viết về một số vấn đề trong khoảng thời gian Stalin vừa mới qua đời:

         Sau khi bố tôi chết, ngôi nhà ở Kuntsevo đã trãi qua những sự kiện kỳ quặc. Ngày thứ hai sau khi bố tôi mất, theo lệnh của Beria, toàn thể những nhân viên phục vụ và bảo vệ, toàn bộ số nhân viên phục vụ biệt thự này được triệu tập lại, và người ta tuyên bố với họ rằng các đồ vật trong tòa nhà này phải được lập tức chuyển khỏi nơi này, và tất cả mọi người phải rời khỏi tòa nhà này.

         Không ai có thể tranh cãi với Beria được. Những con người hết sức hoang mang, không hiểu gì cả ấy thu xếp đồ đạc, sách, bát đĩa, đồ gỗ, họ vừa khóc vừa chất tất cả các thứ ấy lên những chiếc xe tải, - tất cả được chở tới một nôi nào đó, đến những kho nào đó... trước kia Bộ An ninh quốc gia và Ủy ban an ninh quốc gia có không ít những kho như vậy. Người ta đã đuổi ra ngoài đường những con người đã từng phục vụ (Stalin) trong suốt khoảng thời gian 10-15 năm là vì tình cảm chứ không phải sự sợ hãi. Họ đã bị đuổi hết đi các nơi: nhiều sĩ quan trong đội bảo vệ bị đưa đến các thành phố khác. Hai người đã tự sát bằng súng vào những ngày ấy. Những con người ấy đã không hiểu nổi điều gì cả, họ không hiểu họ có tội gì? Tại sao người ta đã hành họ như thế? Nhưng trong phạm vi Bộ An ninh quốc gia, mà tất cả họ đều là nhân viên của Bộ ấy theo chức vụ, thì họ có nghĩa vụ chấp hành vô điều kiện mọi mệnh lệnh của cấp trên”.

            Mục đích của công việc đó là gì? Thực tế, ngay khi Stalin vừa tạ thế, quá trình “phi Stalin hóa” đã bắt đầu. Con trai Beria – Sergo Beria đã khẳng định trong cuốn sách của mình rằng Beria luôn là người chống chế độ Stalin.

            Bài viết “113 ngày trong cuộc đời của người học trò trung thành và bạn chiến đấu gần gũi nhất, hay là Cuộc cải tổ (Perestroika) chưa được biết đến” của tác giả Alexander Frolov, đăng trên báo “Nước Nga Xô viết” số ra ngày 11/4/1992, đã giải thích một cách căn bản những tham vọng của Beria. Lavrentiy Beria muốn củng cố địa vị quyền lực chính trị của cá nhân mình thay cho một tập thể Đoàn chủ tịch UBTW. Do đó, Beria bắt đầu tiến hành quá trình thủ tiêu những khả năng có thể tổn hại đến sinh mệnh chính trị của ông ta: 

- Beria cần thủ tiêu những nghị quyết của Đại hội 19 của Đảng, những nghị quyết có thể ảnh hưởng đối với việc duy trì và củng cố quyền lực, tất nhiên, vì nghị quyết này là của chính Stalin do đó không thể xóa bỏ nó nếu vẫn "trung thành với sự nghiệp của Stalin". Đồng thời, trong cuộc đấu tranh chính trị với Abakumov từ 1943-1951, cũng như là việc Beria cũng cố quyền lực đã làm cho mọi người trở nên khiếp sợ ông ta, vì thế Beria cần thiết phải "cải thiện" những suy nghĩ của người khác về ông, cần làm cho người ta thấy rằng ông là một nhà lãnh đạo hết lòng vì lợi ích của đất nước.

- Đảo chính chính trị 6/3/1953 là cuộc đảo chính tập thể, bản thân một mình Beria không thể làm được, do đó ông cần sự liên minh. Tuy nhiên, sau khi đã đạt được mục đích, để xóa bỏ khả năng bản thân mình bị lật đổ Beria nghĩ đến việc cần lập nên một ban lãnh đạo mới – hiển nhiên điều đó dẫn đến phải loại bỏ những người tham gia cùng Beria. Chính việc âm mưu loại bỏ “những nhà lãnh đạo Bolsheviks lão thành” là nguồn gốc dẫn đến cuộc đảo chính chính trị ngược của Đoàn chủ tịch UBTW Đảng chống Beria dưới sự lãnh đạo của Nikita Khrushchev vào 4 tháng sau đó nhằm tự cứu lấy chính mình, tức là cuộc đảo chính chính trị tháng 26/6/1953.

            Để củng cố quyền lực chính trị của mình, Beria bắt đầu tiến hành một loạt các kế hoạch:

Ngày 24/3, Beria gửi lên Đoàn chủ tịch UBTW tờ trình về việc ân xá, đến ngày 27/3, Sắc lệnh tương ứng của Đoàn chủ tịch Xô viết tối cao đã được ban bố. Ngày 4/4, Thông báo của Bộ Nội vụ Liên Xô được công bố, trong đấy Bộ Nội vụ tuyên bố rằng đã tiến hành thẩm tra kỹ lưỡng tất cả tài liệu điều tra sơ bộ và các dữ kiện khác về vụ án nhóm bác sĩ bị kết án tội phá hoại, gián điệp và hoạt động khủng bố đối với các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Cho rằng những lời buộc tội là dối trá, rằng các cán bộ điều tra trước đây đã sử dụng những phương pháp điều tra không đúng đắn. Đã có đến 1,2 triệu tù nhân được phóng thích trong tổng số 2,5 triệu tù nhân, trong đó kể cả các tội phạm chính trị, điều này làm dấy lên làn sóng dư luận: Trách nhiệm là do ai? Beria đã gán hết trách nhiệm này cho Stalin, mặc dù Beria là người đứng đầu Cơ quan An ninh Nhà nước.

             Ngày 28/3, kiến nghị của Beria về việc chuyển giao các trại lao động từ Bộ Nội vụ sang Bộ Tư pháp được Hội đồng bộ trưởng phê duyệt. Đồng thời Beria cũng chuyển toàn bộ các cơ cấu kinh tế thuộc thẩm quyền của Bộ Nội vụ sang các Bộ khác. Bộ Nội vụ được tiến hành cải tổ một cách mạnh mẽ, từ chỗ chức năng của Bộ Nội vụ trước đây là thực hiện sự đàn áp của giai cấp cầm quyền đối với các lực lượng phản cách mạng, nay chuyển thành chức năng cung cấp thông tin và kiểm soát kinh tế và xã hội cả liên bang.

Beria tiến hành một loạt kế hoạch nhằm chuyển trung tâm quyền lực từ các cơ quan đảng sang cơ quan Nhà nước, dưới hình thức “phân định ranh giới các chức năng” của Bộ Nội vụ. Thay thế toàn bộ các cán bộ được Trung ương cử xuống, hầu hết là người Nga có trình độ cao, thay vào đó là các cán bộ có nguồn gốc dân tộc địa phương, đào tạo tại chỗ. Tiến hành hàng loại các biện pháp hồi hương những người đang sống lưu vong ngoài Liên Xô.

Ngoài ra, Beria còn chủ trương ngừng việc xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa tại Cộng hòa Dân chủ Đức, tiến tới thống nhất Đông – Tây Đức thành một nhà nước dân chủ tư sản trung lập. Đồng thời còn trao quyền tự trị nhiều hơn cho các nước Cộng hòa trong liên bang. Các quyết định này đã gây ra một làn sóng phản đối mạnh mẽ, mâu thuẫn các dân tộc trong Liên Xô gia tăng đáng kể, đặc biệt là mâu thuẫn các dân tộc nhỏ với dân tộc Nga.

Những điều này hoàn toàn có thể kiểm tra lại trong cuốn sách của chính con trai Beria - Sergo Beria. Và chính Sergo đã tuyên bố một cách hùng hồn:

Những cuộc Cải tổ được tuyên bố với tòan thế giới (của Gorbachev) hóa ra lại chỉ là sự thực hiện xoàng xĩnh những tư tưởng do ông (Beria) đưa ra ba thập kỷ trước Hội nghị toàn thể Trung ương lịch sử năm 1985”.

Sau khi tiến hành một loạt các biện pháp nhằm củng cố quyền lực của mình, Beria tiến tới việc xóa bỏ những ai có thể cạnh tranh quyền lực chính trị đối với ông ta, tức là loại bỏ các Ủy viên Đoàn chủ tịch UBTW, hòng thiết lập một nhóm mới do Beria lãnh đạo. Ngay trong mùa hè năm 1953, thông tin Beria chỉ đạo việc thu thập hồ sơ nhằm tố cáo Malenkov, Khrushchev và các Ủy viên Bộ Chính trị, đồng thời Beria cũng chỉ đạo bắt giữ cựu Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng – Ignachev, là người quan hệ thân thiết với Malenkov.

Khrushchev, Malenkov và các ủy viên Đoàn chủ tịch UBTW, đã tìm kiếm sự ủng hộ của Nguyên soái Zhukov, bất ngờ tiến hành bắt giữ Beria ngay tại phiên họp Đoàn chủ tịch UBTW tháng 26/6/1953 bằng cách điều động các lực lượng vũ quân sự của Bộ quốc phòng. Đây là một sự kiện rất đặc biệt, là sự tiếp nối của các hành động phi pháp kể từ Phiên họp liên tịch 6/3/1953 của Ban chấp hành Trung ương.

Khrushchev đã cáo buộc Beria về các tội danh: chủ nghĩa xét lại khi công kích Stalin, phản cách mạng khi từ bỏ xây dựng nước Cộng hòa dân chủ Đức, âm mưu khôi phục chủ nghĩa tư bản ở Liên Xô. Mặc dù chức vụ của Beria là do Nhà nước bổ nhiệm, song việc loại bỏ Beria lại là do quyết định của Đoàn chủ tịch UBTW, về mặt cơ bản đây là: đảo chính chính trị, vi phạm nguyên tắc tổ chức đảng và điều lệ đảng.

Hội nghị TW tháng 7/1953 quyết định loại bỏ Beria khỏi Đoàn chủ tịch UBTW và UBTW Đảng mặc dù Beria đã bị bắt giam trước đó vào 26/6/1953, điều này vi phạm Hiến pháp và Luật tố tụng hình sự Liên Xô.

Như vậy, sự phản bội thứ ba đó là việc phá vỡ toàn diện cơ cấu tổ chức Đảng do Lenin và Stalin là những người sáng lập, bảo vệ và dày công vun đắp. 




·         LẦN THỨ TƯ

Người ta thường nói rằng bệnh sùng bái cá nhân là do Stalin tiêm nhiễm, nhưng Stalin đã chết vào năm 1953, còn Đại hội lên án bệnh sùng bái cá nhân lại diễn ra vào tận 1956. Câu hỏi được đặt ra là, nếu như Stalin là kẻ tạo nên sự sùng bái cá nhân đó bằng quyền lực của ông ta, thì có nghĩa là sau khi ông chết, khi quyền lực đã rơi vào tay một nhóm lợi ích chính trị mới thì tại sao phải đến năm 1956 mới lên án tệ sùng bái cá nhân Stalin mà không phải ngay trong năm 1953?

Có hai vấn đề đã xảy ra, dù mâu thuẫn nhưng lại cũng rất biện chứng: người ta cùng lúc lên án tệ sùng bái cá nhân và tiến hành tạo ra dư luận để chống Stalin; nhưng cũng đồng thời tôn vinh Stalin. Có thể nói “phi Stalin hóa” không phải bắt đầu từ năm 1956 như tất thảy chúng ta đều nghĩ.
-          
  -   Quá trình “phi Stalin hóa” diễn ra khi nào?

Việc mở đầu cho quá trình “phi Stalin hóa” này bắt đầu từ ngày 10 tháng 3 năm 1953, tức là chỉ 5 ngày sau khi Stalin vừa qua đời. Tại phiên họp kín của Đoàn chủ tịch ỦBTW, Malenkov đã có bài diễn văn phê phán “tệ sùng bái cá nhân”, tuy nhiên nội dung không đề cập đến việc phê phán Stalin. Nội dung đề cập đến việc phải giảm thiểu các xu hướng tôn vinh các nhà lãnh đạo cũ, giảm bớt việc nhắc đến tên của tất cả các thành viên của UBTW.

Kể từ ngày 20 tháng 3, tên Stalin đã không còn được nhắc nhiều trên báo chí. Năm 1953 cũng đánh dấu việc kỷ niệm 50 năm thành lập Đảng, UBTW Đảng và Viện Marx-Engels-Lenin-Stalin thuộc UBTW đã tổ chức lễ kỷ niệm này, song nội dung đề cập đến việc phê phán tệ sùng bái cá nhân là nội dung trung tâm, trong đó người ta chỉ trích các thành viên của UBTW các nước Cộng hòa khi trích dẫn Marx-Engels-Lenin-Stalin một cách giáo điều.

Ngày 9 tháng 5 năm 1953, đã có lệnh cấm việc đưa chân dung các thành viên Đoàn chủ tịch UBTW, chỉ được phép đưa chân dung Marx-Engels-Lenin-Stalin.

Tại phiên họp Hội nghị toàn thể UBTW Đảng tháng 7/1953, Malenkov đã có những chỉ trích Stalin về những sai lầm nhỏ và bệnh sùng bái cá nhân, thái độ tiêu cực chính trị của Stalin trong việc phê phán Molotov và Mykoyan tại Đại hội 19, cũng như là phê phán một số vấn đề trong tác phẩm “Những vấn đề kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô” của Stalin. Tuy nhiên, Malenkov ko phê phán một cách gay gắt và cay độc như Khrushchev, ngay sau đó Malenkov cho rằng không nên có thái độ tiêu cực đối với Stalin, rằng Stalin cũng có những điểm yếu, và đề nghị vẫn tiếp tục tôn vinh, tôn trọng sự nghiệp của Marx-Engels-Lenin-Stalin.

Ngày 1 tháng 9 năm 1953, Xô viết Tối cao Liên Xô quyết định thẩm tra lại những bản án của Tòa án quân sự tối cao Liên Xô, căn bản là tiếp tục lại những công việc mà Beria đã đề nghị trước đó. Tiếp đó tháng 4 năm 1954, Xô viết Tối cao Liên Xô tiếp tục cung cấp các thẩm quyền để xem xét lại vụ án Leningrad. Trong phiên phát biểu tại Đảng ủy Leningrad ngày 7 tháng 5 năm 1954, Khrushchev đã tuyên bố rằng: kẻ chủ mưu trong việc mưu hại các đồng chí Kuznetsov, Popkov, Voznesensky, … là do sự phát triển không kiểm soát nổi của bệnh sùng bái cá nhân Stalin – vì ông ngày càng già yếu và bị lũng đoạn bởi Beria và Abakumov, hai kẻ gây hại đến Stalin và cả UBTW.

Từ tháng 5 năm 1955, việc phục hồi chính trị vẫn được tiếp tục, phạm vi của nó còn kéo đến những năm 30, tức là thời kỳ các vụ án chính trị chống Trung tâm phản cách mạng trotskyist Zinoviev và Kamenev. Ngày 31 tháng 12 năm 1955, một ủy ban kín được thành lập bởi Pospov để phục hồi chính trị, tuy nhiên, xuyên suốt quá trình phục hồi cái gọi là “nạn nhân bị đàn áp chính trị” cơ quan công tố và pháp luật không phải là đơn vị chịu trách nhiệm chính mà là một ủy ban Đảng được bầu ra để đảm nhận trách nhiệm, do đó các quyết định về cái gọi là “phóng thích các nạn nhân bị đàn áp chính trị” có vẻ đã vi phạm nghiêm trọng luật pháp của Liên Xô. Thậm chí, con dâu của Nikita Khrushchev, vợ của Leonid Khrushchev, người bị bắt vì cáo buộc làm gián điệp cho Đức đã được phóng thích mặc dù cho đến nay vẫn không tìm thấy lệnh phóng thích nào.

Tháng 1 năm 1956, Nikita Khrushchev lần đầu tiên chỉ trích Stalin công khai trong cuộc trò chuyện với Enver Hoxha và đoàn đại biểu Albania, ngay lập tức đã gặp phải sự phản ứng của đoàn đại biểu Albania.

Ngày 30 tháng 1 năm 1956, Đoàn chủ tịch UBTW đã thông qua kiến nghị của Khrushchev trong việc chấp thuận sự ủy quyền cho một ủy ban của Đảng đối với việc thẩm tra và thả tù nhân chính trị của Xô viết tối cao Liên Xô. Có thể nói, việc thông qua kiến nghị này vi phạm một cách trắng trợn và nghiêm trọng luật pháp Liên Xô, nó biểu hiện quá trình tập trung quyền lực chính trị của Khrushchev đã đến một mức độ đáng lo ngại.

Ngày 8 tháng 2 năm 1956, Ủy ban Pospov đã đệ trình lên Đoàn chủ tịch UBTW báo cáo về sự đàn áp chính trị dưới thời kỳ Stalin. Ngày 9 tháng 2, Đoàn chủ tịch UBTW đã tiến hành thảo luận gay gắt vấn đề này. Kaganovich, Voroshilov, Molotov cực lực phản đối việc đọc báo cáo trong Đại hội 20. Ngày 13 tháng 2, một cuộc họp tương tự lại tiếp tục diễn ra, mặc dù không được đa số ủng hộ, song Khrushchev bất chấp và tiến hành một cách cá nhân dự thảo báo cáo về phê phán tệ sùng bái cá nhân Stalin.

-          -  Sùng bái cá nhân Stalin ngay cả khi Stalin đã qua đời là do ai ?

Mặc dù nhắc về tệ sùng bái cá nhân, nhưng trong lễ nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Đảng Cộng sản Liên Xô năm 1953, cái tên Stalin vẫn được xướng lên cùng với Lenin tại các phiên họp và báo cáo của Đoàn chủ tịch UBTW Đảng. Những câu nói: “Vai trò vô giá của đồng chí trong việc giải quyết các vấn đề hoạt động của Đảng và Nhà nước”; “sẽ trung thành đối với sự nghiệp của Lenin và Stalin”; “nhà lãnh đạo vĩ đại, người kế thừa sự nghiệp của Lenin”, … vẫn tiếp tục vang lên trong những buổi lễ mít tinh ngày 1/5 và 7/11. Các tác phẩm của Stalin vẫn tiếp tục được nghiên cứu.

Viện nghiên cứu Marx-Engels-Lenin được đổi tên thành Viện Marx-Engels-Lenin-Stalin. Tháng 9 năm 1953, Khrushchev đã ký sắc lệnh của UBTW chấp thuận việc lập bảo tàng I.V. Stalin, hàng loạt các công tác tổ chức ghi dấu ấn Stalin được đề xuất và triển khai như : bảo tàng Trung ương Marx-Engels-Lenin-Stalin, đổi tên Đoàn Komsomol Lenin thành Đoàn Komsomol Lenin – Stalin, thành lập Quận “Tưởng nhớ Stalin” tại Moskva, ….

Tại phiên họp Hội nghị toàn thể UBTW 7/1953, bên cạnh việc Malenkov chỉ trích Stalin, song Malenkov vẫn đề nghị, trung thành với những lời dạy của Marx-Engels-Lenin-Stalin.

Ngày 8 tháng 8 năm 1953, Malenkov phát biểu tại Xô viết Tối cao Liên Xô về vấn đề nông nghiệp, trong đó ông nhắc đi nhắc lại rằng Đảng được dẫn dắt bởi học thuyết Marx – Lenin, do hai người thầy thiên tài vĩ đại Lenin và Stalin dẫn dắt sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội.

Ngày 6 tháng 11 năm 1953, nhân dịp kỷ niệm 36 năm Cách mạng tháng Mười, Voroshilov phát biểu và gọi Stalin là “nhà lãnh đạo vĩ đại”, “người chỉ huy tài giỏi”, Voroshilov tuyên thệ mãi trung thành dưới ngọn cờ của Lenin-Stalin. Ngày 7 tháng 11, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Bulganin lặp lại những lời nói tương tự như thế.

Ngày 21 tháng 12 năm 1953, lễ kỷ niệm 74 năm ngày sinh Stalin vẫn tiếp tục được tổ chức rộng rãi, Giải thưởng quốc tế Stalin “vì sự củng cố hòa bình giữa các dân tộc” vẫn tiếp tục được trao. Ngày 22 tháng 12 năm 1953, từ điển Triết học Liên Xô đã thêm một dòng dưới cái tên Stalin có nội dung “Cái tên bất tử Stalin sẽ luôn sống mãi trong tim nhân dân Liên Xô và nhân loại tiến bộ”.

Ngày 22 tháng 1 năm 1954, lễ kỷ niệm 30 năm ngày mất của Lenin, Pospov – người đứng đầu ủy ban xét lại các vụ án đàn áp chính trị, người tích cực nhất trong việc công kích Stalin tại Đại hội XX của Đảng Cộng Sản Liên Xô 1956 – đã phát biểu và gọi Stalin là người kế thừa vĩ đại của Lenin.
Ngày 5 tháng 3 năm 1954, lễ kỷ niệm một năm ngày mất của Stalin, tất cả các bài báo của Cơ quan Đảng và Nhà nước Liên Xô đều tôn vinh công lao và cống hiến của Stalin trong những chặng đường đấu tranh lịch sử của Đảng và Nhà nước.

Ngày 7 tháng 5 năm 1954, mặc dù đề cập đến bệnh sùng bái cá nhân Stalin, song Khrushchev vẫn nói với tổ chức Đảng Leningrad rằng: “Chính sách của Stalin là hoàn toàn đúng đắn, và chúng ta sẽ trung thành và thực hiện đến thắng lợi hoàn toàn”; “Đồng chí Stalin là con người vĩ đại, một người marxist xuất sắc”.

Ngày 21 tháng 12 năm 1954, lễ kỷ niệm 75 năm ngày sinh của Stalin lại tiếp tục được tổ chức rộng rãi, các di tích ghi dấu ấn Stalin, tượng đài, trường học, các công trình nghiên cứu về Stalin lại tiếp tục được mọc lên.

Ngày 4 tháng 1 năm 1955, Khrushchev đã kiến nghị UBTW Đảng hoãn ngày kỷ niệm Lenin, trong đấy có nhắc rằng Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô giành thắng lợi to lớn là do dưới sự lãnh đạo của Stalin.

Ngày 5 tháng 3 năm 1955, ngày kỷ niệm Stalin tạ thế lần thứ hai tiếp tục được tổ chức một cách long trọng, những ca ngợi Stalin xuất hiện và tiếp tục dày đặc trên báo chí. Ngày 22 tháng 4, tại nhà hát Bolshoi, Shepilov – người đã viết báo cáo về tệ sùng bái cá nhân Stalin đọc tại phiên họp bí mật Đại hội 20 năm 1956 – đã gọi Stalin trong bài phát biểu của mình là “người kế thừa vĩ đại sự nghiệp của Lenin”, ngay trong các cuốn sách của ông cũng ghi rất rõ “Con đường lịch sử đi đến chủ nghĩa cộng sản đã được tạo ra bởi Marx-Engels-Lenin-Stalin”.

Tháng 2 năm 1956, Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô khai mạc, báo Soviet Belorussia đã viết: “Tại Moskva, dưới ngọn cờ vĩ đại của Marx-Engels-Lenin-Stalin, Đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô, Đảng của Marx-Engels-Lenin-Stalin đã khai mạc!”.

Trong diễn văn khai mạc Đại hội, Khrushchev tuyên bố: “…. Ngay sau Đại hội 19, cái chết đã rút khỏi hàng ngũ lãnh đạo Đảng ta người kế tục sự nghiệp của Lenin vĩ đại, Joseph Vissarinovich Stalin, người đã trung thành di huấn của Lenin trong suốt 30 năm. Kẻ thù chủ nghĩa xã hội tin rằng hàng ngũ chúng ta sẽ bị xáo trộn, tranh giành quyền lực, thiếu quyết đoán trong chính sách đối nội và đối ngoại. Song, chúng đã nhầm. Đảng ta sẽ đoàn kết hơn nữa xung quanh Ủy Ban Trung ương và giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa Marx-Lenin cao hơn nữa”. Khrushchev còn nói, giữa lúc này đây, cái chết của Stalin, Clement Gotttwald, Kyuitsi Tokuda là tổn thất lớn lao, hãy dành cho họ một phút mặc niệm. Toàn bộ báo cáo của Khrushchev không một dòng nào nhắc đến tệ sùng bái cá nhân của Stalin.

Báo cáo của Ủy ban Trung ương có nhắc đến tệ sùng bái, song, không đề cập đến Stalin, UBTW xác định rằng lỗi là do thiếu sót nghiêm trọng khi thực hiện các công việc. Các diễn giả của Đại hội có lên án nhiều đến sự sùng bái cá nhân, song, không chỉ đích danh, cuối bài phát biểu họ còn tuyên bố “trung thành với học thuyết Marx-Engels-Lenin-Stalin”, với “Đảng của Lenin – Stalin”. Duy có Mykoyan có phê phán 1 số điểm “Những vấn đề kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô” là sai lầm, tuy nhiên bị các thành viên Đại hội chỉ trích gay gắt vì thiếu hiểu biết.

Trên thực tế, trong phiên họp chính thức của Đại hội XX, tổ chức ngày 14/2 đến 24/2, gần như hoàn toàn không có chuyện tố cáo tệ sùng bái cá nhân của Stalin. Có nghĩa là chỉ khi và đã khi Khrushchev nắm chắc trong tay vị trí Bí thư thứ nhất UBTW Đảng Cộng sản Liên Xô (tức tương đương Tổng bí thư), thì Khrushchev mới triển khai cái gọi là báo cáo tệ sùng bái cá nhân của Stalin vào phiên họp bí mật, được tổ chức thêm. Tuy nhiên, báo cáo này được cung cấp cho một số ít cán bộ cấp cao của TW và các nước Cộng hòa. Những nỗ lực công bố cho các đảng viên bình thường đã thất bại vì gặp phải sự phản ứng gay gắt và giận dữ, mãi đến năm 1989, tại đỉnh cao của Cải tổ, báo cáo này mới công khai phổ biến.

Sự thật là sau bài phát biểu bí mật của Khrushchev, toàn thể Đại hội đã đứng dậy và hét lớn biểu thị cho sự phản đối:


-        -  Vinh Quang cho Stalin!

Thế đấy, chúng ta có thể thấy rằng, sự sùng bái cá nhân Stalin không phải là sự áp đặt hay khuyến khích của Stalin từ trên xuống dưới đối với xã hội, ngược lại. Đó là sự xua nịnh, là động cơ chính trị của một số cá nhân, những kẻ cơ hội chủ nghĩa nhằm leo cao vào các vị trí quyền lực. Ngày xưa, họ nhân danh Stalin để phục vụ lợi ích chính trị của mình - Ngày nay, họ phê phán Stalin cũng vì lợi ích chính trị của mình.

Ngày 5 tháng 3 năm 1956, Đoàn chủ tịch UBTW đã thông qua một nghị quyết quán triệt báo cáo của Nikita Khrushchev đến các tổ chức Đảng địa phương, ko ai trong Đoàn chủ tịch phản đối, kể cả Molotov, Voroshilov, Kaganovich.

Nhưng dẫu thế nào đi chăng nữa, việc Đoàn chủ tịch UBTW gồm những người cộng sự đã từng tuyên thệ “trung thành với sự nghiệp của Lenin-Stalin”, lại là người tổ chức quá trình “phi Stalin hóa” chỉ 5 ngày sau khi Stalin qua đời đã cho thấy đó là một sự phản bội rất to lớn. 

Tất cả họ đều thấy rõ ý đồ của Stalin tại Đại hội 19, và Stalin nhìn thấy rõ bộ mặt của những kẻ mang đầy tham vọng làm lãnh tụ và trục lợi bên cạnh mình nhưng không thể làm gì được.




·         LẦN THỨ NĂM

Cũng giống như cuộc đảo chính chính trị 6/3/1953, cuộc đảo chính chính trị 26/6/1953 đều dẫn đến một thực tế là kẻ cầm đầu đều không đạt được quyền lực tuyệt đối. Do đó, quá trình từ Hội nghị tháng 7/1953 đến Đại hội 20 tháng 2/1953 là quá trình Nikita Khrushchev củng cố quyền lực của mình khi gia tăng sự ủng hộ của đông đảo những người ủng hộ mình bằng cách đưa họ vào các chức vụ cao của Đảng. Trên thực tế, nếu Beria thì thi hành chính sách Chính quyền trị, thì Khrushchev dựa vào Đảng trị, về bản chất đều là chủ nghĩa quan liêu trong Đảng, là sự tiếp nối từ những âm mưu và lợi ích chính trị từ thời Yagoda và Yehzov trong các cuộc đàn áp 1931 – 1938, là sự tiếp nối của của đấu tranh giành quyền lực chính trị giữa Beria và Abakumov 1943 – 1951, là sự kế tục cuộc đấu tranh quyết liệt giữa Beria và Đoàn chủ tịch UBTW dưới sự lãnh đạo của Khrushchev 3/1953 – 6/1953.

Chỉ 4 tháng sau Đại hội 20, Kaganovich, Malenkov, Molotov đã bị Khrushchev xóa bỏ toàn bộ các chức vụ và vu cáo rằng đây là nhóm chống Đảng mới. Ngay cả, người tận tụy và trung thành với Khrushchev như Shepilov cũng không tránh khỏi. Sau 3 tháng tiếp theo, ngay cả “người quan trọng nhất trong việc bắt giữ Beria”, Nguyên soái Zhukov, cũng bị cắt chức nốt. Rồi đến Bulganin và Voroshilov cũng bị loại khỏi Đoàn chủ tịch UBTW. Những người chống Stalin cuồng nhiệt nhất như các thành viên Thư ký UBTW là Aristov, Ignatov, Kirichenko, Furtseva và Pestoov cũng nhanh chóng bị loại. Nhiều năm sau, Furtseva đã từng rất hối hận vì bà đã tham gia kế hoạch chống Stalin một cách dối trá có hệ thống.

Bằng cách loại bỏ toàn diện những người có khả năng chống lại sự lãnh đạo chuyên chế của mình, Nikita Khrushchev đã hoàn thành “dự toán của Beria về việc bắt giữ các thành viên Bộ Chính trị vào ngày 27/7/1953” một cách xuất sắc. Nikita Khrushchev đã tạo ra xung quanh mình một cơ cấu quyền lực thống nhất, một “giáo phái” sùng bái Nikita Khrushchev một cách thực sự. Mọi lời nói của Nikita Khrushchev là kim chỉ nam cho Đảng, việc trích dẫn lời Nikita gần như là vô tội vạ.

Sự phản bội Stalin không chỉ dừng ở đó, Nikita Khrushchev đã kiến nghị tại Đại hội 22 của Đảng Cộng sản Liên Xô vào năm 1961 rằng: Cần thiết phải đưa thi hài Stalin khỏi Lăng Lenin bất chấp việc nhân dân Liên Xô chống lại các việc lên án Stalin. Một thực tế là từ năm 1956 – 1961, Stalin vẫn được đề cập như là một nhà cách mạng vĩ đại, nhà lãnh đạo xuất sắc của đất nước. Hàng loạt các cuộc mít tinh, lễ kỷ niệm về Stalin vẫn được tổ chức xuyên suốt tại các trung tâm thành phố, trường học, nhà máy, xí nghiệp, …

Ngày 30 tháng 10 năm 1961, trong một phiên họp do Shvernik chủ trì, một số đoàn đại biểu tổ chức Đảng đã đồng ý với quyết định của Khrushchev, tuy nhiên sự ủng hộ này diễn ra mang tính chất cục bộ, bí mật chứ không phải công khai dân chủ.

Bí thư Đảng ủy Leningrad – Spiridonov phát biểu:

Tổ chức Đảng Leningrad cũng như toàn Đảng, nhất trí lên án sự sùng bái cá nhân của Stalin, đã tiến hành phê chuẩn một số biện pháp nhằm loại bỏ những hậu quả của nó. Trong quá trình thảo luận về kết luận của Đại hội 20 của Đảng CSLX tại nhiều cuộc họp và nhân dân lao động Leningrad, các ý kiến đưa ra rằng không thể để thi hài của Stalin nằm bên cạnh thi hài của nhà lãnh đạo vĩ đại và là người thầy của nhân dân lao động thế giới, người đã sáng lập ra đảng vinh quang và nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới, ngay trong Lăng mang tên Vladimir Ilyich Lenin được nữa”.

Spiridonov nhanh chóng nhận được sự đồng tình từ Bí thư thành ủy Moskva – Demichev, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Cộng hòa XHCNXV Gruzia – Javakhishvili, thành viên UBTW – Lazurkina, Podgomy – Bí thư thứ nhất Ukraina. Ngay sau đó, một loạt các đại biểu đã lên tiếng chỉ trích Stalin: Georgiev – Bí thư thứ nhất UB Khu vực Altai, Rodinov – Bí thư thứ hai UBTW Đảng Kazakhstan, Shibaev – Bí thư thứ nhất UB khu vực Saratov, Leonov – Bí thư UB khu vực Sakhalin, Serdyuk – Phó chủ tịch UB kiểm soát TW, Ivanov Vecherov – thợ dệt, Gibachov – Bí thư thứ nhất UB khu vực Cibu. Chỉ có hai người duy nhất ko đồng tình về việc cải táng thi hài Stalin là Schetinin – Bí thư thứ nhất UB khu vực Irkutsk và nhà văn Kochetov.

Ngay trong đêm 31 tháng 10 năm 1961, ngay trước cả khi Nghị quyết cải táng Stalin được phê duyệt và công bố. dưới sự chỉ đạo của Nikita Khrushchev, thi hài Stalin đã được đưa ra khỏi Lăng và cải táng bên tường thành Điện Kremli, Lăng Lenin – Stalin đổi thành Lăng Lenin.

Ngay lập tức, Khrushchev ban hành các mệnh lệnh xóa sạch toàn bộ dấu tích của Stalin như tên thành phố, di tích, tượng đài, trường học. Bên cạnh đó, tên những người “cộng sự của Stalin” – những người cũng đã tích cực tham gia quá trình phi Stalin hóa, vào năm 1957 cũng đã bị xóa sổ hoàn toàn ở các công trình công cộng.

Thật buồn cười, những cựu tù nhân Gulag thời Stalin như V. Snegov và O. Shatunovskaya đã từng gửi thư kêu gọi Nikita hãy làm triệt để xóa sổ tên tuổi Stalin bằng cách công khai kho lưu trữ TW và kho lưu trữ cá nhân Stalin để làm sáng tỏ “tên độc tài Stalin”. Tuy nhiên Khrushchev đã thẳng thẳng từ chối với lý do rất mơ hồ: “sợ rằng làm như thế sẽ gây ra một làn sóng bất mãn và hận thù mới”.

Việc đụng chạm và trả thù một cách đê hèn của Nikita Khrushchev đối với Stalin, người mà vào năm 1934, Khrushchev đã dùng 34 lần bằng nhiều cách khách nhau để vinh danh. Đó là một sự phản bội đầy đê tiện của Khrushchev. Tất nhiên, ông ta có lý do của ông ta: sự trả thù cho con trai Leonid đã bị xử bắn vì cáo buộc phản quốc, đào ngũ sang hàng ngũ Đức Quốc xã. Không một ai trong Bộ Chính trị đồng ý với bản án đó, mà Nikita Khrushchev không loại bỏ. Không một ai!

…………………………………………………………………………….



Sau khi Nikita Khrushchev bị rớt đài kể từ tháng 10 năm 1964, làn sóng chỉ trích Stalin đã dừng lại, mặc dù vẫn còn, nhưng nó đã giảm nhiệt rất đáng kể.

Tại đại hội 23 của Đảng CSLX, từ tháng 3 – tháng 4 năm 1966, Bí thư Thành ủy Moskva, Egorychev đã đề nghị khôi phục tên tuổi cho Stalin. Đề nghị của ông đã nhận được sự tán thưởng của Đại hội. Những hồi ký của Zhukov, Rokossovsky, Konev, Meretskov, Shtemenko, Voroshilov về vai trò của Stalin trong những năm 1965-1966 đã có những dấu hiệu tích cực.

Mặc dù sau đó chế độ xã hội chủ nghĩa tại Liên Xô và Đông Âu lâm vào khủng hoảng, làn sóng chỉ trích Stalin lại tiếp tục được khơi mào bởi chính sách Cải tổ của Gorbachev. Tuy nhiên, bước sang thế kỷ 21, sự phục hồi nhân phẩm chính trị về Stalin đang ngày càng được đẩy mạnh ở nước Nga.

Ngày nay tên tuổi của Stalin được ví sánh ngang với Pyotr Đại đế và Lenin.

#Gấu - Nguyễn Duy