I.V. Usov, NHỮNG NGƯỜI CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐẦU TIÊN TẠI ĐẠI HỘI VI CỦA QUỐC TẾ CỘNG SẢN

HÌNH THÀNH QUAN ĐIỂM VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CUỘC ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG TRONG GIỚI TRÍ THỨC CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Đại hội VI của Quốc tế Cộng sản diễn ra từ ngày 17 tháng 7 đến ngày 1 tháng 9 năm 1928 tại Moscow. Trong số các đại biểu có những người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Vì một chính đảng cộng sản chưa tồn tại ở Việt Nam, nên những người Việt Nam đã tham gia đại hội với tư cách là thành viên của phái đoàn Đảng Cộng sản Pháp (PCF). Không lâu trước đại hội, vào tháng 4 năm 1928, một nhóm cộng sản Việt Nam đã được thành lập trong PCF dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Văn Tạo, về cơ bản là tổ chức cộng sản đầu tiên của thuộc địa. Phái đoàn của PCF bao gồm ba người Việt Nam là Nguyễn Thế Vinh, Trần Thiều Ban và Nguyễn Văn Tạo. Người sau đã trình bày một bản báo cáo tại Đại hội VI. Do đó, Nguyễn Văn Tạo trở thành người cộng sản thứ hai từ Đông Dương đã từng phát biểu tại các đại hội của Quốc tế Cộng sản (người đầu tiên là Hồ Chí Minh, người đã tham gia các cuộc tranh luận của đại hội).

Bài phát biểu của Nguyễn Văn Tạo rất quan trọng để hiểu được sự phát triển của phong trào cộng sản Việt Nam vì một số yếu tố. Trước hết, cuối những năm 1920 là giai đoạn giới trẻ dân tộc chủ nghĩa Việt Nam chuyển sang các hình thức chủ nghĩa Mác cách mạng. Vì vậy, cần phải xem xét những câu hỏi nào được những người cộng sản trẻ tuổi đặt ra trước hết, họ đã phân tích tình hình trong nước như thế nào và những hình thức đấu tranh nào được họ đặt lên hàng đầu. Đại hội VI là đại hội cuối cùng trước khi thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương , tức là những thiết lập và tâm trạng của nó đã trở thành quyết định cho việc hình thành đường lối chiến thuật và chiến lược của đảng cộng sản thuộc địa trong những năm đầu tồn tại của nó. Lý do quan trọng thứ ba khiến bản báo cáo này xứng đáng được chú ý đặc biệt là Nguyễn Văn Tạo, người đã trở về quê hương vào năm 1931, trên thực tế đã lãnh đạo các hoạt động hợp pháp của đảng , ban đầu trên các tờ báo bằng chữ quốc ngữ, và sau đó trong khuôn khổ khối xung quanh tờ báo tiếng Pháp "La Lutte", nơi ông và một số đồng chí của mình (đặc biệt là Dương Bạch Mai, người đã học tại Đại học Cộng sản của những người lao động phương Đông ở Moscow) đã thành lập một phe cộng sản.

Vì vậy, Nguyễn Văn Tạo, người đã phát biểu dưới bút danh An , đã đọc bài phát biểu tại phiên họp thứ 35 của Đại hội VI của Quốc tế Cộng sản, diễn ra vào ngày 17 tháng 8 năm 1928 tại Moscow. Vấn đề trọng tâm trong bài phát biểu của người cộng sản Việt Nam là vấn đề tương quan lực lượng giai cấp trong thuộc địa. Theo người báo cáo, sự phát triển tư bản của thuộc địa, nơi lực lượng chính là tư bản công nghiệp và tài chính của Pháp, đã đạt đến một mức độ khá cao, và có thể nói về sự khởi đầu của "quá trình công nghiệp hóa" , cũng như xu hướng lan truyền của "chủ nghĩa đế quốc" (Nguyễn Văn Tạo, có lẽ, hiểu đó là quan hệ tư bản) vào những nơi chưa bị động đến của Đông Dương. Cùng với việc tăng cường hoạt động của giai cấp tư sản nước ngoài trong thuộc địa từ giữa những năm 1920 , tư bản dân tộc, cả về tài chính lẫn công nghiệp, cũng đã đạt được "những thành công lớn". "Song song với sự phát triển của công nghiệp nằm trong tay người Pháp và người nước ngoài, công nghiệp nằm trong tay giai cấp tư sản bản xứ cũng đang phát triển", người báo cáo nhấn mạnh. Tuy nhiên, mặc dù vậy, "sự chống đối công khai" từ phía tư bản Pháp vẫn chưa xuất hiện, mặc dù đã có một xu hướng nhất định cho "chủ nghĩa đế quốc" làm chậm sự phát triển của công nghiệp dân tộc.

Giai cấp tư sản dân tộc, mà các tầng lớp trí thức, đặc biệt là những người trở về từ chính quốc, tham gia, theo Nguyễn Văn Tạo, không chống lại chủ nghĩa đế quốc Pháp. Đảng Lập hiến, do Bùi Quang Chiêu lãnh đạo, là đại diện cho lợi ích của nó, "rao giảng sự hợp tác công khai với chủ nghĩa đế quốc". Do đó, quần chúng Việt Nam đã "quay lưng lại với giai cấp tư sản của họ, vốn công khai thể hiện bản chất phản cách mạng của nó".

Tuy nhiên, sự phát triển công nghiệp của thuộc địa đã dẫn đến sự hình thành của giai cấp công nhân. "Họ nói với chúng tôi rằng ở Đông Dương không có giai cấp vô sản, nhưng điều đó là sai; đó là sự đánh giá thấp tầm quan trọng của giai cấp vô sản Đông Dương... Nếu giai cấp vô sản của chúng ta không đông đảo và không lan rộng khắp cả nước như ở châu Âu, thì ở các trung tâm công nghiệp lớn, chúng ta vẫn có một giai cấp vô sản đoàn kết chặt chẽ", người báo cáo khẳng định. Ngoài giai cấp công nhân công nghiệp, còn có những người lao động tập trung tại các đồn điền. Hơn nữa, ở nông thôn, có một quá trình "bần cùng hóa của nông dân, những người rời bỏ đất đai với số lượng ngày càng tăng và đổ về các trung tâm công nghiệp". Nguyễn Văn Tạo cũng lưu ý "sự chuyển biến sang cánh tả của quần chúng nông dân", liên quan đến việc tăng cường bóc lột từ "hệ thống phong kiến của các địa chủ lớn" , việc cho vay nặng lãi của địa chủ và các khoản thuế liên tục tăng. Tuy nhiên, "trong một đất nước mà giai cấp vô sản đang phát triển và quần chúng ngày càng chuyển biến sang cánh tả, nơi giai cấp tư sản đóng vai trò phản bội của nó, thì khối lượng cách mạng ở đất nước này vẫn chưa được tổ chức và do đó không có sức mạnh", người báo cáo kết luận. Vì vậy, "Quốc tế Cộng sản phải đặc biệt chú ý đến vấn đề thành lập một đảng cộng sản Đông Dương, nó phải nghiên cứu vấn đề tổ chức các công đoàn công nhân và liên minh nông dân. Chỉ điều này mới mang lại cho công nhân và nông dân An Nam khả năng giành được tự do hoàn toàn", ông phát triển ý tưởng của mình. Về cơ bản, người cộng sản Việt Nam đã ngầm chỉ trích Quốc tế Cộng sản đã phớt lờ vấn đề thành lập một đảng cộng sản tại thuộc địa của Pháp này.

Có vẻ như có thể nói rằng những người cộng sản Việt Nam đầu tiên đã chịu ảnh hưởng của sự thay đổi trong các thiết lập chiến lược của Quốc tế Cộng sản về vấn đề phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông, mà sự hình thành cuối cùng của chúng đã diễn ra tại Đại hội VI của Quốc tế Cộng sản , nơi ý tưởng thống trị là giai cấp tư sản dân tộc có thể phản bội sự nghiệp giải phóng dân tộc và chuyển sang phản cách mạng. Từ một tiền đề như vậy, việc công nhận sự cần thiết của quyền bá chủ của giai cấp vô sản trong phong trào chống đế quốc xuất hiện, điều này đương nhiên đòi hỏi phải thành lập các đảng cộng sản ở các thuộc địa.

Tuy nhiên, theo ý kiến của chúng tôi, những quan điểm này của phong trào cộng sản trẻ ở Đông Dương không có nguồn gốc ngoại sinh , mà trên hết, chúng đã trở thành sản phẩm của sự dịch chuyển nội tại của giới trí thức cách mạng từ chủ nghĩa dân tộc sang chủ nghĩa Mác (tất nhiên, không thể phủ nhận ảnh hưởng của "bộ tham mưu của Cách mạng tháng Mười thế giới" đối với các quá trình nội tại diễn ra trong giới trí thức trẻ Việt Nam). Ví dụ, nhà nghiên cứu phương Tây hiện đại Sophie Quinn-Judge trong công trình vừa xuất bản của mình đã kết luận rằng phân tích của Nguyễn Văn Tạo gần với quan điểm của O. Kuusinen về sự phát triển của Ấn Độ, điều này trên thực tế không hoàn toàn đúng. Ví dụ, người cộng sản Việt Nam nói về sự khởi đầu của quá trình công nghiệp hóa ở Đông Dương thuộc Pháp , trong khi Kuusinen trong báo cáo của mình tại Đại hội VI đã từ chối công nghiệp hóa một thuộc địa phát triển hơn Việt Nam như Ấn Độ. Theo đó, có thể nói về một phân tích độc lập (ngay cả dưới một số ảnh hưởng của Quốc tế Cộng sản).

Theo quan điểm của chúng tôi, lập trường của Nguyễn Văn Tạo phản ánh nhiều hơn tâm trạng chung của những người Việt Nam lưu vong (rộng hơn: của giới trí thức cách mạng Việt Nam đang hình thành) , do đó, việc đánh giá bản chất phản cách mạng của giai cấp tư sản dân tộc Đông Dương, cũng như yêu cầu thành lập một đảng theo mô hình Lenin, không chỉ là ảnh hưởng và không phải là ảnh hưởng lớn nhất của chiến lược đã thay đổi của Quốc tế Cộng sản. Để chứng minh điều này, cần xem xét các quan điểm chính trị chiếm ưu thế trong các nhóm trí thức Việt Nam lưu vong (chủ yếu là sinh viên), những người không thuộc phong trào cộng sản.

Năm 1928, một cuộc thảo luận đã bùng nổ trong các nhóm sinh viên dân tộc chủ nghĩa lưu vong ở Pháp về thành phần xã hội của cuộc cách mạng ở Đông Dương. Các sinh viên Việt Nam tại Toulouse đã đi đến kết luận rằng lực lượng quyết định trong giải phóng dân tộc sẽ là giai cấp nông dân , đồng thời họ phủ nhận bất kỳ tiềm năng cách mạng nào của giai cấp tư sản. "Các phong trào giải phóng ở các nước thuộc địa (Trung Quốc, Ai Cập, Ấn Độ) cung cấp cho chúng ta vô số ví dụ về việc các tầng lớp thượng lưu cúi đầu hợp tác với kẻ áp bức để có được một phần thu nhập, được trích ra từ sự bần cùng và sự lao động quá sức không thể tin được của các tầng lớp lao động ở các thuộc địa. Sự sụp đổ của các phong trào này là kết quả của sự phản bội của giai cấp tư sản dân tộc, những người đã chọn liên minh với những kẻ thực dân thay vì nhượng bộ những yêu cầu chính đáng của quần chúng", các sinh viên theo chủ nghĩa dân tộc đã viết vào tháng 10 năm 1928 trên tờ báo "L'Avenir d'Annam" ("Tương lai của An Nam").

Các sinh viên Việt Nam khác ở Paris, những người đã hoàn tất quá trình chuyển từ chủ nghĩa dân tộc cách mạng sang chủ nghĩa Mác, khác với chủ nghĩa Mác mà Quốc tế Cộng sản tin theo , đã phân tích tình hình ở Đông Dương như sau: "Bắt nguồn từ cuộc chinh phục, vốn là một cuộc cách mạng kinh tế thực sự, đã thay thế sản xuất nông nghiệp hàng hóa nhỏ bằng sản xuất tư bản, [giai cấp tư sản] chỉ có thể sống và phát triển trong hệ thống được tạo ra bởi cuộc chinh phục". Do đó, cuộc đấu tranh của nó bị giới hạn trong cuộc đấu tranh cạnh tranh giành thị trường nội địa với tư bản Pháp và Trung Quốc, là chủ nghĩa dân tộc kinh tế, gây bất lợi cho chủ nghĩa dân tộc chính trị. Từ đó là "trò chơi hai mặt" của nó: kêu gọi đoàn kết dân tộc khi liên quan đến việc hỗ trợ chính sách đầu tư của nó, và phản bội ngay khi có khả năng xảy ra một cuộc cách mạng bằng bạo lực. Do đó, ở Đông Dương tồn tại hai kẻ thù: "một mặt là một giai cấp vô sản bị bóc lột tàn nhẫn và chưa có kinh nghiệm chính trị... cũng như giai cấp nông dân bị bóc lột..., mặt khác là giai cấp tư sản châu Âu và Trung Quốc, kéo theo giai cấp tư sản dân tộc và đã thuần hóa một phần giai cấp tiểu tư sản bằng bộ máy quân sự và hành chính...".

Một vấn đề khác nảy sinh trước giới lưu vong là việc thành lập một đảng. Và khi phải đối mặt với vấn đề này về việc thực hiện nhiệm vụ hình thành một tổ chức cách mạng, họ đã gần gũi với mô hình đảng của Lenin. "Cách thức hành động của chúng ta khác biệt đáng kể so với trước đây. Trong khi các bạn thực hiện 'cổ động', chúng tôi thực hiện 'tuyên truyền' để chọn ra các nhà tổ chức và nhà hoạt động. Cổ động chỉ gây ra sự sợ hãi và những rối loạn ngắn hạn, trong khi tuyên truyền nhắm vào bản chất của sự việc. Hình thức tổ chức hiện tại cũng khác so với trước đây. Giờ đây, nó kết hợp các hành động hợp pháp với hành động bí mật, vì sự tồn tại của một tổ chức chỉ hợp pháp gây ra nhiều bất tiện", một trong những nhà lãnh đạo hiện tại của đảng dân tộc chủ nghĩa "Việt Nam Độc lập" Nguyễn Văn Luận đã viết trong một bức thư gửi cho cựu lãnh đạo của nó là Nguyễn Thế Truyền vào tháng 1 năm 1929. Cơ quan ngôn luận của "Việt Nam Độc lập" vào tháng 12 năm 1928 đã kết thúc một phân tích dài liên quan đến cách mạng dân tộc bằng những lời: "Những gì chúng ta cần là một tổ chức nội bộ, một đảng mạnh mẽ, đoàn kết các thành viên trên khắp Việt Nam: từ Bắc đến Nam, một đảng đặt ra nhiệm vụ chuẩn bị cho cách mạng". Do đó, những người dân tộc chủ nghĩa trên thực tế đã lặp lại luận điểm của Nguyễn Văn Tạo rằng quần chúng không được tổ chức thì không có sức mạnh trong việc chuẩn bị cho sự giải phóng đất nước.

Trong giới trẻ Việt Nam hoạt động chính trị, những người đã hoàn tất quá trình chuyển từ chủ nghĩa dân tộc sang chủ nghĩa Mác cách mạng , cũng tồn tại một thái độ phê phán nhất định đối với chính sách thuộc địa của Quốc tế Cộng sản. Cụ thể, nó cũng được cảm nhận trong bài phát biểu của Nguyễn Văn Tạo. Ở đầu bài phát biểu của mình, ông đã đưa ra một lời chỉ trích: "Có một đất nước mà tất cả dường như đã quên...". Hai đại biểu Việt Nam khác đã bày tỏ thái độ phê phán của họ đối với công việc của Ủy ban Thuộc địa của PCF, và vì điều này, họ có lẽ đã bị gửi về Pháp trước khi đại hội kết thúc. Đây không phải là những bài phát biểu cá biệt của những người cộng sản. Năm 1930, Nguyễn Văn Tạo trong một bức thư gửi cho các nhà lãnh đạo của PCF một lần nữa đã buộc tội đảng cộng sản chính quốc đã ít chú ý đến công việc thuộc địa , đặc biệt là trong số những người Pháp để giải thích tình hình ở Việt Nam. Lời chỉ trích như vậy có thể so sánh với những lời của một nhà Mác-xít cách mạng Việt Nam khác, người vừa hoàn tất quá trình chuyển từ chủ nghĩa dân tộc sang chủ nghĩa cộng sản, khác với chủ nghĩa mà lãnh đạo của "bộ tham mưu cách mạng thế giới" tin theo vào cuối những năm 20: "Không có công việc Mác-xít nào đã được thực hiện... Thiếu sót lớn này đã được phát hiện nhiều lần trong các hành động của Quốc tế Cộng sản và PCF".

Do đó, theo quan điểm của chúng tôi, có vẻ hiển nhiên rằng việc một bộ phận giới trí thức cách mạng Việt Nam chấp nhận các quan điểm cực tả không phải là sự áp đặt các thiết lập từ Moscow hay Paris vào phong trào Mác-xít đang hình thành ở Việt Nam , mà là một kết luận từ phân tích nội tại về tình hình cả trong thuộc địa lẫn trên toàn thế giới. Cụ thể, điều này liên quan đến việc phủ nhận vai trò cách mạng của giai cấp tư sản dân tộc, sự tồn tại của các giai cấp sẵn sàng lãnh đạo cách mạng bên trong thuộc địa, và sự cần thiết cấp bách của việc hình thành một đảng theo mô hình Lenin. Đồng thời, Quốc tế Cộng sản thậm chí còn bị chỉ trích về một số vấn đề nguyên tắc. Điều này đã tạo ra các điều kiện cho việc hình thành không chỉ một phong trào cộng sản chính thống , mà còn cả các trào lưu Mác-xít đối lập với đường lối chính thức của Moscow.