ABC về vấn đề kinh tế xã hội chủ nghĩa P.1




PHẦN 1

1.                       Tính tất yếu của thời kỳ quá độ


Nhân dân lao động từ thế hệ này sang thế hệ khác luôn mơ ước về một cuộc sống hạnh phúc và bình đẳng lâu dài, nhưng không sao thực hiện được. Sự xuất hiện của các lãnh tụ phong trào công nhân Mác – Ăng-ghen đã vạch ra cho nhân dân lao động con đường đi đến tương lai của họ dưới góc độ một khoa học chân chính nhằm giải phóng con người.

Trong quá trình nghiên cứu về sự phát triển kinh tế của xã hội, những tác giả kinh điển của Chủ nghĩa Mác đã phát hiện ra các quy luật phát sinh, phát triển và diệt vong của chủ nghĩa tư bản. Các Mác cho rằng, trái với xã hội cũ – bần cùng về mặt kinh tế và ngu dốt về chính trị, tất nhiên một xã hội mới sẽ đến, nguyên tắc quốc tế của xã hội đó là hòa bình, vì các dân tộc sẽ có một ông chúa như nhau, đó là nhân dân lao động. Xã hội như thế gọi là xã hội xã hội chủ nghĩa. Liên bang Xô viết là nhà nước Xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười ở nước Nga đã mở ra một kỷ nguyên mới trong việc phát triển xã hội loài người, chứng tỏ rằng sẽ có một xã hội khác có khả năng thay thế xã hội tư bản, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa có khả năng bị thay thế bằng quan hệ sản xuất khác, tiên tiến hơn.

Nhưng chủ nghĩa xã hội không thể tự thay thế chủ nghĩa tư bản một cách tự phát được. Chỉ có cuộc đấu tranh kiên quyết của nhân dân lao động, chỉ có cách mạng vô sản mới chấm dứt được chế độ tư sản, vì cách mạng vô sản tước đoạt mọi quyền lực và khả năng áp bức và bóc lột nhân dân của bọn tư bản. Các Mác đã viết rằng “… Không có cách mạng thì chủ nghĩa xã hội không thể nào thực hiện được. Nó cần có hành động chính trị ấy, bởi vì nó cần phải tiêu diệt và phá tan cái cũ” (Mác – Ăng-ghen toàn tập, tập 1).

Cần có cách mạng để thủ tiêu chế độ tư hữu về mặt tư liệu sản xuất, tức là tịch thu tất cả tư liệu sản xuất <CHỦ YẾU> trong tay bọn tư bản và giao cho nhân dân, thiết lập chế độ chính trị công hữu.

Thời kỳ cải tạo xã hội tư bản chủ nghĩa thành xã hội chủ nghĩa gọi là thời kỳ quá độ.

Thời kỳ quá độ từ tư bản lên xã hội chủ nghĩa là tất yếu, vì tiền đề chủ nghĩa xã hội được sinh ra trong lòng chủ nghĩa tư bản, còn chủ nghĩa xã hội thì không. Tiền đề đó là:

-   Chủ nghĩa tư bản tạo ra một nền đại công nghiệp cơ khí, nó là tiền đề vật chất của phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa.
-   Sản xuất công nghiệp ngày càng lớn đồng thời sẽ làm tăng thêm số lượng giai cấp công nhân, tập trung giai cấp công nhân vào các xí nghiệp lớn, trong các trung tâm công nghiệp.
-   Giai cấp công nhân trong quá trình tập trung đó sẽ được tổ chức lại, được giác ngộ và trở thành một lực lượng xã hội chống lại chủ nghĩa tư bản.
-   Lợi ích của giai cấp công nhân phù hợp với lợi ích của nhân dân lao động và sẽ trở thành lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh đó.

Thời kỳ thủ tiêu chế độ tư hữu và các giai cấp bóc lột, cải tạo kinh tế, văn hóa và Nhà nước trên cơ sở chủ nghĩa xã hội được gọi là thời kỳ quá độ. Trong thời kỳ ấy, chủ nghĩa xã hội <CHƯA> được xây xong, nó đang được xây dựng; chủ nghĩa tư bản chưa hoàn toàn bị tiêu diệt và nó đang bị tiêu diệt.

Sau khi giai cấp vô sản giành được chính quyền và nắm được những ngành chủ yếu trong hệ thống kinh tế quốc dân, chủ nghĩa tư bản tuy thất bại, nhưng chưa bị tiêu diệt. Trong công nghiệp, nông nghiệp và thương nghiệp, các xí nghiệp tư bản tư nhân vẫn còn <ĐƯỢC DUY TRÌ> trong một thời gian. Nhiệm vụ là phải đè bẹp bon những phần tử tư bản tư nhân ở thành thị và nông thôn, <ĐỒNG THỜI> phải chấm dứt mọi nguồn gốc đẻ ra chúng trên cơ sở <CHIẾN THẮNG THỰC SỰ> của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ quá độ, thành phần kinh tế tiểu nông sẽ được cải tạo dần theo hướng chủ nghĩa xã hội.

Trong suốt thời kỳ quá độ, sẽ tạo ra cơ sở sản xuất vật chất của chủ nghĩa xã hội và phát triển nó ngày càng lớn dựa trên sự lớn mạnh của giai cấp vô sản khi tự mình đào tạo mình để trở thành một lực lượng <ĐỦ SỨC> quản lý Nhà nước và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.

Thời kỳ quá độ là thời kỳ bắt buộc đối với tất cả các nước <BƯỚC> vào con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bất kỳ quốc gia nào, dù lạc hậu hay phát triển về công nghiệp lớn/bé, đều nhất thiết phải có một thời gian chuyển từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội.

2.                       Chuyên chính vô sản – công cụ xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa.


Nền chuyên chính vô sản có nghĩa là sự lãnh đạo bằng Nhà nước của giai cấp công nhân đối với xã hội. Giai cấp công nhân sử dụng chính quyền Nhà nước <PHẢI> vì lợi ích của toàn bộ xã hội.

Liên minh công – nông là nguyên tắc cao nhất của nền chuyên chính vô sản.

Chuyên chính vô sản có nghĩa là sự tham gia trực tiếp, tích cực của quần chúng đông đảo vào việc quản lý sản xuất, vào công tác cơ quan Nhà nước, vào việc lãnh đạo mọi lĩnh vục sinh hoạt văn hóa và xã hội.

Chuyên chính vô sản là kiến trúc thượng tầng chính trị do cách mạng vô sản đẻ ra, nhiệm vụ của nó là “đập tan bộ máy áp bức và đè nén nhân dân lao động” của chế độ cũ. Đồng thời giai cấp cấp vô sản dùng Nhà nước thủ tiêu <SỰ THỐNG TRỊ> về kinh tế của giai cấp tư sản và thủ tiêu chế độ người bóc lột người.

Tuy nhiên, phải hiểu chuyên chính vô sản <KHÔNG PHẢI CHỈ CÓ> bạo lực, mà thậm chí <CHỦ YẾU> không phải là bạo lực. Có nghĩa là, mặt bạo lực của chuyên chính vô sản là do điều kiện khách quan: sự phản kháng bằng <BẠO LỰC> của giai cấp tư sản. Bạo lực – một chức năng cần thiết và bắt buộc của chuyên chính vô sản, sở dĩ nó tồn tại là vì giai cấp bóc lột không bao giờ tự nguyện từ bỏ chính quyền cho giai cấp vô sản.

Chuyên chính vô sản là công cụ xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước vô sản tập trung sức lực vào việc xây dựng một hệ thống kinh tế mới, hệ thống đó dựa trên một quan hệ sản xuất mới mà cơ sở của quan hệ đó là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất (đối với tùy ngành mà sự công hữu đó chưa được thực hiện ngay lập tức mà phải có một thời gian cải tạo).

3.                       Kinh tế của thời kỳ quá độ.


Kinh tế của thời kỳ quá độ không được gọi là kinh tế tư bản chủ nghĩa và khác biệt căn bản với kinh tế tư bản chủ nghĩa. Đồng thời cũng không gọi là kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nó mang tính chất nhiều thành phần, tức là tổng hợp nhiều thành phần kinh tế lại. Các thành phần kinh tế là những <HÌNH THỨC> khác nhau của nền kinh tế xã hội của <MỖI NƯỚC> trong một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định.

Tùy vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi nước, thì nền kinh tế trong thời kỳ quá độ đó có thể có nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết là các nước đấy nhất thiết phải có ba thành phần cơ bản sau đây: thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, thành phần kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ và thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa.

-   Thành phần xã hội chủ nghĩa:

Thành phần xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế quốc dân <ĐƯỢC> xây dựng bằng cách công hữu hóa xã hội chủ nghĩa các tư liệu sản xuất chủ yếu.

Có nghĩa là, bước đầu và quan trọng nhất, chính quyền vô sản chiếm lấy các mạch máu của nền kinh tế quốc dân bằng con đường quốc hữu hóa xã hội chủ nghĩa. Quốc hữu hóa xã hội chủ nghĩa là Nhà nước vô sản dùng cách mạng để tịch thu tài sản của giai cấp bóc lột và biến nó thành sở hữu nhà nước, sở hữu xã hội chủ nghĩa (tài sản toàn dân). Mọi tài sản của giai cấp tư sản đều do nhiều thế hệ của giai cấp công nhân tạo ra, vì thế khi cách mạng vô sản diễn ra thì giai cấp vô sản phải tịch thu mọi tư liệu sản xuất của bọn tư bản, đấy là sự công bằng của lịch sử. Cái gì do nhân dân lao động làm ra thì phải thuộc về nhân dân lao động.

Quốc hữu hóa xã hội chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất, sẽ thủ tiêu được mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản – mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất và hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Quốc hữu hóa làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất của lực lượng sản xuất và gạt bỏ được những vật chướng trở ngại con đường phát triển của lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa.

Quốc hữu hóa tư liệu sản xuất, sẽ thủ tiêu được sự thống trị về kinh tế của giai cấp tư sản. Việc chuyển tư liệu sản xuất vào tay nhân dân lao động, làm cho nhân dân trở thành chủ nhân của đất nước, trở thành lực lượng kinh tế thống trị xã hội.

<TRƯỚC HẾT> phải quốc hữu hóa nền đại công nghiệp, ngành ngân hàng, ngành vận tải đường sắt, thương nghiệp, bưu điện, các đại xí nghiệp thương nghiệp, … quốc hữu hóa toàn bộ <HOẶC> một phần ruộng đất.

Tùy theo hình thức và mức độ gay gắt của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ mà việc quốc hữu hóa trong từng nước có những đặc điểm riêng của nó. Ở Liên Xô, vì giai cấp tư sản tiến hành đấu tranh vũ trang, âm mưu chống lại chính quyền Xô viết, do đó việc tiến hành quốc hữu hóa không cần tiến hành bồi thường cho bọn chiếm hữu cũ. Nhưng trong các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, việc quốc hữu hóa các tư liệu sản xuất chủ yếu trng công nghiệp, vận tải, bưu điện, quốc hữu hóa ngân hàng đều thực hiện bằng cách chuộc lại một phần các xí nghiệp của bọn chủ xí nghiệp hạng trung và nhỏ, và cũng chuộc lại các xí nghiệp của các nước tư bản đồng minh chống Đức Hit-le. Các xí nghiệp của bọn chủ Đức, Ý và bọn tư bản trong nước hợp tác với bọn phát xít đều bị quốc hữu hóa không bồi thường.

Ở Trung Quốc, chỉ tịch thu và chuyển thành sở hữu Nhà nước đối với tài sản của giai cấp tư bản lũng đoạn, chỗ dựa của chủ nghĩa đế quốc. Đại bộ phận xí nghiệp của giai cấp tư sản dân tộc đều được cải tạo thành xí nghiệp quốc danh xã hội chủ nghĩa.

Nhờ Quốc hữu hóa những tư liệu sản xuất quan trọng nhất và thực hiện nhiều biện pháp khác nên Nhà nước xã hội chủ nghĩa xây dựng được thành phần kinh tế mới mà trước đây – trong xã hội tư bản – không hề có, đó là thành phần kinh tế xã họi chủ nghĩa. Nó bao gồm các nhà máy, công xưởng, ngân hàng, ngành vận tải, các nông trường quốc doanh, các xí nghiệp thương nghiệp và các tổ chức hợp tác xã hội chủ nghĩa – hợp tác xã cung cấp, tín dụng, tiêu dùng và sản xuất. Việc xây dựng thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa mở đầu một công tác sáng tạo lớn lao của nhân dân trong quá trình xây dựng nền tảng của kinh tế xã hội chủ nghĩa.

Thành phần xã hội chủ nghĩa giữ địa vị chủ đạo trong nền kinh tế của thời kỳ quá độ và tiến công từ từ trên khắp các mặt trận của nền kinh tế quốc dân. Sở dĩ thành phần xã hội chủ nghĩa giữ địa vị chủ đạo, vì nó bao gồm các ngành kinh tế có tính chất quyết định, nó có kỹ thuật cải tiến và ngày càng hiện đại hóa. Thành phần đó là một kiểu quan hệ sản xuất tiến bộ nhất. Ở đây không còn chế độ người bóc lột người.

Trong thành phần xã hội chủ nghĩa, sức lao động không còn là hàng hóa, lao động của công nhân biến thành lao động cho chính mình, cho xã hội. Những sản phẩm sản xuất ra đều mang tính sở hữu của toàn thể nhân dân lao động.

Sự ra đời của thành phần xã hội chủ nghĩa với sự thống trị của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, đã tạo ra những điều kiện kinh tế mới. Trên cơ sở những điều kiện kinh tế mới đó, các quy luật kinh tế mới – quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội, ra đời, phát triển và dần dần mở rộng phạm vi hoạt động. Các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản dần mất tác dụng và cuối cùng sẽ biến mất.

-   Thành phần sản xuất hàng hóa nhỏ và thành phần tư bản chủ nghĩa.

Thành phần sản xuất hàng hóa nhỏ là kinh tế của nông dân và thợ thủ công dựa trên cơ sở chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và lao động cá nhân. Ít nhiều nó có liên hệ với thị trường. Sản xuất hàng hóa nhỏ dựa trên cơ sở chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, điều này làm cho nó gần gũi với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhưng, mặt khác, tiểu nông lại quan tâm đến việc thủ tiêu mọi hình thức bóc lột. Điều này làm cho nông dân lao động gẫn gũi với giai cấp vô sản.

Trong nhiều nước xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ quá độ, thành phần sản xuất hàng hóa nhỏ bao gồm đa số nhân dân. Trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa, nền sản xuất hàng hóa nhỏ được cải tạo thành kinh tế xã hội chủ nghĩa bằng con đường hợp tác hóa (tập thể hóa).

Thành phần tư bản chủ nghĩa là nền kinh tế xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và lao động làm thuê. Nó là kinh tế của giai cấp phú nông ở nông thôn, những kẻ chiếm hữu các xí nghiệp chưa quốc hữu hóa, chủ yếu là các xí nghiệp hạng nhỏ và hạng vừa ở thành thị. Ở đây còn có bóc lột, sức lao động là hàng hóa. Giá trị thặng dư do bọn chủ tư liệu sản xuất chiếm đoạt.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa, lúc đầu hạn chế thành phần tư bản chủ nghĩa, nhất là hạn chế việc bóc lột sức lao động và về sau thi hành chính sách thủ tiêu nó.

Các thành phần xã hội chủ nghĩa, sản xuất hàng hóa nhỏ và tư bản chủ nghĩa là những thành phần cơ bản trong nền kinh tế của thời kỳ quá độ. Ngoài các thành phần ấy ra, trong nền kinh tế của thời kỳ quá độ còn có thể có kinh tế nông dân tự nhiên (kinh tế gia trưởng) và chủ nghũa tư bản Nhà nước. Những thành phần này có thể có và cũng có thể không.

Ví dụ, ở Liên Xô trong thời kỳ quá độ có thành phần kinh tế gia trưởng và chủ nghĩa tư bản Nhà nước dưới hình thức xí nghiệp nhượng quyền kinh doanh mà chính quyền Xô viết cho tư bản ngoại quốc thuê, và dưới một số hình thức khác. Nhưng trong nền kinh tế của Liên Xô, chủ nghĩa tư bản Nhà nước không phát triển mấy.

Nhưng Chủ nghĩa tư bản Nhà nước được phát triển ở Trung Quốc và một số nước Đông Âu.

<CUỐI CÙNG>. Nhiệm vụ của thời kỳ quá độ là ra sức phát triển thành phần xã hội chủ nghĩa, thủ tiêu hoàn toàn thành phần tư bản chủ nghĩa, cải tạo thành phần sản xuất hàng hóa nhỏ thành hình thức kinh tế xã hội chủ nghĩa đảm bảo sự thống trị tuyệt đối của những hình thức kinh tế xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng của chủ nghĩa xã hội.

4.                       Các giai cấp trong thời kỳ quá độ.


Thích ứng với các thành phần kinh tế thời kỳ quá độ, có những giai cấp sau đây:

-   Thành phần xã hội chủ nghĩa : giai cấp công nhân, cũng như nông dân đã vào hợp tác xã xã hội chủ nghĩa.
-   Thành phần sản xuất hàng hóa nhỏ: Bần nông và trung nông ở nông thôn, thợ thủ công ở thành thị.
-   Thành phần tư bản chủ nghĩa: Giai cấp tư sản ở thành thị và phú nông ở nông thôn.

Đó là kết cấu giai cấp trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.

Đồng thời địa vị của các giai cấp trong thời kỳ này đã thay đổi căn bản so với địa vị của họ dưới chế độ tư bản chủ nghĩa.

Giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản chủ nghĩa: là một giai cấp bị áp bức, bóc lột; nhưng sau khi thiết lập nền chuyên chính vô sản, nó giữ lại địa vị lãnh đạo trong xã hội. Nó trở thành giai cấp thống trị, nắm chính quyền Nhà nước và cùng với toàn thể nhân dân lao động làm chủ các tư liệu sản xuất đã công hữu hóa.

Giai cấp nông dân: được giải phóng khỏi bọn chiếm hữu nhiều ruộng đất, được Nhà nước xã hội chủ nghĩa chia ruộng đất, được bảo vệ khỏi sự bóc lột của phú nông, được giúp đỡ trong việc tập thể hóa. Trong chính sách của mình đối với nông dân trong thời kỳ quá độ, Nhà nước xã hội chủ nghĩa tuân theo lời chỉ dạy của Lenin: <liên minh với trung nông, dựa vào bần nông và đấu tranh với phú nông>. Thực hiện chính sách ấy, sẽ làm cho quần chúng nông dân cơ bản trở thành người bạn đồng minh của giai cấp công nhân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Giai cấp công nhân và nông dân là hai giai cấp cơ bản của thời kỳ quá độ. Ngoài nông dân ra, giai cấp công nhân còn đoàn kết xung quanh mình <MỌI> tầng lớp nhân dân lao động khác – giới trí thức lao động, thợ thủ công thành thị.

Giai cấp tư sản: mất chính quyền và các tư liệu sản xuất chủ yếu, không còn là giai cấp thống trị trong thời kỳ quá độ nữa. Nhưng trong nhiều năm của thời kỳ quá độ, giai cấp tư sản vẫn còn một lực lượng khá lớn. Đó là do nền sản xuất hàng hóa nhỏ tự phát đẻ ra chủ nghĩa tư bản trong một phạm vi rộng lớn. Như Lenin gọi <giai cấp tư sản là CON ĐẺ của nền sản xuất nhỏ>. Giai cấp tư sản, sau khi mất địa vị thống trị, nó vẫn được sự ủng hộ tư bản quốc tế.

5.                       Những mâu thuẫn của thời kỳ quá độ.


Nền kinh tế nhiều thành phần của thời kỳ quá độ và sự tồn tại của các giai cấp thù địch, đã sinh ra các mâu thuẫn.

Thành phần xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ chưa phải là một thành phần phổ biến bao trùm lên tất cả, nó <KHÔNG BAO GỒM> mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, nhất là <KHÔNG BAO GỒM> toàn bộ nông nghiệp. Chừng nào chủ nghĩa tư bản còn tồn tại thì nó còn đấu tranh chống chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, Lenin đã vạch ra rằng, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội “không thể không phải là thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản giãy chết và chủ nghĩa cộng sản mới ra đời; - hay nói một cách khác: giữa chủ nghĩa tư bản bại trận, nhưng chưa bị tiêu diệt và chủ nghĩa cộng sản mới ra đời, nhưng vẫn còn rất yếu”. (Lenin toàn tập, tập 30).

Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản là mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ. Việc giải quyết vấn đề đấu tranh “ai thắng ai” sẽ diễn ra trong cuộc đấu tranh giai cấp khốc liệt.

Kết quả cuộc đấu tranh ấy, <QUYẾT ĐỊNH> ở chỗ ai lôi kéo được nông dân đi theo mình.

Chính sách đúng đắn của các đảng cộng sản và công nhân, chính sách liên minh vững chắc về kinh tế và chính trị của giai cấp công nhân với nông dân, làm cho giai cấp vô sản lôi kéo được nông dân lao động đi theo mình. Điều đó quyết định thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa tư bản.

Bên cạnh mâu thuẫn cơ bản, trong thời kỳ quá độ còn có các mâu thuẫn khác nữa. Như, trong nhiều nước có mâu thuẫn giữa chế độ chính trị tiên tiến với sự lạc hậu về kinh tế và kỹ thuật. Ở Liên Xô có mâu thuẫn ấy trong thời kỳ quá độ. Trong đa số các nước dân chủ nhân dân cũng có mâu thuẫn đó, tuy nhiên ở những mức độ khác nhau. Trong thời quá độ còn có mâu thuẫn giữa nền đại công nghiệp xã hội chủ nghĩa thống nhất và nền kinh tế tiểu nông, tư hữu và phân tán.

Tất cả mâu thuẫn ấy chỉ có thể giải quyết trong chính sách kinh tế của Nhà nước vô sản trong thời kỳ quá độ.

6.                       Chính sách kinh tế trong thời kỳ quá độ và kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội của Lenin.


Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, cần phải vạch ra và thực hiện một chính sách kinh tế phù hợp, tức là tổng hợp các biện pháp của Nhà nước vô sản <NHẰM THỦ TIÊU YẾU TỐ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA VÀ ĐẢM BẢO THẮNG LỢI CHO CHỦ NGHĨA XÃ HỘI>.

Chính sách kinh tế trong thời kỳ quá độ nhằm củng cố khối liên minh công nông, củng cố nền chuyên chính vô sản, phát triển lực lượng sản xuất trong nước. Chính sách đó cho phép <CHỦ NGHĨA TƯ BẢN TỒN TẠI TRONG NHỮNG GIỚI HẠN NHẤT ĐỊNH> với điều kiện Nhà nước vô sản nắm lấy các mạch máu của nền kinh tế quốc dân: chính sách đó <PHẢI> tính toán đến các cuộc đấu tranh của các yếu tố xã hội chủ nghĩa chống các yếu tố tư bản chủ nghĩa; chính sách đó nhằm tiêu diệt các giai cấp bóc lột và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Nhà nước Xô viết bắt đầu thực hiện chính sách kinh tế ấy từ mùa xuân 1918, nhưng do ảnh hưởng của Nội chiến và cuộc can thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc, sự tàn phá của chiến tranh, Nhà nước Xô viết <BẮT BUỘC> phải chuyển sang chính sách “chủ nghĩa Cộng sản thời chiến”.

Trong thời kỳ “chủ nghĩa Cộng sản thời chiến”, chính quyền Xô viết lấy hậu phương phục vụ tiền tuyến: tiến hành quốc hữu hóa toàn bộ ngành công nghiệp, trong đó có công nghiệp hạng nhỏ và hạng vừa, cấm tư thương, thực hiện chế độ trưng thu lương thực thừa, tức là trưng thu các nông phẩm thừa của nông dân để cung cấp cho quân đội và công nhân. Do những điều kiện khó khăn của Nội chiến và sự can thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc, Chính phủ Xô viết thi hành chế độ cung cấp theo phiếu và nghĩa vụ lao động chung đối với tất cả giai cấp. Toàn bộ những biện pháp đó của Chính phủ, gọi là chính sách “chủ nghĩa Cộng sản thời chiến”. Chính sách “chủ nghĩa Cộng sản thời chiến” là một chính sách <BẮT BUỘC> và <TẠM THỜI>, nhằm giành thắng lợi cho Nhà nước Xô viết trong những điều kiện khó khăn của Nội chiến và Sự can thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc.

Ngay sau khi thắng lợi trong Nội chiến và sự can thiệp vũ trang của nước ngoài, năm 1921, chính quyền Xô viết chuyển sang thi hành chính sách kinh tế đã được công bố hồi mùa xuân 1918. Khác với chính sách “chủ nghĩa Cộng sản thời chiến”, chính sách này gọi là chính sách kinh tế mới (gọi là NEP). Việc thay thế chế độ trưng thu lương thực thừa bằng thuế lương thực, mở đầu cho việc chuyển sang chính sách kinh tế mới. Thuế lương thực thấp hơn chế độ trưng thu lương thực thừa. Tất cả mọi thứ còn lại sau khi nộp thuế lương thực cho Nhà nước, đều thuộc quyền sử dụng của nông dân. Nông dân có thể tự do buôn bán lương thực thừa. Để làm cho nông dân quan tâm đến sản xuất, phát triển nông nghiệp, khôi phục công nghiệp nặng và nhẹ, tích lũy nhân lực và tài lực <ĐỂ TỪNG BƯỚC> chuyển sang một cuộc tấn công quyết định vào tàn tích chủ nghĩa tư bản trong nước. Bước đầu cần thiết phải thực hiện thuế lương thực và cho phép tư nhân buôn bán.

Chính sách kinh tế mới của thời kỳ quá độ ở Liên Xô được vạch ra và thực hiện trong vòng vây tư bản chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện của một nước riêng lẻ. Tình hình đó có ảnh hưởng nhất định đến việc thực hiện chính sách đó ở Liên Xô.

Chính sách kinh tế mới là biểu hiện cụ thể của kế hoạch xây dựng Chủ nghĩa xã hội của Lenin.

Lenin đã vạch ra một kế hoạch có cơ sở khoa học về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, nhằm khắc phục sự lạc hậu về kinh tế và kỹ thuật của nước Nga Xô viết, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, cải tạo xã hội chủ nghĩa nền nông nghiệp và thực hiện cuộc cách mạng văn hóa. Kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội của Lenin được phản ánh và tiếp tục phát triển trong các nghị quyết của Đảng Cộng sản Liên Xô về sau.

7.                       Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.


Một trong những bộ phận cấu thành quan trọng nhất của kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội của Lenin là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.

Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng trên cơ sở một <NỀN SẢN XUẤT LỚN> bằng máy móc trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Lenin viết : “Cơ sở vật chất duy nhất của chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa chỉ có thể là một nền đại công nghiệp cơ khí <CÓ KHẢ NĂNG> cải tạo cả nông nghiệp”. (Lenin toàn tập, tập 32)

<NHƯNG> đa số các nước đi vào con đường chủ nghĩa xã hội (trong đó có Việt Nam) không được chủ nghĩa tư bản để lại cho di sản cơ sở kỹ thuật và vật chất phát triển như thế. Thực tế, là chủ nghĩa tư bản trước Cách mạng tháng Mười, chỉ có thể, thực hiện công nghiệp hóa ở một số ít nước với khoảng 15% dân số thế giới.

Vì thế, đối với tất cả các nước muốn xây dựng theo đường lối xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hóa là điều <VÔ CÙNG CẦN THIẾT>.

Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là sự phát triển nền đại công nghiệp, trước hết là công nghiệp nặng <CÓ THỂ> cải tạo về căn bản toàn bộ nền kinh tế quốc dân, kể cả nông nghiệp, trên cơ sở kỹ thuật cơ khí tiên tiến.

Khâu <TRUNG TÂM> của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là ưu tiên phát triển ngành công nghiệp nặng sản xuất ra tư liệu sản xuất: kim loại, nhiên liệu, máy móc và thiết bị, vật liệu xây dựng. Việc xây dựng ngành chế tạo máy móc hiện đại – trung tâm của công nghiệp, có một ý nghĩa đặc biệt lớn lao.

Quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa sẽ tạo ra cơ sở vật chất để phát triển các hình thức kinh tế xã hội chủ nghĩa: xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã trong công nghiệp và nông nghiệp. Công nghiệp hóa sẽ làm cho các hình thức kinh tế đó chiếm được ưu thế kỹ thuật cần thiết để hoàn toàn chiến thắng nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và nền sản xuất hàng hóa nhỏ.

Thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là <CÁI CHÌA KHÓA> để giải quyết mọi nhiệm vụ cơ bản của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội: thủ tiêu hoàn toàn thành phần tư bản chủ nghĩa, khắc phục sự lạc hậu về kinh tế và kỹ thuật đất nước.

Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa có một ý nghĩa <HẾT SỨC QUAN TRỌNG> đối với Liên Xô.

Đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của Liên Xô, được Đại hồi lần IV của Đảng Cộng sản Liên Xô thông qua vào năm 1925. Đại hội coi việc công nghiệp hóa đất nước trong thời kỳ lịch sử ngắn là <NHIỆM VỤ TRUNG TÂM> của Đảng.

Cần phải thực hiện công nghiệp hóa đất nước trong thời gian ngắn là vì:

-   Liên Xô là một nước lạc hậu về kinh tế và kỹ thuật so với các nước tư bản phát triển
-   Liên Xô là một nước tiểu nông, trong đó cơ sở kinh tế cho chủ nghĩa tư bản vững chắc hơn chủ nghĩa xã hội.
-   Liên Xô nằm trong vòng vây các nước tư bản chủ nghĩa đang âm mưu tiêu diệt hoặc làm suy yếu nhà nước Xô viết.

Đồng chí Stalin đã nhận định: “Chúng ta lạc hậu hơn các nước tiên tiến trong vòng 50 - 100 năm. Chúng ta phải vượt qua khoảng cách ấy trong vòng 10 năm. Hoặc chúng ta sẽ làm như vậy, hoặc chúng ta sẽ bị nghiền nát”. (Stalin toàn tập, tập 3)

Tất cả điều đó đòi hỏi phải tiến hành công nghiệp hóa với tốc độ cao. Và <CHỈ CÓ THỂ> làm được điều đấy do tính chất ưu việt của chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa và do những đặc điểm của phương pháp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.

Sự thống trị của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, cho phép ta bắt đầu công nghiệp hóa đất nước từ phát triển công nghiệp nặng, chứ không phải từ công nghiệp nhẹ như các nước tư bản chủ nghĩa thường làm. Chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa có khả năng huy động đến mức tối đa các nguồn vốn trong nước và sử dụng nó vào việc phát triển trước tiên là nền đại công nghiệp cơ khí.

Nguồn <VỐN> chủ yếu của công nghiệp hóa ở Liên Xô là khoản thu nhập của nền công nghiệp đã quốc hữu hóa, nông nghiệp, của nội – ngoại thương, của hệ thống ngân hàng. Tất cả những nguồn tích lũy nội bộ ấy đã cung cấp hàng chục tỷ rúp cho việc công nghiệp hóa đất nước, do đó có thể tiến hành đầu tư cơ bản rất lớn vào công nghiệp, nhất là công nghiệp nặng.

Trong các kế hoạch 5 năm trước Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, đã xây dựng những ngành công nghiệp mới như: máy kéo, ô tô, hóa chất, chế tạo máy cày, hàng không … Có hàng nghìn nhà máy, công xưởng bắt đầu hoạt động. Các xí nghiệp mới chiếm phần chủ yếu trong tổng sản lượng công nghiệp. Năm 1937, các xí nghiệp mới hoặc các xí nghiệp được xây lại căn bản trong hai kế hoạch 5 năm đầu tiên, đã sản xuất ra trên 80% tổng sản lượng.

Do thực hiện thắng lợi cương lĩnh công nghiệp hóa, nên hai kế hoạch 5 năm đầu tiên, Liên Xô đã từ một nước lạc hậu nông nghiệp chiếm ưu thế, biến thành một cường quốc công nghiệp hùng mạnh. Tỷ trọng của đại công nghiệp trong toàn bộ tổng sản lượng đã từ 42,1% năm 1913 tăng lên đến 77,4% năm 1937. Đến cuối kế hoạch 5 năm lần hai, về khối lượng sản phẩm công nghiệp Liên Xô đứng đầu châu Âu và đứng thứ hai thế giới.

Sự phát triển thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa ở Liên Xô, đã thủ tiêu được mâu thuẫn giữa chính quyền tiên tiến nhất (của giai cấp vô sản) với cơ sở kinh tế kỹ thuật lạc hậu do nước Nga Sa hoàng để lại.

8.                       Cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp.


Một trong những biện pháp đầu tiên của chính quyền vô sản trong các nước đi theo con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa là tiến hành <CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT> bằng cách tịch thu ruộng đất (chứ ko phải đấu tố) của bọn bóc lột và giao cho nông dân lao động.

Khi vạch ra cương lĩnh ruộng đất của Đảng Cộng sản, Lenin đã nhìn thấy trước rằng trong các nước khác nhau, cải cách ruộng đất có thể tiến hành bằng quốc hữu hóa toàn bộ ruộng đất, cũng như bằng cách giao ruộng đất cho nhân dân làm của riêng.

Sự tiên đoán đó của Lenin đã được kinh nghiệm lịch sử của chuyên chính vô sản xác nhận. Trong lịch sử Liên Xô, ngay sau khi Cách mạng tháng Mười thắng lợi, đã tiến hành quốc hữu hóa toàn bộ ruộng đất. Ruộng đất được giao cho nông dân sử dụng vĩnh viễn và không phải trả tiền, nhưng người sở hữu vẫn là Nhà nước. Trong các nước khác, đặc biệt là phương Đông, ruộng đất tịch thu của bọn chiếm hữu nhiều ruộng đất, phần lớn đem chia cho nông dân làm của riêng, chỉ quốc hữu hóa một phần để xây dựng các xí nghiệp quốc doanh.

Nhưng bản thân việc quốc hữu hóa ruộng đất cũng như việc chia ruộng đất cho nông dân, <KHÔNG SINH RA> quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nông thôn.

Hình thức kinh tế thống trị ở nông thôn sau cải cách ruộng đất, vẫn là kinh tế nông dân tiểu tư hữu. Chủ nghĩa xã hội đòi hỏi công hữu hóa tư liệu sản xuất không chỉ trong công nghiệp mà cả trong nông nghiệp.

Sở dĩ cần phải chuyển sang nền đại sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp, là vì chủ nghĩa xã hội <KHÔNG THỂ XÂY DỰNG> dựa trên hai cơ sở đối lập nhau: trên cơ sở đại công nghiệp xã hội chủ nghĩa và trên cơ sở kinh tế tiểu nông lạc hậu và phân tán. Tính chất phân tán, tản mạn của kinh tế tiểu nông ngăn cản việc sử dụng máy móc và kỹ thuật canh tác tiên tiến một cách đồng bộ. Kinh tế tiểu nông cung cấp ít sản phẩm hàng hóa hơn, bởi vì năng suất lao động của nó thấp hơn.

Trong tình hình ấy, không thể đảm bảo cung cấp đầy đủ lương thực cho nhân dân các thành phố công nghiệp đang ngày càng phát triển, nguyên liệu nông nghiệp cho công nghiệp ngày càng phát triển. Và cũng không thể nâng cao căn bản phúc lợi của bản thân người nông dân. Khi vạch rõ sự cần thiết phải chuyển sang nền đại sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nông thôn, Lenin nói rằng: “với nền kinh tế nhỏ thì không thể thoát nghèo nàn”.

Con đường và phương pháp cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, đã được Lenin vạch ra trong kế hoạch hợp tác xã của Người.

Sau khi chỉ rõ rằng sự phát triển của chế độ hợp tác trong nền chuyên chính vô sản và của chế độ sở hữu Nhà nước về những tư liệu sản xuất quan trọng nhất là nhất trí với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội, Lenin đã vạch ra sự khác nhau căn bản, có tính chất nguyên tắc của chế độ hợp tác trong điều kiện chuyên chính vô sản <KẾT HỢP> với chế độ hợp tác trong điều kiện chủ nghĩa tư bản. Việc chuyển nông dân sang nền đại sản xuất hợp tác (tập thể hóa), sẽ tạo khả năng trang bị cho nông nghiệp kỹ thuật mới, kỹ thuật cơ khí.

Đồng thời, hợp tác hóa là con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách đơn giản nhất, nhẹ nhàng nhất và dễ tiếp thu nhất đối với nông dân. Lenin đã nói rằng hợp tác xã là một hình thức xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nông thôn mà “bất cứ người tiểu nông nào” cũng có thể tham gia được.

Căn cứ vào đó, Lenin cho rằng ra sức mở rộng việc hợp tác hóa nông dân là nhiệm vụ hết sức quan trọng của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Lenin cũng đã vạch ra những phương pháp cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp. Người đã chứng minh nguyên tắc tự nguyện như sau:

-   Không thể dùng bạo lực ràng buộc nông dân vào những hình thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa, không thể dùng mệnh lệnh đối với phong trào hợp tác hóa.
-   Tiến hành hợp tác hóa theo từng bước, bắt đầu từ những hình thức đơn giản nhất. Từ hợp tác xã tiêu dùng, mua bán, tín dụng đến hợp tác xã sản xuất giản đơn, từ hợp tác xã sản xuất giản đơn đến hợp tác xã kiểu xã hội chủ nghĩa – đó là con đường rộng rãi thênh thang đưa nông dân lên chủ nghĩa xã hội. (có thể ban đầu sử dụng hình thức ác-ten nông nghiệp, sau đó là lên các nông trang tập thể)

Sự phát triển của các hình thức hợp tác giản đơn nhất trong lĩnh vực cung cấp, tiêu thụ và tín dụng, những kinh nghiệm tốt về sự hoạt động của các đơn vị kinh tế quốc doanh và tập thể đầu tiên, đã thực tế <VẠCH> cho nông dân thấy rõ tính ưu việt của nền đại sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp, gây cho họ những thói quen làm ăn tập thể.

Những điều kiện <QUAN TRỌNG NHẤT> để thực hiện thắng lợi việc hợp tác hóa nông nghiệp, là sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và sự giúp đỡ mọi mặt của Nhà nước vô sản đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nông thôn. Sự giúp đỡ của Nhà nước biểu hiện dưới các hình thức: giao cho nông dân sử dụng máy móc công nghiệp mới, các máy kéo, cho vay tiền và giống …

Kế hoạch hợp tác xã của Lenin, lần đầu tiên được thực hiện ở Liên Xô. Công tác tổ chức và giáo dục rộng lớn của Đảng và Nhà nước Xô viết, đã đưa đến kết quả là trong 6 tháng cuối năm 1929, nông dân Liên Xô đã chuyển biến căn bản về phía nông trang tập thể. Trung nông, tức quần chúng nông dân cơ bản, cũng vào nông trang tập thể. Thế là trong nông thôn Xô viết bắt đầu quá trình tập thể hóa toàn bộ. Trên cơ sở tập thể hóa toàn bộ, đã tiêu diệt về mặt giai cấp của lực lượng bóc lột đông đảo nhất trong cả nước, đó là phú nông (ku-lắc). Vấn đề “ai thắng ai” đã được giải quyết thành công, có lợi cho chủ nghĩa xã hội chẳng những ở thành thị mà cả ở nông thôn.

Việc tập thể hóa toàn bộ đã tạo cho chính quyền Xô viết một cơ sở xã hội chủ nghĩa trong ngành kinh tế quốc dân cần thiết nhất, rộng rãi nhất và cũng là lạc hậu nhất, tức nông nghiệp. Nông nghiệp bắt đầu phát triển trên cơ sở giống như công nghiệp – cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất (NHƯNG chỉ tồn tại dưới hình thức sở hữu tập thể chứ không phải toàn dân).

Hình thức chủ yếu của kinh tế tập thể ở nông thôn Liên Xô lúc này là ác-ten nông nghiệp, tức là một hình thức kinh doanh tập thể xây dựng trên cơ sở công hữu hóa những tư liệu sản xuất <CHỦ YẾU> của nông dân, và trên cơ sở lao động tập thể của nông dân <ĐỒNG THỜI> còn duy trì kinh tế phụ cá nhân của các nông trang viên. Ác-ten nông nghiệp bảo đảm kết hợp đúng đắn lợi ích cá nhân của nông trang viên với lợi ích công cộng và thúc đẩy tốt việc phát triển lực lượng sản xuất trong nông nghiệp.

Chỉ trong vài năm, công cuộc tập thể hóa ở Liên Xô đã xây dựng một nền nông nghiệp xã hội chủ nghĩa mạnh nhất trên thế giới, dựa trên cơ sở kỹ thuật cao, cung cấp cho nhà nước nhiều sản phẩm hàng hóa hơn. Nó đã mở đường nâng cao không ngừng phúc lợi của nông dân trong nông trang tập thể.

Tuy nhiên, tùy ở những điều kiện thực tế khác nhau, việc tập thể hóa đòi hỏi cần thêm một số biện pháp khác nhau. Một số trường hợp diễn ra ở các nước xã hội chủ nghĩa khác mà ở Liên Xô không có. Trong các đơn vị kinh tế hợp tác ấy, ruộng đất vẫn còn là sở hữu của nông dân xã viên nên thu nhập không những phải phân phối theo lao động, mà còn theo số lượng và chất lượng ruộng đất đã được đưa vào hợp tác xã.

9.                       Cách mạng văn hóa.


Bản chất của chủ nghĩa xã hội đẻ ra sự cần thiết phải giáo dục toàn diện cho nhân dân lao động. Nhân dân lao động sở dĩ phải nắm lấy chính quyền là cốt để đảm bảo cho mình một đời sống tinh thần và vật chất đầy đủ.

Đồng thời, chính bản thân những nhu cầu của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa cũng đòi hỏi phải nâng cao bằng mọi cách trình độ văn hóa và giáo dục của nhân dân lao động. Muốn đưa nền sản xuất xã hội chủ nghĩa tiến lên, thì cần phải có công nhân lành nghề, được giáo dục và có trình độ giác ngộ. Do đó, dù đứng về mặt nào để xem xét vấn đề ấy đi nữa, chúng ta phải đi đến một kết luận: giai cấp công nhân sau khi nắm được chính quyền, cần phải quan tâm đến việc tổ chức giáo dục, học tập và đào tạo người xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Giai cấp tư sản, và trước đó là nhà nước phong kiến đã để lại cho Nhà nước xã hội chủ nghĩa một sự dốt nát và nạn mù chữ. Do đó, trong thời kỳ đầu, giai cấp vô sản phải thực hiện những biện pháp cách mạng và kiên quyết đấu tranh chống nạn mù chữ và thiếu văn hóa trong các tầng lớp nhân dân lao động đông đảo ở thành thị và nông thôn. Chính vì vậy mà Lenin coi việc xóa nạn mù chữ, thực hiện giáo dục phổ cập và các biện pháp văn hóa giáo dục khác, là một cuộc cách mạng văn hóa.

Trong thời kỳ lịch sử rất ngắn, Liên Xô đã thành lập một hệ thống giáo dục mới của nền giáo dục quốc dân; đã thực hiện hệ thống trường học phổ thông gồm có trường tiểu học, trường 7 năm và trường trung học. Trong các trường học đã thi hành chế độ miễn phí và dùng tiếng mẹ đẻ.

Những thành tích phát triển kinh tế, đã chuẩn bị điều kiện để thực hiện một chế độ giáo dục tiểu học phổ cập bắt buộc. Năm 1930, thực hiện chế độ giáo dục tiểu học bắt buộc là một bước quyết định nhằm nâng cao học vấn của nhân dân Liên Xô. Chỉ trong vòng một kế hoạch 5 năm (1933-1938), ở Liên Xô đã xây dựng 20.000 trường học, tức là gần bằng số trường xây dựng trong 200 năm dưới chế độ Sa hoàng.

Đến năm 1930, đã tiêu diệt được nạn mù chữ phổ biến trong số người lớn. Trong những năm dưới chính quyền Xô viết, hơn 40 dân tộc, trước kia không có chữ viết, lần đầu tiên đã có chữ viết của mình. Trình độ kỹ thuật và chuyên môn của giai cấp công nhân cũng tăng lên rõ rệt.

Trong ngành giáo dục chuyên nghiệp trung cấp và cao cấp cũng đã thực hiện nhiều biện pháp lớn lao, cho nên trong một thời kỳ ngắn, đã có thể đào tạo nhiều thế hệ cán bộ Xô viết mới. Mạng lưới các cơ quan khoa học được xây dựng.

Thực hiện cách mạng văn hóa là một trong những bộ phận cấu thành của công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa.

10.                   Thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.


Nhờ có những cuộc cải tạo cách mạng căn bản trong kinh tế, văn hóa và chế độ chính trị, tiến hành trong thời kỳ quá độ, nên đã xây dựng được một xã hội mới. Chủ nghĩa xã hội đã thắng lợi.

Chủ nghĩa xã hội thắng lợi, có nghĩa là xây dựng được sự thống trị của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thay thế cho chế độ tư hữu.

Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa (biểu hiện ở các xí nghiệp lớn xã hội chủ nghĩa đã cơ khí hóa) chiếm địa vị thống trị ở thành thị và nông thôn thay cho nền kinh tế nhiều thành phần.

Trên cơ sở đấy, tiêu diệt về mặt giai cấp của các lực lượng bóc lột, thủ tiêu chế độ người bóc lột người, trừ bỏ những nguyên nhân hình thành sự bóc lột đấy.

Toàn bộ sinh hoạt và kinh tế đều do các kế hoạch Nhà nước quyết định và hướng dẫn.

Cạnh tranh, sản xuất vô chính phủ và khủng hoảng kinh tế đã bị thủ tiêu.

Nền sản xuất xã hội được tổ chức theo lợi ích nhân dân lao động.

Thu nhập được phân phối cho những người lao động trong xã hội chủ nghĩa <THEO> số lượng và chất lượng lao động đã hao phí. Xác định nguyên tắc “ai không làm thì đừng ăn” tức là “làm theo năng lực hưởng theo LAO ĐỘNG”.

Tình hình của nhân dân lao động có nhiều thay đổi căn bản. Giai cấp công nhân và nông dân từ chỗ là giai cấp bị bóc lột và nghèo khổ thành chủ nhân của đất nước. Cảnh bần cùng và thất nghiệp ở thành thị và nông thôn đã bị xóa bỏ hoàn toàn. Thắng lợi của chủ nghĩa xã hội đã tạo ra điều kiện để không ngừng nâng cao mức sống vật chất và trình độ văn hóa của nhân dân lao động.

Năm 1937, ở Liên Xô, nhờ hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân, nên căn bản đã xây dựng xong xã hội xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng của Lenin về khả năng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trong một nước, đã toàn thắng.

Thay đổi của chủ nghĩa xã hội đã dẫn đến những thay đổi căn bản trong kết cấu giai cấp của Liên Xô. Giai cấp bóc lột đã bị tiêu diệt và xã hội xã hội chủ nghĩa chỉ gồm có hai giai cấp là công nhân – nông dân, cùng tầng lớp trí thức vô sản.

Thắng lợi của chủ nghĩa xã hội đã thay đổi về căn bản tính chất và địa vị của giai cấp công nhân, nông dân và trí thức.

Giai cấp công nhân không còn là giai cấp bị tước mất tư liệu sản xuất nữa. Nó biến thành một giai cấp đã thoát khỏi bóc lột và cùng với toàn thể nhân dân làm chủ các tư liệu sản xuất chủ yếu. Nó trở thành một giai cấp tiền tiến, trở thành lực lượng lãnh đạo sự phát triển xã hội.

Giai cấp nông dân, từ một giai cấp sản xuất nhỏ phân tán đã biến thành một giai cấp hoàn toàn mới, thoát khỏi bóc lột. Nằm trong khối liên minh chặt chẽ với giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, nông dân nông trang tập thể tích cực tham gia vào việc quản lý nhà nước.

Thắng lợi của chủ nghĩa xã hội thủ tiêu sự bất bình đẳng về kinh tế và chính trị giữa các dân tộc, đã thủ tiêu sự đối lập lâu đời giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động chân tay.

Sự thống trị của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất là cơ sở kinh tế để mở rộng những động lực phát triển xã hội mạnh mẽ như sự thống nhất về tinh thần và chính trị của xã hội xã hội chủ nghĩa, tình hữu ái giữa các dân tộc Xô viết. Những động lực ấy ảnh hưởng đến kinh tế rất nhiều và thúc đẩy kinh tế phát triển.

Những thay đổi căn bản trong kinh tế và trong kết cấu giai cấp của xã hội đã phản ánh vào trong lĩnh vực kiến trúc thượng tầng Nhà nước. Do có những thay đổi trong lĩnh vực chính trị và kinh tế, năm 1936, ở Liên Xô đã thông qua bản Hiến pháp xã hội chủ nghĩa. Bản Hiến pháp này đã củng cố về mặt pháp luật các nguyên tắc và nền tảng của chủ nghĩa xã hội.

Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trong quá trình khắc phục nhiều khó khăn và trong cuộc đấu tranh giai cấp khốc liệt. Khó khăn của Liên Xô là rất lớn, vì Liên Xô xây dựng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện bị chủ nghĩa tư bản bao vây. Bọn đế quốc nước ngoài đã ủng hộ và xúi dục các giai cấp bóc lột trong nước chống đối chính quyền.

Thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô có một ý nghĩa quốc tế to lớn. Nó là một đòn đả kích giáng vào hệ thống tư bản chủ nghĩa thế giới. Trong một thời kỳ lịch sử rất ngắn, chủ nghĩa xã hội đã tỏ ra hơn hẳn chủ nghĩa tư bản. Nếu như chủ nghĩa tư bản cần 100 năm để chứng minh được tính hơn hẳn của nó với chế độ phong kiến, thì chủ nghĩa xã hội chỉ mất 20 năm đã chứng minh được tính hơn hẳn không thể chối cãi của nó đối với chủ nghĩa tư bản. Điều đó đã củng cố lòng tin của quần chúng lao động vào lực lượng của giai cấp công nhân, vào thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới.

#Gấu