ABC về vấn đề kinh tế xã hội chủ nghĩa P.2
PHẦN 2: ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
11Lực
lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất của xã hội xã hội chủ nghĩa là nền sản xuất
lớn bằng máy móc trong mọi ngành kinh tế quốc dân, dựa trên cơ sở kỹ thuật cao
và lao động của những người lao động đã <THOÁT KHỎI SỰ BÓC LỘT>.
Nền sản xuất lớn bằng máy móc dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là
tài sản công cộng, nó phát triển có kế hoạch và dùng để nâng cao phúc lợi vật
chất và trình độ văn hóa của toàn thể nhân dân lao động. Đó là sự khác nhau căn
bản giữa sản xuất xã hội chủ nghĩa và sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Đặc điểm quan trọng nhất của nền sản xuất lớn bằng máy móc
trong xã hội xã hội chủ nghĩa là <TRÌNH ĐỘ KỸ THUẬT CAO, TỐC ĐỘ NHANH VÀ KỸ
THUẬT TIẾN BỘ KHÔNG NGỪNG>.
2. Tiến
bộ kỹ thuật.
Trong nền kinh tế quốc dân, sự tiến bộ về kỹ thuật có nghĩa
là không ngừng phát triển khoa học và kỹ thuật, nâng cao trình độ văn hóa và kỹ
thuật của nhân dân lao động, tổ chức sản xuất hoàn thiện nhất và trên cơ sở đó
ra sức nâng cao năng suất lao động xã hội.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, trong các ngành sản xuất khác
nhau, kỹ thuật được phát triển không ngừng và có kế hoạch trên cơ sở những
thành tựu mới nhất của khoa học và những sáng kiến sáng tạo của toàn thể nhân
dân lao động. Kỹ thuật tiến bộ là một phương tiện mạnh mẽ để tăng thêm của cải
xã hội nhằm không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân.
Phương hướng chủ yếu của sự tiến bộ kỹ thuật dưới chế độ chủ
nghĩa xã hội là: cải tiến công cụ sản xuất và các quá trình chế tạo, cơ khí hóa
và tự động hóa các quá trình lao động, điện khí hóa nền kinh tế quốc dân, áp dụng
rộng rãi hóa học vào sản xuất, sử dụng năng lượng nguyên tử vào mục đích hòa
bình. Tất cả những phương hướng phát triển kỹ thuật ấy liên hệ chặt chẽ với
nhau và quyết định lẫn nhau. Cơ khí hóa là tiền đề của tự động hóa. Cơ khí hóa
và tự động hóa phát triển trên cơ sở điện khí hóa. Nhưng bản thân điện khí hóa
không thể thực hiện được nếu không có cơ khí hóa và tự động hóa. Cũng như không
có cơ khí hóa, tự động hóa và điện khí hóa thì hóa học cũng không thể thực hiện
được.
Cơ sở của tiến bộ kỹ thuật là <CẢI TIẾN CÔNG CỤ SẢN XUẤT>,
bao gồm việc phát minh và áp dụng vào sản xuất những máy móc có hiệu suất cao
hơn và rẻ tiền hơn. Việc cải tiến công cụ sản xuất liên hệ chặt chẽ với việc
<CẢI TIẾN KỸ THUẬT SẢN XUẤT>: phương pháp khai thác, chế biến và sử dụng
nguyên vật liệu, áp dụng những loạt nguyên vật liệu mới, áp dụng tốc độ, áp lực,
nhiệt độ cao và cao vượt bậc cùng nhiều biện pháp khác làm cho quá trình sản xuất
nhanh hơn.
Hiện đại hóa thiết bị có ý nghĩa kinh tế lớn lao động quá
trình phát triển kỹ thuật. <HIỆN ĐẠI HÓA> là quá trình đổi mới và cải tiến
những thiết bị hiện có bằng cách thay đổi bộ phận máy, những phụ tùng đã cũ kỹ,
… Hiệu suất kinh tế của việc hiện đại hóa biểu hiện ở chỗ: khi áp dụng nó có thể
tăng được rất nhiều khối lượng sản xuất và cải tiến được các chỉ tiêu chất lượng
của xí nghiệp trong một thời gian ngắn, <VỚI> chi phí tương đối ít.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, việc cơ khí hóa các quá trình
lao động có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc cải tiến sản xuất.
<CƠ KHÍ HÓA> các quá trình lao động có nghĩa là thay thế lao động chân
tay bằng lao động cơ khí. Nó sẽ làm giảm nhẹ lao động, nâng cao năng suất lao động,
đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, việc cơ khí hóa toàn bộ được
phát triển rất mạnh. Cơ khí hóa toàn bộ có nghĩa là cơ khí hóa tất cả các quá
trình sản xuất có liên hệ với nhau, úa trình chính cũng như quá trình phụ. Cơ
khí hóa toàn bộ nâng cao được năng suất lao động và chuẩn bị cơ sở cho tự động
hóa sản xuất.
Giai đoạn cao nhất của cơ khí hóa đó là <TỰ ĐỘNG HÓA>,
nghĩa là áp dụng máy móc tự động trên cơ sở tự điều khiển và hoàn toàn gạt bỏ
lao động chân tay.
Tự động hóa nền sản xuất xã hội chủ nghĩa, sẽ làm giảm nhẹ
lao động và tiết kiệm lao động, thúc đẩy cải tiến chất lượng và hạ giá thành sản
phẩm. Áp dụng tự động hóa (nhất là tự động hóa toàn bộ mọi quá trình sản xuất)
sẽ kéo dài thời kỳ phục vụ của thiết bị, tăng thêm sức bền của thiết bị, giảm bớt
hao phí năng lượng, tăng thêm kỹ thuật sản xuất và giảm bớt số lượng công nhân
viên phục vụ. Do đó, nâng cao rất nhiều năng suất lao động.
<TRÁI VỚI CHỦ NGHĨA TƯ BẢN> là nơi mà việc cơ khí hóa
và tự động hóa sản xuất đã ném ra đường phố hàng triệu người thất nghiệp, dưới
chế độ xã hội chủ nghĩa, cơ khí hóa và tự động hóa sản xuất <KHÔNG> dẫn đến
và <KHÔNG THỂ> dẫn đến thất nghiệp. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, cơ khí
hóa và tự động hóa toàn bộ các quá trình sản xuất phù hợp với quyền lợi sống
còn của nhân dân lao động, làm giảm nhẹ và thay đổi về căn bản tính chất lao động
của hàng triệu người, nâng cao năng suất lao động, tạo điều kiện để rút ngắn
ngày làm việc và thủ tiêu sự khác nhau căn bản giữa lao động trí óc và lao động
chân tay.
Cơ khí hóa và tự động hóa các quá trình sản xuất gắn liền chặt
chẽ với việc điện khí hóa. < ĐIỆN
KHÍ HÓA> có nghĩa là áp dụng điện lực vào mọi ngành kinh tế quốc dân, vào đời
sống vật chất và văn hóa. Điện lực là cơ sở năng lượng của kỹ thuật hiện đại, của
cơ khí hóa, tự động hóa. Nó là cơ sở của quá trình kỹ thuật tối tân, là cơ sở
làm cho các quá trình sản xuất tăng nhanh hơn. Nhờ có điện lực, nên đã sản sinh
ra những ngành sản xuất mới như: ngành điện luyện kim, ngành điện hóa học, và
những phương pháp mới để chế biến về kim loại.
Yếu tố mạnh mẽ để cải tiến kỹ thuật nền kinh tế quốc dân là
hóa học. <HÓA HỌC HÓA> có nghĩa là phát triển những phương pháp sản xuất
bằng hóa học, và áp dụng nó vào mọi ngành kinh tế quốc dân. Phương pháp chế biến
bằng hóa học sẽ đẩy nhanh các quá trình sản xuất và tận dụng hết nguyên liệu. Đồng
thời, nó có thể tạo ra những loại nguyên vật liệu mới.
Đỉnh cao nhất của giai đoạn phát triển kỹ thuật hiện nay là sử
dụng <NĂNG LƯỢNG BÊN TRONG NGUYÊN TỬ>. Ở Liên Xô đã bắt đầu xây dựng
ngành công nghiệp nguyên tử nó có triển vọng rất lớn. Năm 1954, nhà máy điện
nguyên tử đầu tiên trên thế giới bắt đầu hoạt động. Năm 1958, đã bắt đầu sử dụng
bộ phận đầu tiên (với công suất là 100 nghìn KW) của nhà máy điện nguyên tử lớn
nhất trên thế giới với công suất là 600 nghìn KW.
Đó là phương hướng chủ yếu của sự tiến bộ kỹ thuật, nó đang
được thực hiện thắng lợi nhờ tinh thần lao động dũng cảm xủa nhân dân Liên Xô.
Thành tích của nền khoa học và kỹ thuật Xô viết biểu hiện ở chỗ: Liên Xô là quốc
gia đầu tiên trên thế giới xâ dựng xong nhà máy điện nguyên tử, phóng thành
công các vệ tinh nhân tạo và tên lửa vũ trụ có thể lên mặt trăng, hoàn thành
chiếc tàu phá băng nguyên tử mang tên lãnh tụ vĩ đại “V.I. Lenin”.
Nền sản xuất lớn bằng máy móc của xã hội xã hội chủ nghĩa có
đặc điểm là trình độ xã hội hóa cao. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, việc xã hội
hóa sản xuất biểu hiện dưới hình thức tích tụ hóa, chuyên môn hóa và hợp tác
hóa.
<TÍCH TỤ SẢN XUẤT> có nghĩa là tập trung sản xuất, sức
lao động và sản lượng vào trong những xí nghiệp ngày càng lớn. Nền sản xuất xã
hội chủ nghĩa có trình độ tích tụ <CAO NHẤT THẾ GIỚI>. Một trong những
hình thức biển hiện của tích tụ sản xuất là liên hợp hóa.
<LIÊN HỢP HÓA SẢN XUẤT> có nghĩa là tập trung vào trong
một xí nghiệp lớn các ngành sản xuất khác nhau có liên hệ với nhau bởi một quá
trình chế tạo. Thế có nghĩa là Nhà máy liên hợp luyện kim sẽ có bao gồm cả đầy
đủ của cả một chu kỳ sản xuất luyện kim. Nhà máy liên hợp đó gồm có các phân xưởng
luyện kim khổng lồ, các phân xưởng và xí nghiệp thuộc các ngành công nghiệp
khai khoáng, sản xuất than cốc hóa học, sản xuất vật chịu lửa, … Nhà máy liên hợp
là <MỘT KHỐI THỐNG NHẤT> hữu cơ về sản xuất và kỹ thuật. Một ví dụ khác,
có thể là nhà máy liên hợp dầu hỏa hóa học, những nhà máy này đảm bảo việc chế
biến hoàn toàn dầu hỏa theo phương pháp hóa học: sản xuất nhiên liệu động cơ và
dầu máy, cao su tổng hợp và cồn, a-xít a-xê-tích, a-xê-tôn, chất dẻo và các
ngành sản xuất hóa học hữu cơ khác. Liên hợp hóa sản xuất đã được áp dụng rộng
rãi trong các ngành công nghiệp làm giấy, thực phẩm, dệt và các ngành công nghiệp
khác tại Liên Xô trong đầu thập niên 50.
Một trong những đặc điểm nổi bật của nền sản xuất xã hội chủ
nghĩa là mở rộng việc <CHUYÊN MÔN HÓA> một cách có kế hoạch giữa các xí
nghiệp. <CHUYÊN MÔN HÓA> là quá trình xây dựng những xí nghiệp có thiết bị
riêng, có quá trình chế tạo riêng, có cán bộ chuyên môn riêng, sản xuất ra
nhũng thành phẩm nhất định hay những bộ phận của thành phẩm.
Chuyên môn hóa được xây dựng trên cơ sở phân công giữa các xí
nghiệp. Trong các xí nghiệp chuyên môn hóa, có rất nhiều khả năng to lớn để áp
dụng những thiết bị có năng suất cao, áp dụng tiêu chuẩn hóa và sản xuất theo lối
dây chuyền và hàng loạt. Nhờ có chuyên môn hóa nên năng suất lao động tăng lên
không ngừng.
Giữa các xí nghiệp chuyên môn hóa, phải có mối liên hệ sản xuất
chặt chẽ. Mối liên hệ ấy được thực hiện bằng cách hợp tác hóa. <HỢP TÁC
HÓA> là xây dựng một cách có kế hoạch những mối liên hệ sản xuất đều đặn giữa
những xí nghiệp cùng nhau sản xuất ra một loại sản phẩm nhất định, nhưng lại là
những xí nghiệp độc lập về kinh tế.
Người ta cần phân biệt việc hợp tác hóa trong một bộ phận khu
vực và việc hợp tác hóa giữa các khu vực. Hợp tác hóa trong <NỘI BỘ> khu
vực là những mối liên hệ sản xuất giữa các xí nghiệp trong phạm vi một khu vực
kinh tế - hành chính, còn hợp tác hóa giữa các xí nghiệp thuộc <CÁC> khu
vực là những mối liên hệ sản xuất giữa các xí nghiệp thuộc các khu vực kinh tế
- hành chính khác nhau.
Những hình thức nói trên của việc xã hội hóa sản xuất xã hội
chủ nghĩa <KHÔNG NHỮNG> là đặc điểm của công nghiệp, mà còn là đặc điểm của
<TẤT CẢ NHỮNG NGÀNH KHÁC>, kể cả nông nghiệp. Hệ thống nông nghiệp bao gồm
nhiều ngành, có liên quan chặt chẽ với việc chuyên môn hóa sản xuất.
Những xí nghiệp lớn xã hội chủ nghĩa xây dựng trên cơ sở kỹ
thuật cao, là một mặt của lực lượng sản xuất. Mặt khác, phần chủ yếu của lực lượng
sản xuất là sức lao động, là công nhân sản xuất cùng những thói quen lao động của
họ.
3. Nhân
dân lao động – lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội.
Trong quá trình sản xuất của cải vật chất, con người cải tiến
công cụ lao động, sáng chế ra máy móc, khai thác các tài nguyên thiên nhiên, đồng
thời làm phong phú và hoàn thiện kinh nghiệm sản xuất, những kiến thức về kỹ
thuật của mình. Không có con người thì bất cứ kỹ thuật nào cũng đều là kỹ thuật
chết và chỉ có con người mới làm cho nó hoạt động được. Do đó, con người đóng
vai trò quyết định trong việc phát triển sản xuất. Lenin đã nói: lực lượng sản
xuất thứ nhất của toàn thể nhân loại là công nhân, nhân dân lao động. Nền sản
xuất lớn bằng máy móc và sự tiến bộ của kỹ thuật trong mọi ngành kinh tế quốc
dân đòi hỏi ngày càng phải có nhiều công nhân lành nghề, có trình độ học thức.
Xã hội xã hội chủ nghĩa luôn luôn quan tâm nâng cao trình độ văn hóa của nhân
dân. Việc đào tạo có kế hoạch hàng loạt công nhân lành nghề được tiến hành bằng
hệ thống trường kỹ thuật và dạy nghề của Nhà nước và của công xưởng. Hàng năm
phát triển và đào tạo cán bộ công nhân lành nghề trong các xí nghiệp bằng cách
mở các loại lớp học, tiến hành học tập cá nhân và tập thể.
Chủ nghĩa xã hội đảm bảo trình độ văn hóa và kỹ thuật cao nhất
cho toàn thể nhân dân lao động. Điều đó thể hiện rõ trong việc thay đổi thành
phần nghề nghiệp, trong việc nâng cao trình độ học thức của giai cấp công nhân
và nông dân. Tổng số chuyên gia có trình độ chuyên môn trung – cao cấp trong nền
kinh tế quốc dân Liên Xô (ko tính trong quân đội) giữa thập niên 50 có gần
7.500.000 người, mà năm 1913 dưới thời Nga hoàng chỉ có 190.000 người.
Sự phát triển của nền sản xuất lớn bằng máy móc trên cơ sở ưu
tiên phát triển sản xuất tư liệu sản xuất, đã làm tăng số lượng giai cấp công
nhân. Nếu như năm 1928, tổng số công nhân và viên chức ở Liên Xô là 10,8 triệu
người, thì năm 1958 là 54,6 triệu người. Tỷ trọng công nhân làm việc trong các
ngành công nghiệp, xây dựng và giao thông vận tải, tăng lên rất nhanh.
Chế độ xã hội chủ nghĩa đảm bảo sự phát triển chưa từng thấy
tính tích cực sáng tạo của đông đảo quần chúng nhân dân. Điều đó biểu hiện ở
phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa, phong trào sáng chế phát minh. Dưới chế độ
xã hội chủ nghĩa, mỗi một người lao động làm việc cho mình, cho xã hội của
mình, đều quan tâm đến việc tăng năng suất lao động, việc phát triển nhanh
chóng và không ngừng lực lượng sản xuất.
4. Quan
hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người nảy sinh ra
trong quá trình sản xuất, trao đổi và phân phối của cải vật chất. Quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa về căn bản khác với quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản
và của hình thái xã hội khác trên cơ sở chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
5.
Chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất – cơ sở của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở của quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa. Chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất và vật phẩm tiêu dùng
đã tồn tại và sẽ tồn tại mãi mãi. Chỉ có những kẻ vu khống chủ nghĩa Mác mới khẳng
định những người cộng sản sẽ đi đến thủ tiêu mọi chế độ sở hữu. Thực ra trong
các văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa cộng sản khoa học,
tức trong “Tuyên ngôn của ĐẢng Cộng sản, Mác và Ăng-ghen đã viết: “Đặc điểm nổi
bật của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là
xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản”. (Mác – Ăng-ghen tuyển tập, tập 1).
Chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất có những
đặc điểm gì ? Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất có nghĩa là tư liệu sản xuất
thuộc về nhân dân lao động, nó không còn là tư bản, không còn là công cụ bóc lột.
Chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, quyết định
tính chất của quan hệ giữa người ta với nhau trong quá trình sản xuất, trao đổi
và phân phối. Đặc điểm của những mối quan hệ ấy là sự hợp tác đồng chí và sự
tương trợ xã hội chủ nghĩa của những người đã thoát khỏi sự bóc lột, là sự phân
phối sản phẩm phù hợp với lợi ích của nhân dân lao động theo nguyên tắc: LÀM
THEO NĂNG LỰC, HƯỞNG THEO LAO ĐỘNG.
Thực tế, khi tư liệu sản xuất thuộc về nhân dân lao động, khi
mỗi một thành viên của xã hội nói riêng và toàn thể xã hội nói chung cùng quan
tâm đến việc nâng cao sản xuất, thì quan hệ giữa người với người trở thành quan
hệ hữu nghị. Do mong muốn sản xuất thật nhiều sản phẩm tiêu dùng, cho nên người
ta ra sức giúp đỡ nhau để thu được những thành tích lớn lao hơn nữa. Sự cùng
chung quyền lợi giữa giai cấp công nhân, nông dân, giới trí thức và mọi thành
viên trong xã hội xã hội chủ nghĩa đã thoát khỏi sự bóc lột, - là cơ sở của sự
hợp tác theo tinh thần đồng chí và tương trợ xã hội chủ nghĩa. Những mối quan hệ
ấy hình thành nên trong nội bộ xí nghiệp, giữa các xí nghiệp với nhau, giữa các
xí nghiệp quốc doanh và nông trang tập thể, giữa giai cấp công nhân và nông
dân, …
Quan hệ hợp tác tương trợ theo tinh thần đồng chí, tích cực
sáng tạo chung của mọi người, đã mở ra những khả năng vô tận để phát triển lực
lượng sản xuất.
Mâu thuẫn đối kháng giữa tính chất xã hội của sản xuất và
hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và kết quả sản xuất là mâu thuẫn vốn
có của chủ nghĩa tư bản. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, mâu thuẫn ấy đã bị thủ
tiêu. Ở đây việc chiếm hữu công cộng về sản phẩm lao động, phù hợp với tính chất
xã hội của sản xuất. Do đó, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã mở ra một địa
bàn rộng rãi để không ngừng phát triển lực lượng sản xuất với tốc độ cao. Trong
40 năm (1918-1957) tốc độ tăng trung bình hàng năm của sản lượng công nghiệp
Liên Xô là 10,1%; Mỹ -3,2%; Anh – 1,9%; Pháp -3,2%. Nhưng trong suốt thời kỳ ấy,
Liên Xô đã mất 20 năm vì chiến tranh (1918-1921: Nội chiến – 1941-1945: Chiến
tranh vệ quốc) tàn phá đất nước và thời kỳ khôi phục kinh tế (1921-1925 và
1945-1950).
Lực lượng sản xuất càng phát triển thì quan hệ sản xuất xã hội
xã hội chủ nghĩa càng được cải tiến và thay đổi dần dần. Nhưng bản thân quan hệ
sản xuất không bị động đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa, một khi đã được cải tiến thì mở ra một địa bàn rộng lớn cho lực lượng sản
xuất phát triển.
6.
Hai
hình thức sở hữu xã hội chủ nghĩa.
Chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa ra đời trong thời kỳ quá độ từ
chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội.
Sau khi giành được chính quyền, một mặt, giai cấp công nhân gặp
phải chế độ đại sở hữu tư bản chủ nghĩa dựa trên cơ sở bóc lột lao động của người
khác. Chế độ đại sở hữu tư bản chủ nghĩa bị <QUỐC
HỮU HÓA> và chuyển sang tay Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Thế là sinh ra chế độ
sở hữu xã hội chủ nghĩa Nhà nước. Mặt khác, giai cấp công nhân gặp phải chế độ
tư hữu nhỏ của nông dân và những người thủ công dựa trên cơ sở lao động cá
nhân. Những người trung và tiểu sản xuất hàng hóa <TỰ NGUYỆN LIÊN HỢP LẠI>
trong các hợp tác xã sản xuất và tải sản của họ được xã hội hóa trên cơ sở hợp
tác. Thế là sinh ra chế độ sở hữu hợp
tác xã – nông trang tập thể.
Do đó, trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, chế độ
công hữu xã hội chủ nghĩa tồn tại dưới hai hình thức: 1. Dưới hình thức sở hữu
Nhà nước, tức là sở hữu toàn dân do Nhà nước xã hội chủ nghĩa đại biểu, và 2.
Dưới hình thức sở hữu hợp tác xã – nông trang tập thể, tức là sở hữu của các
nông trang tập thể và của các tổ chức hợp tác xã. Sự tồn tại của hai hình thức
sở hữu xã hội chủ nghĩa quyết định sự tồn tại của hai hình thức xí nghiệp xã hội
chủ nghĩa có cùng một bản chất xã hội như nhau: xí nghiệp quốc doanh và xí nghiệp
hợp tác xã – nông trang tập thể.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất chiếm địa vị thống trị tuyệt đối trong mọi ngành kinh tế quốc dân. Như
Liên Xô năm 1950, chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa chiếm 99,4% toàn bộ tư liệu sản
xuất sử dụng trong nước. Sở hữu Nhà nước, toàn dân là hình thức sở hữu chủ đạo
và chiếm ưu thế trong tất cả các nước xã hội chủ nghĩa.
Ở Liên Xô, sở hữu Nhà nước (toàn dân) gồm có ruộng đất,
khoáng sản, sông ngòi, rừng, nhà máy, công xưởng, hầm mỏ, vận tải đường sắt, đường
thủy và đường hàng không, ngân hàng, bưu điện, nông trường quốc doanh, trạm kỹ
thuật – sửa chữa, trạm máy nông nghiệp, xí nghiệp thương nghiệp và thu mua quốc
doanh, xí nghiệp công ích, nhà cửa ở thành thị và các khu công nhân cùng những
sản phẩm sản xuất ra trong xí nghiệp quốc doanh.
Ở Liên Xô, tài sản toàn dân bao gồm hơn 200.000 xí nghiệp
công nghiệp quốc doanh, toàn bộ hệ thống đường sắt (giữa thập niên 50 là
123.000 km), các xí nghiệp vận tải đường thủy và đường không, gần 6.000 nông
trường quốc doanh và 4.345 trạm kỹ thuật – sửa chữa và trạm máy nông nghiệp, …
Ở Liên Xô, sở hữu hợp tác xã – nông trang tập thể là <TÀI
SẢN> của 69.100 nông trang tập thể: máy móc nông nghiệp, máy kéo, máy liên hợp
gặt đập, … ; các công trình kiến trúc để kinh doanh, súc vật lấy sản phẩm và
súc vật làm việc đã công hữu hóa, các xí nghiệp phụ chế biến nông phẩm, các nhà
máy điện của nông trang, mạng lưới cơ quan sinh hoạt - văn hóa cùng những sản
phẩm sản xuất ra trong nông trang và trong các xí nghiệp hợp tác xã khác.
Hình thức sở hữu hợp tác xã không những chỉ tồn tại trong
nông nghiệp. Nó còn tồn tại cả trong các xí nghiệp ác-ten thủ công, chủ yếu là
phát triển sản xuất vật phẩm tiêu dùng hàng ngày bằng nguyên liệu địa phương.
Hợp tác xã tiêu dùng, chủ yếu của dân cư nông thôn, là những
xí nghiệp hợp tác trong thương nghiệp Liên Xô. Hợp tác xã tiêu dùng tập hợp 34
triệu xã viên và có gần 270.000 xí nghiệp: cửa hàng, nhà ăn, phòng trà …
Đó là những hình thức chủ yếu của tổ chức hợp tác xã – nông
trang tập thể ở Liên Xô. Những hình thức tổ chức hợp tác xã – nông trang tập thể
ấy cũng đã được phát triển ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa khác.
Hình thức sở hữu hợp tác xã và hình thức sở hữu Nhà nước
(toàn dân) là hai hình thức sở hữu xã hội chủ nghĩa cùng phục vụ một mục đích chung
– xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đứng về bản chất kinh tế và xã hội mà
xét, thì cả hai hình thức ấy đều cùng một loại như nhau. Điểm giống nhau của nó
là ở chỗ nào ?
Thứ nhất, các xí nghiệp quốc doanh và các đơn vị kinh tế tập
thể đều dựa trên cơ sở những tư liệu xã hội hóa theo lối xã hội chủ nghĩa và
trên cơ sở lao động tập thể; Thứ hai, đều xóa bỏ chế độ người bóc lột người; Thứ
ba, đều kinh doanh theo kế hoạch, nhằm nâng cao phúc lợi của nhân dân lao động;
Thứ tư, đều thực hiện nguyên tắc phân phối xã hội chủ nghĩa: phân phối theo lao
động.
Hai hình thức sở hữu ấy, có những điểm giống nhau nhưng không
có nghĩa là không có sự khác nhau nào. Sự khác nhau căn bản giữa sở hữu Nhà nước
và sở hữu tập thể là ở trình độ xã hội hóa tư liệu sản xuất theo lối xã hội chủ
nghĩa. Nếu như trong các xí nghiệp quốc doanh, mọi tư liệu sản xuất đều xã hội
hóa trong phạm vi toàn xã hội (tài sản toàn dân), thì trong xí nghiệp hợp tác
xã – nông trang tập thể, tư liệu sản xuất là tài sản của các tập thể riêng lẻ
(nông trang tập thể, ác-ten thủ công). Sản phẩm của các xí nghiệp quốc doanh là
của toàn dân. Sản phẩm của sản xuất nông trang tập thể là tài sản của nông
trang đó.
Trình độ xã hội hóa sản xuất khác nhau đẻ ra hình thức trả
công khác nhau cho những người sản xuất và đẻ ra những hình thức tổ chức quản
lý kinh tế khác nhau. Hiện nay, cơ quan quản lý chủ chốt tong công nghiệp và
ngành kiến trúc ở Liên Xô là các Hội đồng kinh tế quốc dân của các khu vực kinh
tế - hành chính. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý các xí nghiệp quốc doanh bằng
cách thông qua những người được ủy quyền, tức giám đốc xí nghiệp mà các cơ quan
Nhà nước có quyền bổ nhiệm và cách chức. Trong các xí nghiệp hợp tác xã – nông
trang tập thể, mọi công việc đều do đại hội xã viên và ban quản trị do đại hội
bầu ra, đứng đầu là chủ tịch, lãnh đạo.
Lực lượng sản xuất phát triển, sẽ mở rộng trình độ xã hội hóa
sản xuất của nông trang tập thể, dần dần nâng hình thức sở hữu nông trang tập
thể lên đến trình độ sở hữu toàn dân. Tức là, giai đoạn cộng sản chủ nghĩa, thì
hình thức sở hữu hợp tác xã – nông trang tập thể và hình thức sở hữu toàn dân
trong xí nghiệp sẽ hợp thành một hình thức sở hữu toàn dân duy nhất.
7.
Sở
hữu cá nhân.
Chế độ công hữu dưới chế độ xã hội chủ nghĩa bao gồm tư liệu
sản xuất và sản phẩm sản xuất ra. Một phần sản phẩm đó (vật phẩm tiêu dùng) được
phân phối giữa những người sản xuất phù hợp với số lượng và chất lượng lao động
của mỗi người, và trở thành sở hữu cá nhân của những người đó.
Sở hữu cá nhân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là sở hữu của từng
người trong xã hội về những sản phẩm lao động dùng để tiêu dùng cá nhân. Ở Liên
Xô, sở hữu cá nhân gồm có các khoản thu nhập và tiền tiết kiệm do lao động mà
có, một phần nhà ở, đồ dùng hàng ngày trong gia đình, vật phẩm tiêu dùng cá
nhân.
Một hình thức <ĐẶC BIỆT> của sở hữu cá nhân trong xã hội
chủ nghĩa là kinh tế cá nhân của mỗi hộ nông trang tập thể. Kinh tế cá nhân của
mỗi hộ nông trang tập thể gồm có nhà ở, các công trình kinh doanh, súc vật và
gia cầm ăn thịt, nông cụ nhỏ cần cho việc canh tác trên khoảnh đất cạnh nhà. Nó
dựa trên cơ sở lao động cá nhân của nông trang viên và của những người trong
gia đình nông trang viên, nó mang tính chất phụ trợ. Kinh tế công cộng của các
nông trang tập thể càng thêm phát triển thì kinh tế phụ cá nhân của nông trang
viên sẽ dần dần mất hết ý nghĩa.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, nguồn sở hữu cá nhân chủ yếu
là lao động trong nền sản xuất xã hội. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, sự thống
trị của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất tạo cơ sở vững chắc để ngày càng thỏa
mãn đầy đủ hơn nhu cầu cá nhân của nhân dân lao động và tăng tài sản cá nhân của
họ. Điều đó được đảm bảo thực hiện, vì chúng ta thi hành triệt để nguyên tắc lợi
ích vật chất cá nhân bằng cách trả công phù hợp với số lượng và chất lượng của
lao động.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, không thể lợi dụng sở hữu cá
nhân để làm tổn hại đến lợi ích của công dân nói riêng và Nhà nước nói chung.
8.
Các
quy luật kinh tế.
Trên cơ sở chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất,
phát sinh ra các quy luật kinh tế như: quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã
hội, quy luật phát triển có kế hoạch và cân đối của nền kinh tế quốc dân, quy
luật phân phối theo lao động, … Những quy luật kinh tế ấy ngày càng phát triển
và mở rộng phạm vi hoạt động. Các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội biểu hiện
bản chất của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và có tính chất khách quan. Nó
ra đời và hoạt động ngoài ý chí và nguyện vọng của con người. Nhưng điều đó
không có nghĩa là các quy luật kinh tế, cũng giống như các quy luật tự nhiên, tự
nó hoạt động, không cần hành động của con người. Quy luật kinh tế là những quy
luật của quan hệ sản xuất, không thể hoạt động, không thể hoạt động ở những chỗ
không có con người và không có nền sản xuất xã hội của con người. Tính chất
khách quan của các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội chỉ có nghĩa là trong
hoạt động của mình, con người phải căn cứ vào các quy luật đó, không thể không
tính đến sự hoạt động của các quy luật đó.
Không hiểu tính chất khách quan của các quy luật kinh tế của
chủ nghĩa xã hội, không chú ý đến nó trong hoạt động kinh tế, thì sẽ gây ra những
hậu quả xấu. Các quy luật kinh tế sẽ tự bộc lộ ra, nếu như con người vi phạm
nó.
Tính chất sự hoạt động của các quy luật kinh tế của chủ nghĩa
xã hội, về căn bản khác với tính chất biểu hiện của các quy luật kinh tế của chủ
nghĩa tư bản. Sự khác nhau đó biểu hiện ở chỗ: nó không phải hoạt động một cách
tự phát dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, mà xã hội có thể vận dụng nó một cách có
ý thức và có tổ chức. Theo Ăng-ghen thì sự khác nhau giữa các quy luật kinh tế
của chủ nghĩa tư bản và các quy luật kinh tế chủ nghĩa xã hội cũng giống như sự
khác nhau giữa chớp lòe trong đám mây đen và điện lực tong tay con người.
Chế độ công hữu liên kết sự hoạt động của con người vào trong
một nền kinh tế thống nhất với sự lãnh đạo thống nhất. Do đó xã hội không phải
phát tiển một cách tự phát. Sinh ra khả năng và sự cần thiết phải vận dụng một
cách có ý thức các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội trong phạm vi toàn xã
hội. Ví dụ, nếu không có chế độ tập trung trong việc giải quyết những vấn đề chủ
yếu thì không thể phát triển kinh tế một cách có kế hoạch được. Nếu không có một
kế hoạch thống nhất của Nhà nước thì những kế hoạch riêng lẻ của các xí nghiệp
cũng mất hết ý nghĩa, bởi vì sự hoạt động của mỗi xí nghiệp sẽ đi đến chỗ thích
ứng với tính tự phát của thị trường luôn luôn thay đổi. Tính tự phát và chủ
nghĩa xã hội không thể dung hòa với nhau được, cái nọ bài trừ cái kia.
Cần nhận thức một cách khoa học các quy luật kinh tế của chủ
nghĩa xã hội, để vận dụng nó vào hoạt động thực tiễn của xã hội, để vạch ra và
thực hiện chính sách kinh tế của Đảng của giai cấp công nhân nhằm xây dựng chủ
nghĩa cộng sản.
9.
Quy
luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện của chế độ công
hữu và chính quyền thuộc về giai cấp công nhân, những mơ ước hàng bao đời của
nhân dân lao động về việc cải thiện mức sống vật chất và văn hóa của mình, đã
được thực hiện một cách thực sự. Nền sản xuất xã hội chủ nghĩa được tổ chức ra
nhằm mục đích thõa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân lao động. Chỉ
có nhằm vào lợi ích của quần chúng, nhằm vào việc nâng cao mức sống của họ, nhằm
làm thỏa mãn đầy đủ nhu cầu ngày càng tăng của mọi người trong xã hội, thì mới
có thể phát triển thắng lợi nền sản xuất xã hội chủ nghĩa. Thõa mãn nhu cầu của
quần chúng nhân dân lao động, trở thành nhiệm vụ tự nhiên của nó.
Những người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học đã vạch
rõ đặc điểm có tính chất nguyên tắc của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa so với những
phương thức sản xuất trước đó. Lenin đã chỉ ra rằng xã hội tư bản chủ nghĩa sẽ
được thay thế bằng xã hội xã hội chủ nghĩa “… để đảm bảo phúc lợi và sự phát
triển toàn diện của mọi người trong xã hội …”. Lenin đã nhiều lần nhấn mạnh rằng,
chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có khả năng làm cho nền sản xuất xã hội và sự phân
phối sản phẩm trên cơ sở khoa học, hoàn toàn phục tùng lợi ích và nhu cầu của
con người, để làm cho đời sống của toàn thể nhân dân lao động được dễ chịu hơn,
vui vẻ hơn và có hạnh phúc hơn.
Lenin đã nói rằng, nếu như trước kia toàn bộ tri tuệ của loài
người, toàn bộ thiên tài của loài người chỉ sáng tạo ra để cung cấp cho một số
người này hết thảy mọi của cải kỹ thuật và văn hóa, đồng thời tước đoạt của một
số người khác những cái cần thiết nhất, tức là sự giáo dục và phát triển, thì
trong chủ nghĩa xã hội, hết thảy mọi thành quả kỹ thuật, hết thảy mọi thành quả
của văn hóa đều trở thành tài sản chung của toàn dân, và từ nay về sau, trí tuệ
và thiên tài của con người sẽ không biến thành thủ đoạn bạo lực, thủ đoạn bóc lột.
Đặc điểm quan trọng đó củ nền sản xuất xã hội chủ nghĩa được
biểu hiện một cách khoa học trong “quy luật cơ bản của chủ nghĩa xã hội”. Thực
chất của nó là ở chỗ: mục đích trực tiếp của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là
thỏa mãn đầy đủ nhất nhu cầu “NGÀY CÀNG TĂNG” của toàn xã hội bằng cách phát
triển nhanh chóng và không ngừng nền sản xuất xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kỹ
thuật cao.
Trên thực tế, nghĩa là toàn bộ sự hoạt động của Đảng và Nhà
nước xã hội chủ nghĩa nhằm phát triển kinh tế và văn hóa xã hội chủ nghĩa, đều
phục tùng một mục đích nhân đạo căn bản là thỏa mãn ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu
vật chất và văn hóa của xã hội. Quan tâm đến lợi ích của nhân dân, đó chính là
điều mà Đảng và Chính phủ phải luôn luôn mong muốn và tuân theo.
Cái gì quyết định việc hoàn toàn thắng lợi nhiệm vụ ấy ?
Phương tiện chủ yếu để giải quyết nhiệm vụ đó là phát triển sản xuất nhanh
chóng trên cơ sở kỹ thuật cao. Điều đó có nghĩa là, mỗi một người lao động
trong xã hội xã hội chủ nghĩa, với tinh thần lao động quền mình, sẽ tạo ra khả
năng nâng cao không ngừng phúc lợi của nhân dân (còn về động lực sẽ giải thích
cụ thể trong P.3)
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, mục đích của sản xuất không những
để thỏa mãn nhu cầu của cá nhân, mà còn thỏa mãn nhu cầu của xã hội. Trong phạm
vi xã hội chủ nghĩa, nếu con người cùng nhau phát triển sản xuất, thì chẳng những
nhu cầu cá nhân, mà cả nhu cầu xã hội cũng được thỏa mãn. Nếu làm khác đi thì
xã hội không thể tồn tại như một khối thống nhất. Nhu cầu chung (mở rộng sản xuất,
quản lý hành chính, quốc phòng, nhu cầu văn hóa -xã hội, phụ cấp cho những người
mất sức lao động) luôn luôn phải được đặt lên hàng đầu. Việc thỏa mãn mọi nhu cầu
của cá nhân, quy đến cùng là do việc thỏa mãn nhu cầu của xã hội quyết định.
Mục đích phát triển của sản xuất vốn có của chủ nghĩa xã hội,
đồng thời cũng là động lực phát triển của sản xuất. Những người lao động trong
xã hội xã hội chủ nghĩa đều hiểu rằng chỉ có đảm bảo phát triển sản xuất một
cách nhanh chóng và liên tục mới có thể không ngừng nâng cao mức sống của mình.
10. Vai trò kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và việc cải tiến quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa, không phải diễn ra một cách tự phát. Vai trò quyết định
trong việc tổ chức sản xuất, phân phối và trao đổi sản phẩm trong mọi giai đoạn
xây dựng chủ nghĩa xã hội đều thuộc về Nhà nước xã hội chủ nghĩa do Đảng của
giai cấp công nhân lãnh đạo.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa sở dĩ đóng được vai trò tổ chức và động
viên trong đời sống kinh tế của đất nước, là vì trong tay Nhà nước tập trung những
tư liệu sản xuất chủ yếu, bộ máy thương nghiệp và tài chính, bộ máy quản lý tất
cả các ngành kinh tế quốc dân, các cán bộ sản xuất, khoa học và kỹ thuật.
Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, Nhà nước xã hội chủ
nghĩa đã thể hiện lợi ích của nhân dân, tức là những người tạo ra giá trị vật chất,
những người với lao động sáng tạo của mình, đảm bảo cho xã hội tồn tại và phát
triển. Toàn bộ sự hoạt động của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước chuyên chính
của giai cấp công nhân đều được sự ủng hộ và sự tham gia tích cực của đông đảo
quần chúng nhân dân lao động.
Căn cứ vào các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội, Nhà nước
xã hội chủ nghĩa vạch ra các kế hoạch phát triển kinh tế và văn hóa, động viên
toàn thể nhân dân lao động thực hiện các kế hoạch ấy. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
quy định quy mô, tốc độ, tỷ lệ phát triển mọi ngành kinh tế quốc dân; quy định
khối lượng và kết cấu vốn đầu tư cơ bản. Nhà nước xã hội chủ nghĩa tổ chức các
hoạt động tín dụng và tài chính, lập ra ngân sách Nhà nước và đảm bảo thực hiện
ngân sách đó, phân phối thu nhập quốc dân, quy định tỷ lệ tích lũy và tiêu dùng.
Nhà nước kiểm kê và kiểm soát nghiêm chỉnh mức lao động và mức tiêu dùng. Nhà nước
xã hội chủ nghĩa định ra chính sách tiền lương, tổ chức việc lưu thông hàng hóa,
quy định giá cả hàng hóa… Nhà nước đào tạo và phân phối cán bộ, giáo dục và bồi
dưỡng cán bộ. Nhà nước tổ chức ra mọi mắt khâu của bộ máy quản lý hành chính.
Chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất đòi hỏi phải
có sự lãnh đạo của xã hội đối với toàn bộ công cuộc phát triển kinh tế. Muốn thực
hiện điều đó phải thông qua Nhà nước. Hơn nữa, chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa càng
phát triển, thì sự lãnh đạo chung của Nhà nước đối với kinh tế càng trở nên
quan trọng.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa lãnh đạo kinh tế theo nguyên tắc tập
trung dân chủ.
Chế độ tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản của việc quản lý
kinh tế xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc này kết hợp với sự lãnh đạo kinh tế có kế
hoạch tập trung với chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa được dựa trên cơ sở sáng kiến
và tính tích cực của quần chúng lao động.
Việc tổ chức quản lý kinh tế trên cơ sở chế độ tập trung dân
chủ đòi hỏi các cơ quan trung ương chỉ tập trung lãnh đạo một cách có kế hoạch
những vấn đề cơ bản. Tập trung quản lý những vấn đề cơ bản ấy phải kết hợp sự
phát triển tối đa sáng kiến của đại phương và tính độc lập sáng tạo của đông đảo
quần chúng lao động. Lenin đã viết rằng, dưới chế độ tập trung dân chủ, “trong
những vấn đề cơ bản, căn bản, chủ yếu, sự thống nhất không những không bị phá hoại,
mà trái lại còn được đảm bảo bằng muôn vạn trạng trong những chi tiết, trong những
đặc điểm địa phương, trong cách đề cập vấn đề, trong những phương pháp thực hiện
việc kiểm tra”.
Ngoài chức năng tổ chức kinh tế và văn hóa giáo dục, Nhà nước
xã hội chủ nghĩa còn hoàn thành những chức năng khác nữa. Nó tổ chức quốc phòng
và bảo vệ chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa.
#Gấu