ABC về vấn đề kinh tế xã hội chủ nghĩa P.1
PHẦN 1
1. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ
Nhân dân lao
động từ thế hệ này sang thế hệ khác luôn mơ ước về một cuộc sống hạnh phúc và
bình đẳng lâu dài, nhưng không sao thực hiện được. Sự xuất hiện của các lãnh tụ
phong trào công nhân Mác – Ăng-ghen đã vạch ra cho nhân dân lao động con đường
đi đến tương lai của họ dưới góc độ một khoa học chân chính nhằm giải phóng con
người.
Trong quá trình
nghiên cứu về sự phát triển kinh tế của xã hội, những tác giả kinh điển của Chủ
nghĩa Mác đã phát hiện ra các quy luật phát sinh, phát triển và diệt vong của
chủ nghĩa tư bản. Các Mác cho rằng, trái với xã hội cũ – bần cùng về mặt kinh
tế và ngu dốt về chính trị, tất nhiên một xã hội mới sẽ đến, nguyên tắc quốc tế
của xã hội đó là hòa bình, vì các dân tộc sẽ có một ông chúa như nhau, đó là nhân dân lao động. Xã hội như thế gọi
là xã hội xã hội chủ nghĩa. Liên bang Xô viết là nhà nước Xã hội chủ nghĩa đầu
tiên trên thế giới.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười ở
nước Nga đã mở ra một kỷ nguyên mới trong việc phát triển xã hội loài người, chứng
tỏ rằng sẽ có một xã hội khác có khả năng thay thế xã hội tư bản, quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa có khả năng bị thay thế bằng quan hệ sản xuất khác, tiên
tiến hơn.
Nhưng chủ nghĩa xã hội không thể tự
thay thế chủ nghĩa tư bản một cách tự phát được. Chỉ có cuộc đấu tranh kiên quyết
của nhân dân lao động, chỉ có cách mạng vô sản mới chấm dứt được chế độ tư sản,
vì cách mạng vô sản tước đoạt mọi quyền lực và khả năng áp bức và bóc lột nhân
dân của bọn tư bản. Các Mác đã viết rằng “… Không có cách mạng thì chủ nghĩa xã
hội không thể nào thực hiện được. Nó cần có hành động chính trị ấy, bởi vì nó cần
phải tiêu diệt và phá tan cái cũ” (Mác – Ăng-ghen toàn tập, tập 1).
Cần có cách mạng để thủ tiêu chế độ
tư hữu về mặt tư liệu sản xuất, tức là tịch thu tất cả tư liệu sản xuất <CHỦ
YẾU> trong tay bọn tư bản và giao cho nhân dân, thiết lập chế độ chính trị
công hữu.
Thời kỳ cải tạo xã hội tư bản chủ
nghĩa thành xã hội chủ nghĩa gọi là thời kỳ quá độ.
Thời kỳ quá độ từ tư bản lên xã hội
chủ nghĩa là tất yếu, vì tiền đề chủ nghĩa xã hội được sinh ra trong lòng chủ
nghĩa tư bản, còn chủ nghĩa xã hội thì không. Tiền đề đó là:
-
Chủ
nghĩa tư bản tạo ra một nền đại công nghiệp cơ khí, nó là tiền đề vật chất của phương
thức sản xuất xã hội chủ nghĩa.
-
Sản
xuất công nghiệp ngày càng lớn đồng thời sẽ làm tăng thêm số lượng giai cấp
công nhân, tập trung giai cấp công nhân vào các xí nghiệp lớn, trong các trung
tâm công nghiệp.
-
Giai
cấp công nhân trong quá trình tập trung đó sẽ được tổ chức lại, được giác ngộ
và trở thành một lực lượng xã hội chống lại chủ nghĩa tư bản.
-
Lợi
ích của giai cấp công nhân phù hợp với lợi ích của nhân dân lao động và sẽ trở
thành lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh đó.
Thời kỳ thủ tiêu chế độ tư hữu và các
giai cấp bóc lột, cải tạo kinh tế, văn hóa và Nhà nước trên cơ sở chủ nghĩa xã
hội được gọi là thời kỳ quá độ. Trong thời kỳ ấy, chủ nghĩa xã hội <CHƯA>
được xây xong, nó đang được xây dựng; chủ nghĩa tư bản chưa hoàn toàn bị tiêu
diệt và nó đang bị tiêu diệt.
Sau khi giai cấp vô sản giành được
chính quyền và nắm được những ngành chủ yếu trong hệ thống kinh tế quốc dân, chủ
nghĩa tư bản tuy thất bại, nhưng chưa bị tiêu diệt. Trong công nghiệp, nông
nghiệp và thương nghiệp, các xí nghiệp tư bản tư nhân vẫn còn <ĐƯỢC DUY
TRÌ> trong một thời gian. Nhiệm vụ là phải đè bẹp bon những phần tử tư bản
tư nhân ở thành thị và nông thôn, <ĐỒNG THỜI> phải chấm dứt mọi nguồn gốc
đẻ ra chúng trên cơ sở <CHIẾN THẮNG THỰC SỰ> của thành phần kinh tế xã hội
chủ nghĩa. Trong thời kỳ quá độ, thành phần kinh tế tiểu nông sẽ được cải tạo dần
theo hướng chủ nghĩa xã hội.
Trong suốt thời kỳ quá độ, sẽ tạo ra
cơ sở sản xuất vật chất của chủ nghĩa xã hội và phát triển nó ngày càng lớn dựa
trên sự lớn mạnh của giai cấp vô sản khi tự mình đào tạo mình để trở thành một
lực lượng <ĐỦ SỨC> quản lý Nhà nước và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Thời kỳ quá độ là thời kỳ bắt buộc đối
với tất cả các nước <BƯỚC> vào con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bất kỳ
quốc gia nào, dù lạc hậu hay phát triển về công nghiệp lớn/bé, đều nhất thiết
phải có một thời gian chuyển từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội.
2.
Chuyên
chính vô sản – công cụ xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Nền chuyên chính vô sản có nghĩa là sự
lãnh đạo bằng Nhà nước của giai cấp công nhân đối với xã hội. Giai cấp công
nhân sử dụng chính quyền Nhà nước <PHẢI> vì lợi ích của toàn bộ xã hội.
Liên minh công – nông là nguyên tắc
cao nhất của nền chuyên chính vô sản.
Chuyên chính vô sản có nghĩa là sự
tham gia trực tiếp, tích cực của quần chúng đông đảo vào việc quản lý sản xuất,
vào công tác cơ quan Nhà nước, vào việc lãnh đạo mọi lĩnh vục sinh hoạt văn hóa
và xã hội.
Chuyên chính vô sản là kiến trúc thượng
tầng chính trị do cách mạng vô sản đẻ ra, nhiệm vụ của nó là “đập tan bộ máy áp
bức và đè nén nhân dân lao động” của chế độ cũ. Đồng thời giai cấp cấp vô sản
dùng Nhà nước thủ tiêu <SỰ THỐNG TRỊ> về kinh tế của giai cấp tư sản và
thủ tiêu chế độ người bóc lột người.
Tuy nhiên, phải hiểu chuyên chính vô
sản <KHÔNG PHẢI CHỈ CÓ> bạo lực, mà thậm chí <CHỦ YẾU> không phải
là bạo lực. Có nghĩa là, mặt bạo lực của chuyên chính vô sản là do điều kiện
khách quan: sự phản kháng bằng <BẠO LỰC> của giai cấp tư sản. Bạo lực – một
chức năng cần thiết và bắt buộc của chuyên chính vô sản, sở dĩ nó tồn tại là vì
giai cấp bóc lột không bao giờ tự nguyện từ bỏ chính quyền cho giai cấp vô sản.
Chuyên chính vô sản là công cụ xây dựng
kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước vô sản tập trung sức lực vào việc xây dựng một
hệ thống kinh tế mới, hệ thống đó dựa trên một quan hệ sản xuất mới mà cơ sở của
quan hệ đó là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất (đối với tùy ngành mà sự công
hữu đó chưa được thực hiện ngay lập tức mà phải có một thời gian cải tạo).
3.
Kinh
tế của thời kỳ quá độ.
Kinh tế của thời kỳ quá độ không được
gọi là kinh tế tư bản chủ nghĩa và khác biệt căn bản với kinh tế tư bản chủ
nghĩa. Đồng thời cũng không gọi là kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nó mang tính chất
nhiều thành phần, tức là tổng hợp nhiều thành phần kinh tế lại. Các thành phần
kinh tế là những <HÌNH THỨC> khác nhau của nền kinh tế xã hội của <MỖI
NƯỚC> trong một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định.
Tùy vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của
mỗi nước, thì nền kinh tế trong thời kỳ quá độ đó có thể có nhiều thành phần kinh
tế khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết là các nước đấy nhất thiết phải có ba thành phần
cơ bản sau đây: thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, thành phần kinh tế sản xuất
hàng hóa nhỏ và thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa.
-
Thành
phần xã hội chủ nghĩa:
Thành phần xã hội chủ nghĩa trong nền
kinh tế quốc dân <ĐƯỢC> xây dựng bằng cách công hữu hóa xã hội chủ nghĩa
các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Có nghĩa là, bước đầu và quan trọng
nhất, chính quyền vô sản chiếm lấy các mạch máu của nền kinh tế quốc dân bằng
con đường quốc hữu hóa xã hội chủ nghĩa. Quốc hữu hóa xã hội chủ nghĩa là Nhà
nước vô sản dùng cách mạng để tịch thu tài sản của giai cấp bóc lột và biến nó
thành sở hữu nhà nước, sở hữu xã hội chủ nghĩa (tài sản toàn dân). Mọi tài sản
của giai cấp tư sản đều do nhiều thế hệ của giai cấp công nhân tạo ra, vì thế
khi cách mạng vô sản diễn ra thì giai cấp vô sản phải tịch thu mọi tư liệu sản
xuất của bọn tư bản, đấy là sự công bằng của lịch sử. Cái gì do nhân dân lao động
làm ra thì phải thuộc về nhân dân lao động.
Quốc hữu hóa xã hội chủ nghĩa đối với
tư liệu sản xuất, sẽ thủ tiêu được mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản – mâu
thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất và hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa. Quốc hữu hóa làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất của lực
lượng sản xuất và gạt bỏ được những vật chướng trở ngại con đường phát triển của
lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Quốc hữu hóa tư liệu sản xuất, sẽ thủ
tiêu được sự thống trị về kinh tế của giai cấp tư sản. Việc chuyển tư liệu sản
xuất vào tay nhân dân lao động, làm cho nhân dân trở thành chủ nhân của đất nước,
trở thành lực lượng kinh tế thống trị xã hội.
<TRƯỚC HẾT> phải quốc hữu hóa nền
đại công nghiệp, ngành ngân hàng, ngành vận tải đường sắt, thương nghiệp, bưu
điện, các đại xí nghiệp thương nghiệp, … quốc hữu hóa toàn bộ <HOẶC> một
phần ruộng đất.
Tùy theo hình thức và mức độ gay gắt
của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ mà việc quốc hữu hóa trong từng
nước có những đặc điểm riêng của nó. Ở Liên Xô, vì giai cấp tư sản tiến hành đấu
tranh vũ trang, âm mưu chống lại chính quyền Xô viết, do đó việc tiến hành quốc
hữu hóa không cần tiến hành bồi thường cho bọn chiếm hữu cũ. Nhưng trong các nước
xã hội chủ nghĩa Đông Âu, việc quốc hữu hóa các tư liệu sản xuất chủ yếu trng
công nghiệp, vận tải, bưu điện, quốc hữu hóa ngân hàng đều thực hiện bằng cách
chuộc lại một phần các xí nghiệp của bọn chủ xí nghiệp hạng trung và nhỏ, và
cũng chuộc lại các xí nghiệp của các nước tư bản đồng minh chống Đức Hit-le.
Các xí nghiệp của bọn chủ Đức, Ý và bọn tư bản trong nước hợp tác với bọn phát
xít đều bị quốc hữu hóa không bồi thường.
Ở Trung Quốc, chỉ tịch thu và chuyển
thành sở hữu Nhà nước đối với tài sản của giai cấp tư bản lũng đoạn, chỗ dựa của
chủ nghĩa đế quốc. Đại bộ phận xí nghiệp của giai cấp tư sản dân tộc đều được cải
tạo thành xí nghiệp quốc danh xã hội chủ nghĩa.
Nhờ Quốc hữu hóa những tư liệu sản xuất
quan trọng nhất và thực hiện nhiều biện pháp khác nên Nhà nước xã hội chủ nghĩa
xây dựng được thành phần kinh tế mới mà trước đây – trong xã hội tư bản – không
hề có, đó là thành phần kinh tế xã họi chủ nghĩa. Nó bao gồm các nhà máy, công
xưởng, ngân hàng, ngành vận tải, các nông trường quốc doanh, các xí nghiệp
thương nghiệp và các tổ chức hợp tác xã hội chủ nghĩa – hợp tác xã cung cấp,
tín dụng, tiêu dùng và sản xuất. Việc xây dựng thành phần kinh tế xã hội chủ
nghĩa mở đầu một công tác sáng tạo lớn lao của nhân dân trong quá trình xây dựng
nền tảng của kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Thành phần xã hội chủ nghĩa giữ địa vị
chủ đạo trong nền kinh tế của thời kỳ quá độ và tiến công từ từ trên khắp các mặt
trận của nền kinh tế quốc dân. Sở dĩ thành phần xã hội chủ nghĩa giữ địa vị chủ
đạo, vì nó bao gồm các ngành kinh tế có tính chất quyết định, nó có kỹ thuật cải
tiến và ngày càng hiện đại hóa. Thành phần đó là một kiểu quan hệ sản xuất tiến
bộ nhất. Ở đây không còn chế độ người bóc lột người.
Trong thành phần xã hội chủ nghĩa, sức
lao động không còn là hàng hóa, lao động của công nhân biến thành lao động cho
chính mình, cho xã hội. Những sản phẩm sản xuất ra đều mang tính sở hữu của
toàn thể nhân dân lao động.
Sự ra đời của thành phần xã hội chủ
nghĩa với sự thống trị của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất,
đã tạo ra những điều kiện kinh tế mới. Trên cơ sở những điều kiện kinh tế mới
đó, các quy luật kinh tế mới – quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội, ra đời,
phát triển và dần dần mở rộng phạm vi hoạt động. Các quy luật kinh tế của chủ
nghĩa tư bản dần mất tác dụng và cuối cùng sẽ biến mất.
-
Thành
phần sản xuất hàng hóa nhỏ và thành phần tư bản chủ nghĩa.
Thành phần sản xuất hàng hóa nhỏ là
kinh tế của nông dân và thợ thủ công dựa trên cơ sở chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất và lao động cá nhân. Ít nhiều nó có liên hệ với thị trường. Sản xuất hàng
hóa nhỏ dựa trên cơ sở chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, điều này làm cho nó gần
gũi với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhưng, mặt khác, tiểu nông lại quan tâm
đến việc thủ tiêu mọi hình thức bóc lột. Điều này làm cho nông dân lao động gẫn
gũi với giai cấp vô sản.
Trong nhiều nước xã hội chủ nghĩa ở
thời kỳ quá độ, thành phần sản xuất hàng hóa nhỏ bao gồm đa số nhân dân. Trong
quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa, nền sản xuất hàng hóa nhỏ được cải tạo
thành kinh tế xã hội chủ nghĩa bằng con đường hợp tác hóa (tập thể hóa).
Thành phần tư bản chủ nghĩa là nền
kinh tế xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và lao động làm
thuê. Nó là kinh tế của giai cấp phú nông ở nông thôn, những kẻ chiếm hữu các
xí nghiệp chưa quốc hữu hóa, chủ yếu là các xí nghiệp hạng nhỏ và hạng vừa ở
thành thị. Ở đây còn có bóc lột, sức lao động là hàng hóa. Giá trị thặng dư do
bọn chủ tư liệu sản xuất chiếm đoạt.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa, lúc đầu hạn
chế thành phần tư bản chủ nghĩa, nhất là hạn chế việc bóc lột sức lao động và về
sau thi hành chính sách thủ tiêu nó.
Các thành phần xã hội chủ nghĩa, sản
xuất hàng hóa nhỏ và tư bản chủ nghĩa là những thành phần cơ bản trong nền kinh
tế của thời kỳ quá độ. Ngoài các thành phần ấy ra, trong nền kinh tế của thời kỳ
quá độ còn có thể có kinh tế nông dân tự nhiên (kinh tế gia trưởng) và chủ
nghũa tư bản Nhà nước. Những thành phần này có thể có và cũng có thể không.
Ví dụ, ở Liên Xô trong thời kỳ quá độ
có thành phần kinh tế gia trưởng và chủ nghĩa tư bản Nhà nước dưới hình thức xí
nghiệp nhượng quyền kinh doanh mà chính quyền Xô viết cho tư bản ngoại quốc
thuê, và dưới một số hình thức khác. Nhưng trong nền kinh tế của Liên Xô, chủ
nghĩa tư bản Nhà nước không phát triển mấy.
Nhưng Chủ nghĩa tư bản Nhà nước được
phát triển ở Trung Quốc và một số nước Đông Âu.
<CUỐI CÙNG>. Nhiệm vụ của thời
kỳ quá độ là ra sức phát triển thành phần xã hội chủ nghĩa, thủ tiêu hoàn toàn
thành phần tư bản chủ nghĩa, cải tạo thành phần sản xuất hàng hóa nhỏ thành
hình thức kinh tế xã hội chủ nghĩa đảm bảo sự thống trị tuyệt đối của những
hình thức kinh tế xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng của chủ nghĩa xã hội.
4.
Các
giai cấp trong thời kỳ quá độ.
Thích ứng với các thành phần kinh tế
thời kỳ quá độ, có những giai cấp sau đây:
-
Thành
phần xã hội chủ nghĩa : giai cấp công nhân, cũng như nông dân đã vào hợp tác xã
xã hội chủ nghĩa.
-
Thành
phần sản xuất hàng hóa nhỏ: Bần nông và trung nông ở nông thôn, thợ thủ công ở
thành thị.
-
Thành
phần tư bản chủ nghĩa: Giai cấp tư sản ở thành thị và phú nông ở nông thôn.
Đó là kết cấu giai cấp trong thời kỳ
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Đồng thời địa vị của các giai cấp
trong thời kỳ này đã thay đổi căn bản so với địa vị của họ dưới chế độ tư bản
chủ nghĩa.
Giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản
chủ nghĩa: là một giai cấp bị áp bức, bóc lột; nhưng sau khi thiết lập nền
chuyên chính vô sản, nó giữ lại địa vị lãnh đạo trong xã hội. Nó trở thành giai
cấp thống trị, nắm chính quyền Nhà nước và cùng với toàn thể nhân dân lao động
làm chủ các tư liệu sản xuất đã công hữu hóa.
Giai cấp nông dân: được giải phóng khỏi
bọn chiếm hữu nhiều ruộng đất, được Nhà nước xã hội chủ nghĩa chia ruộng đất,
được bảo vệ khỏi sự bóc lột của phú nông, được giúp đỡ trong việc tập thể hóa.
Trong chính sách của mình đối với nông dân trong thời kỳ quá độ, Nhà nước xã hội
chủ nghĩa tuân theo lời chỉ dạy của Lenin: <liên minh với trung nông, dựa
vào bần nông và đấu tranh với phú nông>. Thực hiện chính sách ấy, sẽ làm cho
quần chúng nông dân cơ bản trở thành người bạn đồng minh của giai cấp công nhân
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Giai cấp công nhân và nông dân là hai
giai cấp cơ bản của thời kỳ quá độ. Ngoài nông dân ra, giai cấp công nhân còn
đoàn kết xung quanh mình <MỌI> tầng lớp nhân dân lao động khác – giới trí
thức lao động, thợ thủ công thành thị.
Giai cấp tư sản: mất chính quyền và
các tư liệu sản xuất chủ yếu, không còn là giai cấp thống trị trong thời kỳ quá
độ nữa. Nhưng trong nhiều năm của thời kỳ quá độ, giai cấp tư sản vẫn còn một lực
lượng khá lớn. Đó là do nền sản xuất hàng hóa nhỏ tự phát đẻ ra chủ nghĩa tư bản
trong một phạm vi rộng lớn. Như Lenin gọi <giai cấp tư sản là CON ĐẺ của nền
sản xuất nhỏ>. Giai cấp tư sản, sau khi mất địa vị thống trị, nó vẫn được sự
ủng hộ tư bản quốc tế.
5.
Những
mâu thuẫn của thời kỳ quá độ.
Nền kinh tế nhiều thành phần của thời
kỳ quá độ và sự tồn tại của các giai cấp thù địch, đã sinh ra các mâu thuẫn.
Thành phần xã hội chủ nghĩa trong thời
kỳ quá độ chưa phải là một thành phần phổ biến bao trùm lên tất cả, nó
<KHÔNG BAO GỒM> mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, nhất là <KHÔNG
BAO GỒM> toàn bộ nông nghiệp. Chừng nào chủ nghĩa tư bản còn tồn tại thì nó
còn đấu tranh chống chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, Lenin đã vạch ra rằng, thời kỳ
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội “không thể không phải là thời kỳ
đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản giãy chết và chủ nghĩa cộng sản mới ra đời; -
hay nói một cách khác: giữa chủ nghĩa tư bản bại trận, nhưng chưa bị tiêu diệt
và chủ nghĩa cộng sản mới ra đời, nhưng vẫn còn rất yếu”. (Lenin toàn tập, tập
30).
Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa tư bản là mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ. Việc giải quyết vấn đề đấu
tranh “ai thắng ai” sẽ diễn ra trong cuộc đấu tranh giai cấp khốc liệt.
Kết quả cuộc đấu tranh ấy, <QUYẾT
ĐỊNH> ở chỗ ai lôi kéo được nông dân đi theo mình.
Chính sách đúng đắn của các đảng cộng
sản và công nhân, chính sách liên minh vững chắc về kinh tế và chính trị của
giai cấp công nhân với nông dân, làm cho giai cấp vô sản lôi kéo được nông dân
lao động đi theo mình. Điều đó quyết định thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trong
cuộc đấu tranh với chủ nghĩa tư bản.
Bên cạnh mâu thuẫn cơ bản, trong thời
kỳ quá độ còn có các mâu thuẫn khác nữa. Như, trong nhiều nước có mâu thuẫn giữa
chế độ chính trị tiên tiến với sự lạc hậu về kinh tế và kỹ thuật. Ở Liên Xô có
mâu thuẫn ấy trong thời kỳ quá độ. Trong đa số các nước dân chủ nhân dân cũng
có mâu thuẫn đó, tuy nhiên ở những mức độ khác nhau. Trong thời quá độ còn có
mâu thuẫn giữa nền đại công nghiệp xã hội chủ nghĩa thống nhất và nền kinh tế
tiểu nông, tư hữu và phân tán.
Tất cả mâu thuẫn ấy chỉ có thể giải
quyết trong chính sách kinh tế của Nhà nước vô sản trong thời kỳ quá độ.
6.
Chính
sách kinh tế trong thời kỳ quá độ và kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội của
Lenin.
Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, cần
phải vạch ra và thực hiện một chính sách kinh tế phù hợp, tức là tổng hợp các
biện pháp của Nhà nước vô sản <NHẰM THỦ TIÊU YẾU TỐ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA VÀ ĐẢM
BẢO THẮNG LỢI CHO CHỦ NGHĨA XÃ HỘI>.
Chính sách kinh tế trong thời kỳ quá
độ nhằm củng cố khối liên minh công nông, củng cố nền chuyên chính vô sản, phát
triển lực lượng sản xuất trong nước. Chính sách đó cho phép <CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
TỒN TẠI TRONG NHỮNG GIỚI HẠN NHẤT ĐỊNH> với điều kiện Nhà nước vô sản nắm lấy
các mạch máu của nền kinh tế quốc dân: chính sách đó <PHẢI> tính toán đến
các cuộc đấu tranh của các yếu tố xã hội chủ nghĩa chống các yếu tố tư bản chủ
nghĩa; chính sách đó nhằm tiêu diệt các giai cấp bóc lột và xây dựng chủ nghĩa
xã hội.
Nhà nước Xô viết bắt đầu thực hiện
chính sách kinh tế ấy từ mùa xuân 1918, nhưng do ảnh hưởng của Nội chiến và cuộc
can thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc, sự tàn phá của chiến tranh, Nhà nước Xô
viết <BẮT BUỘC> phải chuyển sang chính sách “chủ nghĩa Cộng sản thời chiến”.
Trong thời kỳ “chủ nghĩa Cộng sản thời
chiến”, chính quyền Xô viết lấy hậu phương phục vụ tiền tuyến: tiến hành quốc hữu
hóa toàn bộ ngành công nghiệp, trong đó có công nghiệp hạng nhỏ và hạng vừa, cấm
tư thương, thực hiện chế độ trưng thu lương thực thừa, tức là trưng thu các
nông phẩm thừa của nông dân để cung cấp cho quân đội và công nhân. Do những điều
kiện khó khăn của Nội chiến và sự can thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc, Chính
phủ Xô viết thi hành chế độ cung cấp theo phiếu và nghĩa vụ lao động chung đối với
tất cả giai cấp. Toàn bộ những biện pháp đó của Chính phủ, gọi là chính sách
“chủ nghĩa Cộng sản thời chiến”. Chính sách “chủ nghĩa Cộng sản thời chiến” là
một chính sách <BẮT BUỘC> và <TẠM THỜI>, nhằm giành thắng lợi cho
Nhà nước Xô viết trong những điều kiện khó khăn của Nội chiến và Sự can thiệp
vũ trang của 14 nước đế quốc.
Ngay sau khi thắng lợi trong Nội chiến
và sự can thiệp vũ trang của nước ngoài, năm 1921, chính quyền Xô viết chuyển
sang thi hành chính sách kinh tế đã được công bố hồi mùa xuân 1918. Khác với
chính sách “chủ nghĩa Cộng sản thời chiến”, chính sách này gọi là chính sách
kinh tế mới (gọi là NEP). Việc thay thế chế độ trưng thu lương thực thừa bằng
thuế lương thực, mở đầu cho việc chuyển sang chính sách kinh tế mới. Thuế lương
thực thấp hơn chế độ trưng thu lương thực thừa. Tất cả mọi thứ còn lại sau khi
nộp thuế lương thực cho Nhà nước, đều thuộc quyền sử dụng của nông dân. Nông
dân có thể tự do buôn bán lương thực thừa. Để làm cho nông dân quan tâm đến sản
xuất, phát triển nông nghiệp, khôi phục công nghiệp nặng và nhẹ, tích lũy nhân
lực và tài lực <ĐỂ TỪNG BƯỚC> chuyển sang một cuộc tấn công quyết định
vào tàn tích chủ nghĩa tư bản trong nước. Bước đầu cần thiết phải thực hiện thuế
lương thực và cho phép tư nhân buôn bán.
Chính sách kinh tế mới của thời kỳ
quá độ ở Liên Xô được vạch ra và thực hiện trong vòng vây tư bản chủ nghĩa và
xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện của một nước riêng lẻ. Tình hình đó
có ảnh hưởng nhất định đến việc thực hiện chính sách đó ở Liên Xô.
Chính sách kinh tế mới là biểu hiện cụ
thể của kế hoạch xây dựng Chủ nghĩa xã hội của Lenin.
Lenin đã vạch ra một kế hoạch có cơ sở
khoa học về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, nhằm khắc phục sự lạc hậu về
kinh tế và kỹ thuật của nước Nga Xô viết, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa, cải tạo xã hội chủ nghĩa nền nông nghiệp và thực hiện cuộc cách mạng văn
hóa. Kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội của Lenin được phản ánh và tiếp tục
phát triển trong các nghị quyết của Đảng Cộng sản Liên Xô về sau.
7.
Công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Một trong những bộ phận cấu thành
quan trọng nhất của kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội của Lenin là công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng
trên cơ sở một <NỀN SẢN XUẤT LỚN> bằng máy móc trong mọi lĩnh vực của nền
kinh tế quốc dân. Lenin viết : “Cơ sở vật chất duy nhất của chủ nghĩa xã hội chủ
nghĩa chỉ có thể là một nền đại công nghiệp cơ khí <CÓ KHẢ NĂNG> cải tạo
cả nông nghiệp”. (Lenin toàn tập, tập 32)
<NHƯNG> đa số các nước đi vào
con đường chủ nghĩa xã hội (trong đó có Việt Nam) không được chủ nghĩa tư bản để
lại cho di sản cơ sở kỹ thuật và vật chất phát triển như thế. Thực tế, là chủ
nghĩa tư bản trước Cách mạng tháng Mười, chỉ có thể, thực hiện công nghiệp hóa ở
một số ít nước với khoảng 15% dân số thế giới.
Vì thế, đối với tất cả các nước muốn
xây dựng theo đường lối xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hóa là điều <VÔ CÙNG CẦN
THIẾT>.
Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là sự
phát triển nền đại công nghiệp, trước hết là công nghiệp nặng <CÓ THỂ> cải
tạo về căn bản toàn bộ nền kinh tế quốc dân, kể cả nông nghiệp, trên cơ sở kỹ
thuật cơ khí tiên tiến.
Khâu <TRUNG TÂM> của công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa là ưu tiên phát triển ngành công nghiệp nặng sản xuất ra
tư liệu sản xuất: kim loại, nhiên liệu, máy móc và thiết bị, vật liệu xây dựng.
Việc xây dựng ngành chế tạo máy móc hiện đại – trung tâm của công nghiệp, có một
ý nghĩa đặc biệt lớn lao.
Quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa sẽ tạo ra cơ sở vật chất để phát triển các hình thức kinh tế xã hội chủ
nghĩa: xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã trong công nghiệp và nông nghiệp.
Công nghiệp hóa sẽ làm cho các hình thức kinh tế đó chiếm được ưu thế kỹ thuật
cần thiết để hoàn toàn chiến thắng nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và nền sản xuất
hàng hóa nhỏ.
Thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa là <CÁI CHÌA KHÓA> để giải quyết mọi nhiệm vụ cơ bản của công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội: thủ tiêu hoàn toàn thành phần tư bản chủ nghĩa, khắc
phục sự lạc hậu về kinh tế và kỹ thuật đất nước.
Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa có một
ý nghĩa <HẾT SỨC QUAN TRỌNG> đối với Liên Xô.
Đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa của Liên Xô, được Đại hồi lần IV của Đảng Cộng sản Liên Xô thông qua vào
năm 1925. Đại hội coi việc công nghiệp hóa đất nước trong thời kỳ lịch sử ngắn
là <NHIỆM VỤ TRUNG TÂM> của Đảng.
Cần phải thực hiện công nghiệp hóa đất
nước trong thời gian ngắn là vì:
-
Liên
Xô là một nước lạc hậu về kinh tế và kỹ thuật so với các nước tư bản phát triển
-
Liên
Xô là một nước tiểu nông, trong đó cơ sở kinh tế cho chủ nghĩa tư bản vững chắc
hơn chủ nghĩa xã hội.
-
Liên
Xô nằm trong vòng vây các nước tư bản chủ nghĩa đang âm mưu tiêu diệt hoặc làm
suy yếu nhà nước Xô viết.
Đồng chí Stalin đã nhận định: “Chúng
ta lạc hậu hơn các nước tiên tiến trong vòng 50 - 100 năm. Chúng ta phải vượt
qua khoảng cách ấy trong vòng 10 năm. Hoặc chúng ta sẽ làm như vậy, hoặc chúng
ta sẽ bị nghiền nát”. (Stalin toàn tập, tập 3)
Tất cả điều đó đòi hỏi phải tiến hành
công nghiệp hóa với tốc độ cao. Và <CHỈ CÓ THỂ> làm được điều đấy do tính
chất ưu việt của chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa và do những đặc điểm của
phương pháp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Sự thống trị của chế độ công hữu xã hội
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, cho phép ta bắt đầu công nghiệp hóa đất nước từ
phát triển công nghiệp nặng, chứ không phải từ công nghiệp nhẹ như các nước tư
bản chủ nghĩa thường làm. Chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa có khả năng huy động
đến mức tối đa các nguồn vốn trong nước và sử dụng nó vào việc phát triển trước
tiên là nền đại công nghiệp cơ khí.
Nguồn <VỐN> chủ yếu của công
nghiệp hóa ở Liên Xô là khoản thu nhập của nền công nghiệp đã quốc hữu hóa,
nông nghiệp, của nội – ngoại thương, của hệ thống ngân hàng. Tất cả những nguồn
tích lũy nội bộ ấy đã cung cấp hàng chục tỷ rúp cho việc công nghiệp hóa đất nước,
do đó có thể tiến hành đầu tư cơ bản rất lớn vào công nghiệp, nhất là công nghiệp
nặng.
Trong các kế hoạch 5 năm trước Chiến
tranh vệ quốc vĩ đại, đã xây dựng những ngành công nghiệp mới như: máy kéo, ô
tô, hóa chất, chế tạo máy cày, hàng không … Có hàng nghìn nhà máy, công xưởng bắt
đầu hoạt động. Các xí nghiệp mới chiếm phần chủ yếu trong tổng sản lượng công
nghiệp. Năm 1937, các xí nghiệp mới hoặc các xí nghiệp được xây lại căn bản
trong hai kế hoạch 5 năm đầu tiên, đã sản xuất ra trên 80% tổng sản lượng.
Do thực hiện thắng lợi cương lĩnh
công nghiệp hóa, nên hai kế hoạch 5 năm đầu tiên, Liên Xô đã từ một nước lạc hậu
nông nghiệp chiếm ưu thế, biến thành một cường quốc công nghiệp hùng mạnh. Tỷ
trọng của đại công nghiệp trong toàn bộ tổng sản lượng đã từ 42,1% năm 1913
tăng lên đến 77,4% năm 1937. Đến cuối kế hoạch 5 năm lần hai, về khối lượng sản
phẩm công nghiệp Liên Xô đứng đầu châu Âu và đứng thứ hai thế giới.
Sự phát triển thắng lợi của sự nghiệp
công nghiệp hóa ở Liên Xô, đã thủ tiêu được mâu thuẫn giữa chính quyền tiên tiến
nhất (của giai cấp vô sản) với cơ sở kinh tế kỹ thuật lạc hậu do nước Nga Sa
hoàng để lại.
8.
Cải
tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp.
Một trong những biện pháp đầu tiên của
chính quyền vô sản trong các nước đi theo con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa
là tiến hành <CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT> bằng cách tịch thu ruộng đất (chứ ko phải
đấu tố) của bọn bóc lột và giao cho nông dân lao động.
Khi vạch ra cương lĩnh ruộng đất của
Đảng Cộng sản, Lenin đã nhìn thấy trước rằng trong các nước khác nhau, cải cách
ruộng đất có thể tiến hành bằng quốc hữu hóa toàn bộ ruộng đất, cũng như bằng
cách giao ruộng đất cho nhân dân làm của riêng.
Sự tiên đoán đó của Lenin đã được
kinh nghiệm lịch sử của chuyên chính vô sản xác nhận. Trong lịch sử Liên Xô,
ngay sau khi Cách mạng tháng Mười thắng lợi, đã tiến hành quốc hữu hóa toàn bộ
ruộng đất. Ruộng đất được giao cho nông dân sử dụng vĩnh viễn và không phải trả
tiền, nhưng người sở hữu vẫn là Nhà nước. Trong các nước khác, đặc biệt là
phương Đông, ruộng đất tịch thu của bọn chiếm hữu nhiều ruộng đất, phần lớn đem
chia cho nông dân làm của riêng, chỉ quốc hữu hóa một phần để xây dựng các xí
nghiệp quốc doanh.
Nhưng bản thân việc quốc hữu hóa ruộng
đất cũng như việc chia ruộng đất cho nông dân, <KHÔNG SINH RA> quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa ở nông thôn.
Hình thức kinh tế thống trị ở nông
thôn sau cải cách ruộng đất, vẫn là kinh tế nông dân tiểu tư hữu. Chủ nghĩa xã
hội đòi hỏi công hữu hóa tư liệu sản xuất không chỉ trong công nghiệp mà cả
trong nông nghiệp.
Sở dĩ cần phải chuyển sang nền đại sản
xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp, là vì chủ nghĩa xã hội <KHÔNG THỂ
XÂY DỰNG> dựa trên hai cơ sở đối lập nhau: trên cơ sở đại công nghiệp xã hội
chủ nghĩa và trên cơ sở kinh tế tiểu nông lạc hậu và phân tán. Tính chất phân
tán, tản mạn của kinh tế tiểu nông ngăn cản việc sử dụng máy móc và kỹ thuật
canh tác tiên tiến một cách đồng bộ. Kinh tế tiểu nông cung cấp ít sản phẩm
hàng hóa hơn, bởi vì năng suất lao động của nó thấp hơn.
Trong tình hình ấy, không thể đảm bảo
cung cấp đầy đủ lương thực cho nhân dân các thành phố công nghiệp đang ngày
càng phát triển, nguyên liệu nông nghiệp cho công nghiệp ngày càng phát triển.
Và cũng không thể nâng cao căn bản phúc lợi của bản thân người nông dân. Khi vạch
rõ sự cần thiết phải chuyển sang nền đại sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nông thôn,
Lenin nói rằng: “với nền kinh tế nhỏ thì không thể thoát nghèo nàn”.
Con đường và phương pháp cải tạo xã hội
chủ nghĩa đối với nông nghiệp, đã được Lenin vạch ra trong kế hoạch hợp tác xã
của Người.
Sau khi chỉ rõ rằng sự phát triển của
chế độ hợp tác trong nền chuyên chính vô sản và của chế độ sở hữu Nhà nước về
những tư liệu sản xuất quan trọng nhất là nhất trí với sự phát triển của chủ
nghĩa xã hội, Lenin đã vạch ra sự khác nhau căn bản, có tính chất nguyên tắc của
chế độ hợp tác trong điều kiện chuyên chính vô sản <KẾT HỢP> với chế độ hợp
tác trong điều kiện chủ nghĩa tư bản. Việc chuyển nông dân sang nền đại sản xuất
hợp tác (tập thể hóa), sẽ tạo khả năng trang bị cho nông nghiệp kỹ thuật mới, kỹ
thuật cơ khí.
Đồng thời, hợp tác hóa là con đường
tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách đơn giản nhất, nhẹ nhàng nhất và dễ tiếp thu
nhất đối với nông dân. Lenin đã nói rằng hợp tác xã là một hình thức xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nông thôn mà “bất cứ người tiểu nông nào” cũng có thể tham
gia được.
Căn cứ vào đó, Lenin cho rằng ra sức
mở rộng việc hợp tác hóa nông dân là nhiệm vụ hết sức quan trọng của công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Lenin cũng đã vạch ra những phương
pháp cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp. Người đã chứng minh nguyên tắc
tự nguyện như sau:
-
Không
thể dùng bạo lực ràng buộc nông dân vào những hình thức kinh doanh xã hội chủ
nghĩa, không thể dùng mệnh lệnh đối với phong trào hợp tác hóa.
-
Tiến
hành hợp tác hóa theo từng bước, bắt đầu từ những hình thức đơn giản nhất. Từ hợp
tác xã tiêu dùng, mua bán, tín dụng đến hợp tác xã sản xuất giản đơn, từ hợp
tác xã sản xuất giản đơn đến hợp tác xã kiểu xã hội chủ nghĩa – đó là con đường
rộng rãi thênh thang đưa nông dân lên chủ nghĩa xã hội. (có thể ban đầu sử dụng
hình thức ác-ten nông nghiệp, sau đó là lên các nông trang tập thể)
Sự phát triển của các hình thức hợp
tác giản đơn nhất trong lĩnh vực cung cấp, tiêu thụ và tín dụng, những kinh
nghiệm tốt về sự hoạt động của các đơn vị kinh tế quốc doanh và tập thể đầu
tiên, đã thực tế <VẠCH> cho nông dân thấy rõ tính ưu việt của nền đại sản
xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp, gây cho họ những thói quen làm ăn tập
thể.
Những điều kiện <QUAN TRỌNG NHẤT>
để thực hiện thắng lợi việc hợp tác hóa nông nghiệp, là sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân và sự giúp đỡ mọi mặt của Nhà nước vô sản đối với công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nông thôn. Sự giúp đỡ của Nhà nước biểu hiện dưới các hình
thức: giao cho nông dân sử dụng máy móc công nghiệp mới, các máy kéo, cho vay
tiền và giống …
Kế hoạch hợp tác xã của Lenin, lần đầu
tiên được thực hiện ở Liên Xô. Công tác tổ chức và giáo dục rộng lớn của Đảng
và Nhà nước Xô viết, đã đưa đến kết quả là trong 6 tháng cuối năm 1929, nông
dân Liên Xô đã chuyển biến căn bản về phía nông trang tập thể. Trung nông, tức
quần chúng nông dân cơ bản, cũng vào nông trang tập thể. Thế là trong nông thôn
Xô viết bắt đầu quá trình tập thể hóa toàn bộ. Trên cơ sở tập thể hóa toàn bộ,
đã tiêu diệt về mặt giai cấp của lực lượng bóc lột đông đảo nhất trong cả nước,
đó là phú nông (ku-lắc). Vấn đề “ai thắng ai” đã được giải quyết thành công, có
lợi cho chủ nghĩa xã hội chẳng những ở thành thị mà cả ở nông thôn.
Việc tập thể hóa toàn bộ đã tạo cho
chính quyền Xô viết một cơ sở xã hội chủ nghĩa trong ngành kinh tế quốc dân cần
thiết nhất, rộng rãi nhất và cũng là lạc hậu nhất, tức nông nghiệp. Nông nghiệp
bắt đầu phát triển trên cơ sở giống như công nghiệp – cơ sở chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất (NHƯNG chỉ tồn tại dưới hình thức sở hữu tập thể chứ không phải
toàn dân).
Hình thức chủ yếu của kinh tế tập thể
ở nông thôn Liên Xô lúc này là ác-ten nông nghiệp, tức là một hình thức kinh
doanh tập thể xây dựng trên cơ sở công hữu hóa những tư liệu sản xuất <CHỦ YẾU>
của nông dân, và trên cơ sở lao động tập thể của nông dân <ĐỒNG THỜI> còn
duy trì kinh tế phụ cá nhân của các nông trang viên. Ác-ten nông nghiệp bảo đảm
kết hợp đúng đắn lợi ích cá nhân của nông trang viên với lợi ích công cộng và
thúc đẩy tốt việc phát triển lực lượng sản xuất trong nông nghiệp.
Chỉ trong vài năm, công cuộc tập thể
hóa ở Liên Xô đã xây dựng một nền nông nghiệp xã hội chủ nghĩa mạnh nhất trên
thế giới, dựa trên cơ sở kỹ thuật cao, cung cấp cho nhà nước nhiều sản phẩm
hàng hóa hơn. Nó đã mở đường nâng cao không ngừng phúc lợi của nông dân trong
nông trang tập thể.
Tuy nhiên, tùy ở những điều kiện thực
tế khác nhau, việc tập thể hóa đòi hỏi cần thêm một số biện pháp khác nhau. Một
số trường hợp diễn ra ở các nước xã hội chủ nghĩa khác mà ở Liên Xô không có.
Trong các đơn vị kinh tế hợp tác ấy, ruộng đất vẫn còn là sở hữu của nông dân
xã viên nên thu nhập không những phải phân phối theo lao động, mà còn theo số
lượng và chất lượng ruộng đất đã được đưa vào hợp tác xã.
9.
Cách
mạng văn hóa.
Bản chất của chủ nghĩa xã hội đẻ ra sự
cần thiết phải giáo dục toàn diện cho nhân dân lao động. Nhân dân lao động sở
dĩ phải nắm lấy chính quyền là cốt để đảm bảo cho mình một đời sống tinh thần
và vật chất đầy đủ.
Đồng thời, chính bản thân những nhu cầu
của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa cũng đòi hỏi phải nâng cao bằng mọi cách
trình độ văn hóa và giáo dục của nhân dân lao động. Muốn đưa nền sản xuất xã hội
chủ nghĩa tiến lên, thì cần phải có công nhân lành nghề, được giáo dục và có
trình độ giác ngộ. Do đó, dù đứng về mặt nào để xem xét vấn đề ấy đi nữa, chúng
ta phải đi đến một kết luận: giai cấp công nhân sau khi nắm được chính quyền, cần
phải quan tâm đến việc tổ chức giáo dục, học tập và đào tạo người xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Giai cấp tư sản, và trước đó là nhà
nước phong kiến đã để lại cho Nhà nước xã hội chủ nghĩa một sự dốt nát và nạn
mù chữ. Do đó, trong thời kỳ đầu, giai cấp vô sản phải thực hiện những biện
pháp cách mạng và kiên quyết đấu tranh chống nạn mù chữ và thiếu văn hóa trong
các tầng lớp nhân dân lao động đông đảo ở thành thị và nông thôn. Chính vì vậy
mà Lenin coi việc xóa nạn mù chữ, thực hiện giáo dục phổ cập và các biện pháp
văn hóa giáo dục khác, là một cuộc cách mạng văn hóa.
Trong thời kỳ lịch sử rất ngắn, Liên
Xô đã thành lập một hệ thống giáo dục mới của nền giáo dục quốc dân; đã thực hiện
hệ thống trường học phổ thông gồm có trường tiểu học, trường 7 năm và trường
trung học. Trong các trường học đã thi hành chế độ miễn phí và dùng tiếng mẹ đẻ.
Những thành tích phát triển kinh tế,
đã chuẩn bị điều kiện để thực hiện một chế độ giáo dục tiểu học phổ cập bắt buộc.
Năm 1930, thực hiện chế độ giáo dục tiểu học bắt buộc là một bước quyết định nhằm
nâng cao học vấn của nhân dân Liên Xô. Chỉ trong vòng một kế hoạch 5 năm
(1933-1938), ở Liên Xô đã xây dựng 20.000 trường học, tức là gần bằng số trường
xây dựng trong 200 năm dưới chế độ Sa hoàng.
Đến năm 1930, đã tiêu diệt được nạn
mù chữ phổ biến trong số người lớn. Trong những năm dưới chính quyền Xô viết,
hơn 40 dân tộc, trước kia không có chữ viết, lần đầu tiên đã có chữ viết của
mình. Trình độ kỹ thuật và chuyên môn của giai cấp công nhân cũng tăng lên rõ rệt.
Trong ngành giáo dục chuyên nghiệp
trung cấp và cao cấp cũng đã thực hiện nhiều biện pháp lớn lao, cho nên trong một
thời kỳ ngắn, đã có thể đào tạo nhiều thế hệ cán bộ Xô viết mới. Mạng lưới các
cơ quan khoa học được xây dựng.
Thực hiện cách mạng văn hóa là một
trong những bộ phận cấu thành của công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa.
10.
Thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
Nhờ có những cuộc cải tạo cách mạng
căn bản trong kinh tế, văn hóa và chế độ chính trị, tiến hành trong thời kỳ quá
độ, nên đã xây dựng được một xã hội mới. Chủ nghĩa xã hội đã thắng lợi.
Chủ nghĩa xã hội thắng lợi, có nghĩa
là xây dựng được sự thống trị của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất thay thế cho chế độ tư hữu.
Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa (biểu hiện
ở các xí nghiệp lớn xã hội chủ nghĩa đã cơ khí hóa) chiếm địa vị thống trị ở
thành thị và nông thôn thay cho nền kinh tế nhiều thành phần.
Trên cơ sở đấy, tiêu diệt về mặt giai
cấp của các lực lượng bóc lột, thủ tiêu chế độ người bóc lột người, trừ bỏ những
nguyên nhân hình thành sự bóc lột đấy.
Toàn bộ sinh hoạt và kinh tế đều do
các kế hoạch Nhà nước quyết định và hướng dẫn.
Cạnh tranh, sản xuất vô chính phủ và
khủng hoảng kinh tế đã bị thủ tiêu.
Nền sản xuất xã hội được tổ chức theo
lợi ích nhân dân lao động.
Thu nhập được phân phối cho những người
lao động trong xã hội chủ nghĩa <THEO> số lượng và chất lượng lao động đã
hao phí. Xác định nguyên tắc “ai không làm thì đừng ăn” tức là “làm theo năng lực
hưởng theo LAO ĐỘNG”.
Tình hình của nhân dân lao động có
nhiều thay đổi căn bản. Giai cấp công nhân và nông dân từ chỗ là giai cấp bị
bóc lột và nghèo khổ thành chủ nhân của đất nước. Cảnh bần cùng và thất nghiệp ở
thành thị và nông thôn đã bị xóa bỏ hoàn toàn. Thắng lợi của chủ nghĩa xã hội
đã tạo ra điều kiện để không ngừng nâng cao mức sống vật chất và trình độ văn
hóa của nhân dân lao động.
Năm 1937, ở Liên Xô, nhờ hoàn thành cải
tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân, nên căn bản đã xây dựng xong xã hội
xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng của Lenin về khả năng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội
trong một nước, đã toàn thắng.
Thay đổi của chủ nghĩa xã hội đã dẫn đến
những thay đổi căn bản trong kết cấu giai cấp của Liên Xô. Giai cấp bóc lột đã
bị tiêu diệt và xã hội xã hội chủ nghĩa chỉ gồm có hai giai cấp là công nhân –
nông dân, cùng tầng lớp trí thức vô sản.
Thắng lợi của chủ nghĩa xã hội đã
thay đổi về căn bản tính chất và địa vị của giai cấp công nhân, nông dân và trí
thức.
Giai cấp công nhân không còn là giai
cấp bị tước mất tư liệu sản xuất nữa. Nó biến thành một giai cấp đã thoát khỏi
bóc lột và cùng với toàn thể nhân dân làm chủ các tư liệu sản xuất chủ yếu. Nó
trở thành một giai cấp tiền tiến, trở thành lực lượng lãnh đạo sự phát triển xã
hội.
Giai cấp nông dân, từ một giai cấp sản
xuất nhỏ phân tán đã biến thành một giai cấp hoàn toàn mới, thoát khỏi bóc lột.
Nằm trong khối liên minh chặt chẽ với giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân, nông dân nông trang tập thể tích cực tham gia vào việc quản
lý nhà nước.
Thắng lợi của chủ nghĩa xã hội thủ tiêu
sự bất bình đẳng về kinh tế và chính trị giữa các dân tộc, đã thủ tiêu sự đối lập
lâu đời giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động chân tay.
Sự thống trị của chế độ công hữu xã hội
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất là cơ sở kinh tế để mở rộng những động lực phát
triển xã hội mạnh mẽ như sự thống nhất về tinh thần và chính trị của xã hội xã
hội chủ nghĩa, tình hữu ái giữa các dân tộc Xô viết. Những động lực ấy ảnh hưởng
đến kinh tế rất nhiều và thúc đẩy kinh tế phát triển.
Những thay đổi căn bản trong kinh tế
và trong kết cấu giai cấp của xã hội đã phản ánh vào trong lĩnh vực kiến trúc
thượng tầng Nhà nước. Do có những thay đổi trong lĩnh vực chính trị và kinh tế,
năm 1936, ở Liên Xô đã thông qua bản Hiến pháp xã hội chủ nghĩa. Bản Hiến pháp
này đã củng cố về mặt pháp luật các nguyên tắc và nền tảng của chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trong
quá trình khắc phục nhiều khó khăn và trong cuộc đấu tranh giai cấp khốc liệt.
Khó khăn của Liên Xô là rất lớn, vì Liên Xô xây dựng xã hội chủ nghĩa trong điều
kiện bị chủ nghĩa tư bản bao vây. Bọn đế quốc nước ngoài đã ủng hộ và xúi dục các
giai cấp bóc lột trong nước chống đối chính quyền.
Thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xô có một ý nghĩa quốc tế to lớn. Nó là một đòn đả kích giáng vào hệ thống tư bản
chủ nghĩa thế giới. Trong một thời kỳ lịch sử rất ngắn, chủ nghĩa xã hội đã tỏ
ra hơn hẳn chủ nghĩa tư bản. Nếu như chủ nghĩa tư bản cần 100 năm để chứng minh
được tính hơn hẳn của nó với chế độ phong kiến, thì chủ nghĩa xã hội chỉ mất 20
năm đã chứng minh được tính hơn hẳn không thể chối cãi của nó đối với chủ nghĩa
tư bản. Điều đó đã củng cố lòng tin của quần chúng lao động vào lực lượng của
giai cấp công nhân, vào thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới.
#Gấu