Hồng Thủy [Nguyễn Sơn] - tướng khai quốc Trung Hoa - ba lần vượt núi tuyết, băng qua đồng cỏ



Ngày 5 tháng 11 năm 2015, Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đăng bài viết "Chung tay tạo dựng tương lai tươi đẹp cho quan hệ Việt-Trung" trên báo Nhân dân của Việt Nam. Trong bài, ông đã nhắc đến mối liên kết truyền thống mang tính biểu tượng giữa hai nước - tướng Hồng Thủy ̣[Nguyễn Son]: "Hồng Thủy đã hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tích cực tham gia cách mạng Trung Quốc, tham gia cuộc Vạn lý Trường chinh 25.000 dặm của Hồng quân, trở thành vị tướng ngoại quốc duy nhất trong số các khai quốc tướng lĩnh của Trung Quốc và là một trong số hiếm hoi 'Lưỡng quốc tướng quân' trên thế giới."

Trong lịch sử quân sự hiện đại của Việt Nam, Hồng Thủy là một vị tướng đặc biệt nhất. Ngoài tài năng quân sự, ông còn là một người văn võ song toàn trong các lĩnh vực chính trị, tuyên truyền, giáo dục và văn học nghệ thuật, cống hiến 27 năm cho cách mạng Việt Nam và Trung Quốc, dù chỉ sống vỏn vẹn 48 năm. Trong lịch sử cách mạng hiện đại của Trung Quốc, một người bạn quốc tế như Hồng Thủy cũng cực kỳ hiếm gặp: Ba lần vượt núi băng sông đến Trung Quốc, ba lần vượt núi tuyết và đồng cỏ trong cuộc Vạn lý Trường chinh, ba lần bị khai trừ khỏi Đảng, và cuối cùng trở thành thiếu tướng công thần khai quốc của Trung Hoa...

Tình đồng chí sâu nặng với Hồ Chí Minh, được Người gọi là "Sơn đệ"

Ngày 1 tháng 10 năm 1908, một cậu bé chào đời trong một gia đình địa chủ ở ngoại ô thành phố Hà Nội, Việt Nam và được đặt một cái tên đầy ý nghĩa - Võ Nguyên Bác (tức Hồng Thủy), với mong muốn sau này sẽ lập công danh hiển hách bằng võ công. Suốt cuộc đời mình, ông đã thực sự sống đúng với cái tên đó!

Mùa hè năm 1923, với hoài bão lớn lao, Hồng Thủy đã sang Pháp, làm quen với các nhà cách mạng Việt Nam như Hồ Chí Minh và các nhà cách mạng Trung Quốc như Chu Ân Lai, Lý Phú Xuân... Điều này không chỉ mở rộng tầm mắt ông mà còn khơi dậy sự quan tâm sâu sắc của ông đối với đất nước Trung Quốc cổ kính.

Tháng 12 năm 1924, khi Hồ Chí Minh đang hoạt động cách mạng ở Quảng Châu, Trung Quốc, Hồng Thủy cùng nhiều thanh niên cách mạng Việt Nam khác như Hoàng Văn Hoan, Phạm Văn Đồng đã hưởng ứng lời kêu gọi của Bác, bí mật sang Quảng Châu tham gia cách mạng và gia nhập "Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên."

Lúc bấy giờ, Hồ Chí Minh đã thành lập "Lớp huấn luyện chính trị đặc biệt cho thanh niên Việt Nam" tại phố Nhân Hưng, Quảng Châu. Hồng Thủy trở thành một trong những học viên khóa hai. Vì một lý tưởng cách mạng chung, Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Hồng Thủy và 6 nhà cách mạng Việt Nam khác đã kết nghĩa anh em nơi đất khách Quảng Châu. Hồ Chí Minh lớn tuổi nhất, làm anh cả, còn Hồng Thủy nhỏ tuổi nhất, được Bác gọi là "Sơn đệ", từ đó họ đã gây dựng một tình đồng chí sâu nặng.

Tháng 3 năm 1926, trong bối cảnh Quốc-Cộng hợp tác, Hồng Thủy được Lý Phú Xuân, Thái Sướng và những người khác giới thiệu vào học tại Trường Quân sự Hoàng Phố khóa 4, cùng khóa với các đảng viên Cộng sản Trung Quốc như Lâm Bưu, Lưu Chí Đan. Tháng 10 năm 1926, ông tốt nghiệp với thành tích xuất sắc và ở lại trường làm việc theo chỉ thị của Hồ Chí Minh.

Tháng 8 năm 1927, sự hợp tác Quốc-Cộng hoàn toàn tan vỡ, Tưởng Giới Thạch và Uông Tinh Vệ vung dao sát hại Đảng Cộng sản Trung Quốc, khủng bố trắng bao trùm cả nước. Hồng Thủy đã đi ngược dòng, tuyên bố rời khỏi Quốc Dân Đảng và bí mật gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tháng 12 cùng năm, trước sự đàn áp đẫm máu của Quốc Dân Đảng, Trương Thái Lôi, Diệp Đình, Diệp Kiếm Anh... đã phát động Khởi nghĩa Quảng Châu. Hơn 30 nhà cách mạng Việt Nam, bao gồm cả Hồng Thủy, đã chiến đấu theo sự chỉ huy của Lữ đoàn Giáo đạo 4 thuộc Binh đoàn 2 của Diệp Kiếm Anh. Sau những trận chiến khốc liệt, họ chiếm được Sở Công an Quảng Châu, giải thoát toàn bộ tù nhân chính trị, trong đó có hơn 100 học viên Trường Hoàng Phố. Khi biết rằng những người giải cứu họ là các nhà cách mạng Việt Nam, các đồng chí đó đã vô cùng xúc động hô vang: "Chủ nghĩa quốc tế vĩ đại muôn năm!"

Trong bối cảnh địch mạnh ta yếu, Khởi nghĩa Quảng Châu nhanh chóng thất bại. Vì thân phận đảng viên Cộng sản bị lộ, Hồng Thủy không thể ở lại Quảng Châu, đành cùng Diệp Kiếm Anh, Nhiếp Vinh Trăn... rút về Hồng Kông. Không lâu sau, được sự đồng ý của Hồ Chí Minh, ông lại sang Thái Lan, cùng Hoàng Văn Hoan và những người khác thành lập "Hội Hợp tác", "Hội Thân ái" cho kiều bào Việt Nam tại Thái Lan, lãnh đạo kiều bào khai hoang trồng trọt để không chỉ tự lo được cuộc sống mà còn gây quỹ cho các hoạt động cách mạng.

Tháng 6 năm 1928, để bổ sung lực lượng cho Hồng quân Sư đoàn 4 đang chuẩn bị từ Tỉnh Cương Sơn tiến về Mai Châu, tỉnh Quảng Đông, Ban Tỉnh ủy Lưỡng Quảng đã nghĩ đến Hồng Thủy - người thông minh và tài giỏi. Ông được bí mật gọi về Hồng Kông. Nhưng lúc đó Hồng quân Sư đoàn 4 đã chuyển sang phía tây tỉnh Phúc Kiến nên ông ở lại Hồng Kông, tham gia phong trào công nhân của công đoàn thủy thủ. Ngay khi công việc bắt đầu có khởi sắc, Hồng quân tại khu vực Đông Giang, Quảng Đông lại thiếu cán bộ quân sự. Tốt nghiệp Trường Hoàng Phố, Hồng Thủy đương nhiên là một trong những ứng cử viên. Tháng 1 năm 1929, ông được lệnh đến khu vực Đông Giang, Quảng Đông, đảm nhận chức chính trị viên đại đội của Trung đoàn 47 thuộc Hồng quân Sư đoàn 11 mới thành lập. Đây là lần thứ hai ông đến Trung Quốc.

Tháng 4 năm 1930, Chính phủ Xô viết phía tây Phúc Kiến thành lập Hồng quân Sư đoàn 12 do Đặng Tử Hôi làm chính ủy, tình hình cách mạng đang rất thuận lợi. Để xây dựng Hồng quân Sư đoàn 12 thành một lực lượng chính quy, Mao Trạch Đông đã quyết định điều động các cán bộ trẻ cốt cán của Hồng quân Sư đoàn 4 như Đặng Hoa, Quách Thiên Dân... đến tăng cường cho Hồng quân Sư đoàn 12. Là một cán bộ trẻ xuất sắc của Hồng quân Sư đoàn 11, Hồng Thủy cũng được chọn sang làm việc tại Hồng quân Sư đoàn 12, lần lượt giữ các chức vụ chính ủy trung đoàn và chủ nhiệm chính trị sư đoàn, trở thành một cán bộ trẻ ưu tú của Hồng quân công nông.

Tháng 10 năm 1932, Hồng Thủy được điều về làm việc tại Thụy Kim, thủ phủ của chính quyền Xô viết đỏ. Tại đây, ông từng là giáo viên (chính trị, văn hóa) của Trường Hồng quân, thành viên của Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, và trưởng phòng tuyên truyền của Trường Hồng quân. Với tư cách là giáo viên chính trị, Hồng Thủy chủ yếu phụ trách công tác giảng dạy cho đại đội chính trị của Trường Hồng quân (chủ yếu đào tạo chính trị viên đại đội). "Các giáo viên có Thái Sướng, Quách Hóa Nhược... từ Liên Xô trở về." Việc được giao làm giáo viên đại đội chính trị cho thấy sự tin tưởng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đối với Hồng Thủy cũng như năng lực của ông.

"Nếu không có sự quan tâm của Tổng tư lệnh Chu Đức và Thống chế Lưu Bá Thừa, tôi không thể tham gia Trường chinh!"

Tại Trường Hồng quân, ngoài việc giảng dạy và tuyên truyền giáo dục, Hồng Thủy còn có một đóng góp lớn khác: ông cùng Lý Bá Chiêu, phu nhân của Dương Thượng Côn và nhiều người khác tích cực vận động thành lập đoàn kịch đầu tiên trong lịch sử quân đội của Hồng quân - Đoàn kịch Công Nông. Hồng Thủy trực tiếp làm đoàn trưởng, Lý Bá Chiêu làm bí thư chi bộ. Ông rất tâm huyết với công việc của đoàn kịch, thường dạy mọi người ca hát, chơi đàn, nhảy múa, và còn cùng Tiền Tráng Phi, Lý Bá Chiêu, Trương Ái Bình... viết kịch bản và biểu diễn. Thời đó, Đoàn kịch Công Nông đã biểu diễn một vở kịch phản ánh Cuộc chiến Thượng Hải ngày 28 tháng 1 có tên "Ngọn lửa Thượng Hải". Vở kịch do Trương Ái Bình đạo diễn, Hồng Thủy là một trong những diễn viên chính. Vở diễn đã rất thành công và được quân dân Thụy Kim nhiệt liệt chào đón. Sau này, Đoàn kịch Công Nông phát triển thành Đoàn kịch Áo lam của khu Xô viết. Nhờ ảnh hưởng lớn của Đoàn kịch Công Nông, tên tuổi của Hồng Thủy cũng lan truyền khắp Khu Xô viết Trung ương.

Tháng 1 năm 1934, ông tham dự Đại hội Đại biểu Xô viết Toàn quốc lần thứ hai tại Thụy Kim. Khi bầu đại biểu, một số người lúng túng về việc xác định thân phận của Hồng Thủy. Chu Ân Lai đề xuất để ông tham dự đại hội với tư cách là đại biểu của "dân tộc thiểu số".

Tại đại hội này, Hồng Thủy được bầu làm Ủy viên Ủy ban Chấp hành Trung ương Cộng hòa Xô viết Trung Hoa. Ông và Tất Sĩ Đế của Triều Tiên trở thành hai ủy viên ngoại quốc duy nhất trong chính quyền công nông dân chủ của Khu Xô viết Trung ương.

Tháng 7 năm 1934, sự nghiệp cách mạng của Hồng Thủy phải chịu một đòn giáng. Lúc bấy giờ, do ông luôn ủng hộ đường lối đúng đắn của Mao Trạch Đông, Hồng Thủy đã bị các lãnh đạo theo đường lối "Tả khuynh" đàn áp. Họ lấy cớ 20 "phiếu bạc công nông" không khớp với sổ sách, vu cáo ông "có vấn đề kinh tế" và khai trừ ông khỏi Đảng. Tháng 10, lực lượng chủ lực của Hồng quân bắt đầu cuộc Trường chinh. Cán bộ và học viên của Trường Hồng quân Thụy Kim được biên chế vào Đoàn Cán bộ Quân ủy Trung ương (đoàn trưởng là Trần Canh). Nhờ sự quan tâm và bảo vệ của Chu Đức và Lưu Bá Thừa, Hồng Thủy được biên chế vào đội trực thuộc, phụ trách công tác tuyên truyền, cổ động trong suốt cuộc Trường chinh. Sau này, Hồng Thủy đã cảm khái nói rằng: "Nếu không có sự quan tâm của Tổng tư lệnh Chu Đức và Thống chế Lưu Bá Thừa, tôi không thể tham gia Trường chinh!" Trên đường Trường chinh, Hồng Thủy đã phát huy sở trường diễn thuyết và biểu diễn của mình, tích cực làm công tác tuyên truyền cổ động, tiếp thêm sức mạnh cho các đồng đội trong cuộc hành quân gian khổ.

Tháng 1 năm 1935, sau Hội nghị Tuân Nghĩa, đồng chí Mao Trạch Đông khôi phục vị trí lãnh đạo trong Hồng quân và phê phán những sai lầm của đường lối "Tả khuynh". Đoàn Cán bộ của Hồng quân Trung ương tuyên bố: hủy bỏ hình phạt sai lầm đối với Hồng Thủy. Nghe tin, Hồng Thủy mừng khôn xiết.

Nhưng chỉ 7 tháng sau, ông lại phải chịu một cú sốc khác!

Ba lần leo núi tuyết, ba lần vượt đồng cỏ

Tháng 8 năm 1935, Hồng quân Sư đoàn 1 và 4 hợp nhất, chia làm hai đường quân Tả và Hữu tiến lên phía Bắc. Lúc đó, Hồng Thủy theo lực lượng chủ lực do Chu Đức và Trương Quốc Đảo chỉ huy tiến lên phía Bắc. Khi đến sông Cát Khúc, Trương Quốc Đảo không nghe lời khuyên ngăn của Chu Đức và Lưu Bá Thừa, lấy cớ nước sông dâng cao, không có đường đi, kiên quyết dẫn quân xuống phía Nam. Hồng Thủy kiên quyết ủng hộ chủ trương đúng đắn của Chu Đức và Lưu Bá Thừa, phản đối việc nam tiến, và đã tranh cãi trực tiếp với Trương Quốc Đảo. Kết quả, Trương Quốc Đảo nổi cơn thịnh nộ, gán cho Hồng Thủy tội "gián điệp quốc tế", một lần nữa khai trừ ông khỏi Đảng, thậm chí còn muốn bí mật xử tử ông. May mắn thay, nhờ sự hết lòng cứu giúp của Chu Đức và Lưu Bá Thừa, Hồng Thủy mới thoát nạn, được sắp xếp vào một tiểu đội để "lập công chuộc tội", theo đại quân một lần nữa leo núi tuyết, vượt đồng cỏ, tiến về Tứ Xuyên.

Đầu năm 1936, lực lượng bị địch đánh tan tác ở khu vực huyện Lô Hội, Tứ Xuyên. Hồng Thủy một mình tiến lên phía Bắc, lần thứ ba leo núi tuyết và vượt đồng cỏ. Dọc đường, ông phải ăn xin, chăn gia súc cho người khác, cuối cùng cũng đến được Thiểm Bắc và tìm thấy Mao Trạch Đông cùng những người đã đến trước. Lúc đó, Hồng Thủy gầy trơ xương, đầu bù tóc rối, mặc một chiếc áo choàng Tạng bẩn thỉu rách nát, mọi người gần như không nhận ra ông. Nhưng Hồng Thủy vẫn thản nhiên nói: "Đây chính là cách mạng! Nếu một người quyết tâm tham gia cách mạng, anh ta phải chịu được mọi gian khổ và đòn giáng, nếu không làm sao có thể trở thành một nhà cách mạng chân chính?"

Vừa đến Diên An, những sai lầm của Trương Quốc Đảo đã bị phê phán, và cơ quan chính trị của Hồng quân cũng ra quyết định: hủy bỏ hình phạt đối với Hồng Thủy!

Nhìn lại cuộc Trường chinh, Hồng Thủy đã đúc kết: "Không có thân phận đảng viên, vẫn tham gia Trường chinh; không có thân phận đảng viên, vẫn hoàn thành Trường chinh! Chỉ là Trương Quốc Đảo đã gây rối, khiến tôi phải ba lần leo núi tuyết, vượt đồng cỏ, thêm nhiều gian nan và trắc trở!"

Tháng 6 năm 1936, Hồng Thủy vào học khóa một tại Trường Đại học Hồng quân. Khóa một đa số là các cán bộ cấp sư đoàn, trung đoàn trở lên của Hồng quân, bao gồm Lâm Bưu, La Vinh Hoan, La Thụy Khanh, Tô Chấn Hoa, Lưu Á Lâu, Trương Ái Bình, Bành Tuyết Phong, Dương Thành Vũ, Đàm Chính, Vương Bình, Hoàng Vĩnh Thắng, Hồng Thủy... tổng cộng 38 người. Họ có tuổi trung bình là 27 và trung bình mỗi người có 3 vết sẹo. Hồng Thủy, khi đó 28 tuổi, có thể ở trong nhóm này cho thấy vị trí của ông trong Hồng quân...

Tháng 10 năm đó, Chu Đức và Lưu Bá Thừa đã đến Thiểm Bắc an toàn. Thấy Hồng Thủy đến Diên An trước mình, Chu Đức vui vẻ nói: "Tiểu Hồng, nghe nói đội của cậu bị đánh tan, còn tưởng cậu đã 'vinh quang' rồi! Không ngờ cậu lại kết thúc Trường chinh sớm hơn tôi. Cậu đại nạn không chết, ắt có hậu phúc!"

Tháng 8 năm 1937, Hồng quân được cải tổ thành Bát lộ quân và tiến lên phía Bắc chống Nhật. Với tư cách là cán bộ của Phòng Dân vận thuộc Bộ Tổng tư lệnh Bát lộ quân, Hồng Thủy đến khu vực Ngũ Đài, tỉnh Sơn Tây, giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Vận động Ngũ Đài huyện Tứ khu (Đông Dã), nhiệm vụ chính là vận động quần chúng, vũ trang cho quần chúng.

Quê hương của Diêm Tích Sơn nằm ở làng Hà Biên, thuộc khu vực này. Mạch máu kinh tế ở đây phần lớn nằm trong tay Diêm Tích Sơn và người thân của ông. Sau khi được vận động, quần chúng đã tự phát đến những gia đình này "vay" tiền, "vay" lương thực, "vay" súng. Vụ việc khiến Diêm Tích Sơn phản đối: Bát lộ quân lại cướp nhà tôi, mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật này không thể thống nhất được nữa, yêu cầu phải trừng trị nghiêm khắc. Tháng 12 cùng năm, để giữ gìn đại cục kháng chiến, Hồng Thủy bị khai trừ khỏi Đảng lần thứ ba và được điều về công tác tại Quân khu Tấn Sát Ký, đảm nhận chức phó tổng biên tập kiêm tổng biên tập phụ trách công việc của báo Kháng Địch (Chủ nhiệm chính trị Quân khu Thư Đồng kiêm nhiệm làm giám đốc). Hình phạt này chỉ là để đối phó với Diêm Tích Sơn nên không có giá trị.

Trong Truyện Nhiếp Vinh Trăn, báo Kháng Địch được đánh giá rất cao:

Ngày 11 tháng 12 năm 1937, báo Kháng Địch và "Đoàn kịch Kháng Địch" được thành lập cùng một ngày. ... Kháng Địch Báo ban đầu được in bằng giấy nến, sau đó dần phát triển thành báo in đá. Số lượng in cũng tăng từ vài trăm, vài nghìn bản ban đầu lên đến vài chục nghìn bản. Ngày 7 tháng 11 năm 1940, Kháng Địch Báo đổi tên thành Tấn Sát Ký Nhật báo, tích cực tuyên truyền các chủ trương, chính sách chống Nhật của Đảng Cộng sản và Bát lộ quân, đưa tin nhanh chóng, chính xác, kịp thời về cuộc sống đấu tranh sôi nổi của quân và dân trong khu căn cứ, trở thành một tờ báo được quần chúng yêu thích và có uy tín, đóng góp quan trọng vào việc thành lập, củng cố và phát triển khu căn cứ.

Tháng 12 năm 1938, Quân ủy Trung ương thành lập Phân hiệu 2 của Trường Đại học Quân chính chống Nhật. Hồng Thủy được điều đến làm phó khoa trưởng Khoa Chính trị, Khoa trưởng Khoa Công tác trực thuộc của Phân hiệu 2 và kiêm nhiệm giáo viên chính trị. Xuất thân từ Trường Hoàng Phố, Hồng Thủy thường lãnh đạo cán bộ và chiến sĩ của các cơ quan trực thuộc làm lực lượng dự bị trong các trận phản công "càn quét", và đã tham gia nhiều trận chiến.

Tuy nhiên, để duy trì mối quan hệ thống nhất với Diêm Tích Sơn, tổ chức không tiện trọng dụng Hồng Thủy.

"Sơn đệ, giỏi lắm! Tổ quốc đang chờ em đấy!"

Tháng 8 năm 1945, chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản đã đi vào ngõ cụt, thế lực thực dân Pháp lại tìm cách quay trở lại. Cách mạng Việt Nam bước vào giai đoạn đấu tranh vũ trang, đất nước cần một lượng lớn cán bộ quân sự và chính trị. Sau khi thảo luận với Mao Trạch Đông và các lãnh đạo khác của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Hồ Chí Minh quyết định triệu hồi một số đồng chí Việt Nam đang làm việc tại Trung Quốc về nước.

Đầu tháng 11 năm 1945, Hồng Thủy trở về Việt Nam, lấy tên là Nguyễn Sơn. Vừa đến Hà Nội, ông đã lập tức đến thăm Hồ Chí Minh. Thấy "hạt giống" đã được rèn giũa trong lò Hoàng Phố của Trung Quốc 20 năm trước đã trở về, Hồ Chí Minh vô cùng vui mừng nói: "Sơn đệ, giỏi lắm! Tổ quốc đang chờ em đấy!" Hồ Chí Minh ngay lập tức bổ nhiệm Hồng Thủy làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam, kiêm Tư lệnh kiêm Chính ủy hai khu vực chiến đấu 5 và 6, phụ trách cuộc chiến chống Pháp ở miền Nam Việt Nam. Tận dụng chiến thuật du kích học được trong cuộc kháng chiến chống Nhật ở hậu phương Trung Quốc, Hồng Thủy đã chỉ huy lực lượng của mình liên tục giáng những đòn nặng nề vào quân Pháp, tên tuổi ông vang dội trong quân đội Việt Nam.

Trong những lúc nghỉ ngơi, Hồng Thủy đặc biệt thích ngân nga vài câu kinh kịch. Ông thậm chí còn nói với một vài người bạn Việt Nam rằng ông muốn thành lập một đoàn kinh kịch ở Việt Nam để cả thế giới biết đến kinh kịch. Chính phong thái của một Nho tướng này đã khiến ông được cấp dưới vô cùng yêu mến.

Mùa xuân năm 1947, Hồng Thủy được điều về làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Khu vực chiến đấu 4, giữ yết hầu miền Trung Việt Nam, biến Khu vực chiến đấu 4 thành một pháo đài vững chắc trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Dưới sự chỉ huy của Hồng Thủy, lực lượng của Khu vực chiến đấu 4 tấn công như chẻ tre, phòng thủ kiên cố như thành đồng. Chưa đầy hai năm, Hồng Thủy đã trở thành "Tướng quân Nguyễn Sơn" khiến quân Pháp khiếp sợ và được nhân dân Việt Nam yêu quý.

Tháng 1 năm 1948, để nâng cao uy thế của quân đội Việt Nam, Hồ Chí Minh đã ban hành sắc lệnh phong hàm: phong hàm Thiếu tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam cho Nguyễn Sơn (Hồng Thủy).

Hồng Thủy từng chinh chiến khắp nơi ở Trung Quốc, chỉ huy nhiều trận đánh khó khăn. Khi được phong hàm thiếu tướng, ông có một vài suy nghĩ, liền gửi một bức điện khẩn cho Hồ Chí Minh, bày tỏ mong muốn nhường hàm thiếu tướng cho các đồng chí khác. Hồ Chí Minh đọc bức điện này, mỉm cười nói: "Bác biết rồi." Không có giấy bên cạnh, Bác lấy một tấm danh thiếp ra, viết 15 chữ Hán bằng bút chì: "Tặng Sơn đệ: Đảm dục đại, tâm dục tế, trí dục viên, hành dục phương" (tạm dịch: Gan lớn, lòng tinh, trí tròn, hành động vuông). Đọc tấm danh thiếp này, Hồng Thủy ngay lập tức tâm phục khẩu phục, nhận hàm thiếu tướng.

"Đồng chí Hồng Thủy đã tham gia quân đội từ thời Hoàng Phố, có thể nâng lên cấp chính quân không?"

Để tăng cường mối liên lạc giữa hai Đảng, hai nước và hai quân đội, xét đến thân phận đặc biệt của Hồng Thủy, các lãnh đạo Trung Quốc và Việt Nam đã thống nhất để ông trở về Trung Quốc đảm nhận công việc quan trọng này.

Tháng 10 năm 1950, Hồng Thủy lần thứ ba đến Trung Quốc, giữ chức phụ trách khoa Việt Nam thuộc Cục 2 của Bộ Mặt trận Thống nhất Trung ương.

Tháng 1 năm 1951, Hồng Thủy vào học tại Học viện Quân sự Nam Kinh. Viện trưởng chính là cấp trên cũ của ông, Lưu Bá Thừa. Tháng 7 năm 1954, Hồng Thủy tốt nghiệp Học viện Quân sự Nam Kinh với thành tích xuất sắc, được bổ nhiệm làm phó cục trưởng Cục Điều lệnh thuộc Tổng cục Huấn luyện Quân Giải phóng Nhân dân và giám đốc kiêm tổng biên tập của Tạp chí Huấn luyện Chiến đấu (tiền thân của Nhà xuất bản Quân Giải phóng).

Một ngày nọ, Chu Đức đến thăm Hồng Thủy tại tòa soạn tạp chí, thân mật nói: "Tiểu Hồng, công việc của cậu rất quan trọng. Tạp chí Huấn luyện Chiến đấu hướng tới toàn quân, thậm chí phải phát hành đến cấp đại đội, có ý nghĩa chỉ đạo cụ thể đối với công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của toàn quân. Nhất định phải làm tốt tờ tạp chí này." Hồng Thủy đáp: "Xin Tổng tư lệnh yên tâm, tôi nhất định sẽ cố gắng hết sức." Lúc đó, Chu Đức còn viết bốn chữ "Huấn luyện Chiến đấu" cho trang bìa của tạp chí.

Tháng 9 năm 1955, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc lần đầu tiên phong quân hàm. Hồng Thủy được phong hàm thiếu tướng, và được trao Huân chương Bát Nhất hạng Nhất, Huân chương Độc lập Tự do hạng Nhất, Huân chương Giải phóng hạng Nhất, trở thành vị tướng ngoại quốc duy nhất trong lịch sử quân đội Trung Quốc được phong hàm và trao huân chương. Dựa trên thâm niên và những đóng góp của Hồng Thủy, Cục Cán bộ Tổng cục Chính trị đã từng dự định phong hàm trung tướng cho ông, và đã xin ý kiến của Hồ Chí Minh về việc này. Hồ Chí Minh cho biết, quân hàm của Hồng Thủy nên tương đương với quân hàm mà Quân đội Nhân dân Việt Nam đã phong cho ông thì tốt nhất. Vì vậy, khi được phong hàm trong Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, Hồng Thủy đã được phong hàm thiếu tướng, giống như hàm của ông trong Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Ngày 1 tháng 10 năm 1955, Quốc khánh lần thứ 6 của Trung Quốc, các sĩ quan và binh sĩ Quân Giải phóng mặc quân phục có đeo quân hàm, được Mao Trạch Đông duyệt binh tại Quảng trường Thiên An Môn. Khi tiếp các tướng lĩnh đến dự lễ, Mao Trạch Đông đã hỏi về việc phong hàm cho Hồng Thủy. Khi biết Hồng Thủy được định ở cấp chính sư đoàn, hàm thiếu tướng, Mao Trạch Đông đã nói với các đồng chí lãnh đạo có liên quan: "Điều này không phù hợp, đồng chí Hồng Thủy đã tham gia quân đội từ thời Hoàng Phố, có thể nâng lên cấp chính quân không?" Vậy là, dưới sự quan tâm trực tiếp của Mao Trạch Đông, Hồng Thủy đã được xếp lại ở cấp chính quân, hàm thiếu tướng.

Mùa hè năm 1956, Hồng Thủy được chẩn đoán mắc bệnh ung thư phổi giai đoạn cuối. Tự biết mình không còn sống được bao lâu, ông đặc biệt nhớ về Tổ quốc Việt Nam, nên đã đề nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc cho phép ông về nước. Trước khi chia tay, Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đã tiếp ông tại Hội trường Chính hiệp Toàn quốc. Mao Trạch Đông nói: "Đồng chí Hồng Thủy, bạn cũ của chúng ta! Nghe nói đồng chí sức khỏe không tốt, muốn trở về, chúng tôi đã nói với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng chí về đó điều trị thật tốt, khi bệnh khỏi, chúng tôi vẫn chào đón đồng chí quay lại."

Sáng ngày 27 tháng 9 năm 1956, tại Ga xe lửa Tiền Môn, Bắc Kinh, cờ hoa đã được treo. Bành Đức Hoài, Diệp Kiếm Anh, Hoàng Khắc Thành, Tiêu Khắc, Tôn Nghị... cùng hơn 200 vị khai quốc tướng lĩnh khác của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, và các lãnh đạo Bộ Ngoại giao, các tổng bộ quân ủy, các quân, binh chủng đều đến nhà ga để tiễn Hồng Thủy. Sau khi trở về Hà Nội, Việt Nam, dưới sự quan tâm trực tiếp của Hồ Chí Minh, ông đã nhanh chóng được sắp xếp điều trị tại Bệnh viện Chữ thập đỏ Tiệp Khắc, bệnh viện tốt nhất ở Hà Nội.

Ngày 21 tháng 10 năm 1956, Hồng Thủy qua đời tại Hà Nội, hưởng dương 48 tuổi. Chính phủ Việt Nam đã tổ chức lễ quốc tang cho ông.

(Tác giả bài viết Hạ Minh Tinh là giáo sư Khoa Nghiên cứu và Giảng dạy thuộc Học viện Chỉ huy Cảnh sát Vũ trang Quảng Châu. Bài viết này đã được Trần Hàn Phong, con trai của Tướng quân Hồng Thủy và là Ủy viên Chính hiệp Toàn quốc, thẩm định.)