Vài nét về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta - (giai đoạn 1976-1986)


THỜI KỲ 1976-1986

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng họp tháng 12 năm 1976 trên cơ sở kế thừa tư duy về cách mạng xã hội chủ nghĩa trong hơn 20 năm trước đó, đã đề ra đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là: "Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội".

Đại hội còn chỉ ra đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta là: "Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nước nhà, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu công - nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; kết hợp kinh tế với quốc phòng; tăng cường quan hệ hợp tác, tương trợ với các nước xã hội chủ nghĩa anh em trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và các bên cùng có lợi; làm cho nước Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học, kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh và hạnh phúc".

Ở đây, cần chú ý đến sự điều chỉnh về phương châm công nghiệp hoá ở Đại hội lần thứ IV: Nếu Đại hội lân thứ III đã xác định: "Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ" thì đến Đại hội lần thứ IV của Đảng ta đã điều chỉnh lại phương châm tiến hành công nghiệp hoá là "Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ". Đây là sự điều chỉnh cần thiết và đúng đắn.

Sau Đại hội, Ban chấp hành Trung ương khoá IV có nhiều hội nghị, trong đó có 5 hội nghị chuyên bàn về kinh tế: Hội nghị Trung ương lần thứ 2 (tháng 7-1977) bàn về nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp; Hội nghị Trung ương lần thứ 3 (tháng 12-1977) bàn về kế hoạch kinh tế năm 1978, về khắc phục sự trì trệ trong sản xuất và về quản lý kinh tế; Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (tháng 12-1978) đánh giá tình hình kinh tế - xã hội, xác định ba nhiệm vụ lớn; Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (tháng 8-1979) bàn những vấn đề kinh tế cấp bách và sản xuất hàng tiêu dùng; Hội nghị Trung ương lần thứ 9 (tháng 12-1980) bàn về phương hướng, nhiệm vụ kinh tế năm 1981. Bộ Chính trị, Ban Bí thư có nhiều kỳ họp để cụ thể hoá các nghị quyết nói trên.

Về cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh giai đoạn 1976-1980:

Sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, tháng 9-1975 Hội nghị Trung ương lần thứ 24 đã quyết định: "Trong một thời gian nhất định, ở miền Nam còn nhiều thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh xã hội chủ nghĩa, kinh tế tập thể xã hội chủ nghĩa, kinh tế công tư hợp doanh nửa xã hội chủ nghĩa, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư doanh; cần ra sức sử dụng mọi khả năng lao động, kỹ thuật, tiền vốn, kinh nghiệm quản lý, để đẩy mạnh sản xuất".

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (tháng 12-1976) đã xác định đường lối, chủ trương, nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư doanh ở miền Nam là: "xoá bỏ triệt để quyền chiếm hữu phong kiến về ruộng đất và những tàn tích bóc lột phong kiến... Xây dựng kinh tế quốc doanh lớn mạnh nhanh chóng, chiếm ưu thế trong sản xuất và lưu thông, phân phối. Đối với xí nghiệp tư bản tư doanh, phải cải tạo xã hội chủ nghĩa chủ yếu bằng con đường công tư hợp doanh... Xoá bỏ ngay thương nghiệp tư bản chủ nghĩa. Chuyển phần lớn tiểu thương sang sản xuất...”

Mục tiêu phấn đấu đến năm 1980 là cơ bản hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh phía Nam. "Ở miền Bắc, trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, tiếp tục củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, xây dựng và cải tiến chế độ quản lý và chế độ phân phối. Mở rộng thành phần quốc doanh, củng cố các cơ sở quốc doanh về mọi mặt".

Tháng 3-1977, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã quyết định: Hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh trong 2 năm 1977-1978, trước hết là xoá bỏ thương nghiệp tư bản chủ nghĩa.

Tiếp theo quyết định của Bộ Chính trị, tháng 6-1977, Ban Bí thư Trung ương quy định cụ thể nội dung nhiệm vụ hoàn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh trong 2 năm 1977-1978.

Kết quả của công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam:

- Đối với công nghiệp tư bản tư doanh:

Tổng số cơ sở tư bản tư doanh trong công nghiệp là 3.560 cơ sở với gần 25 vạn công nhân. Đã cải tạo bằng các hình thức: Xí nghiệp quốc doanh (công quán, tịch thu của tư sản mại bản...) 1.354 cơ sở với 13 vạn công nhân, bằng 34% số cơ sở, 55% số công nhân và gần 65% về giá trị sản lượng của công nghiệp tư bản tư doanh. Xí nghiệp công tư hợp doanh: 498 cơ sở với 13.000 công nhân, chiếm 14,5% số cơ sở, 5,5% số công nhân và trên 15% về giá trị sản lượng của công nghiệp tư bản tư doanh. Xí nghiệp hợp tác, gia công, đặt hàng, quy tụ thành nhóm sản phẩm...: 1.600 cơ sở, với trên 7 vạn công nhân chiếm 45% về cơ sở, 30% về công nhân và khoảng 15% về giá trị sản lượng của công nghiệp tư bản tư doanh.

Số cơ sở công nghiệp tư bản tư doanh còn lại, chiếm khoảng 6% về cơ sở, 5% về công nhân và 5% về giá trị sản lượng. Số cơ sở này hoạt động trong các ngành: đường mật, ép đầu, chế biến thực phẩm, chế biến nhựa, cao su nhỏ, máy móc, sửa chữa.

- Đối với tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp đã tổ chức được 4.000 tổ đoàn kết sản xuất; 5.000 tổ hợp tác xã sản xuất; 500 hợp tác xã. Thu hút 70% lao động chuyên nghiệp trong các ngành nghề quan trọng và ở các vùng sản xuất tập trung. Riêng thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức được trên 80% lao động thủ công chuyên nghiệp trong các ngành, nghề quan trọng.

- Đối với thương nghiệp:

Trong 4 năm đã chuyển gần 5.000 tư sản thương nghiệp sang sản xuất; chuyển 9 vạn tiểu thương sang sản xuất; sử dụng được 15.000 người vào mạng lưới thương nghiệp xã hội chủ nghĩa.

Nhưng trong thời gian cải tạo, số tiểu thương kinh doanh lương thực và nông sản khác lại phát triển thêm 10 vạn người.

Qua cải tạo công thương nghiệp, Nhà nước nắm các ngành kinh tế quan trọng (kinh tế quốc doanh và công tư hợp doanh chiếm: 100% trong ngành năng lượng; 45% trong ngành cơ khí; 45% trong ngành xay xát lương thực; 100% trong ngành bia, nước ngọt, bột ngọt, thuốc lá; 45% trong các ngành chế biến đường, dầu thực vật; 60% trong ngành dệt; 100% trong ngành sản xuất giấy; 80% trong ngành sản xuất bột giặt, xà phòng).

Thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán đã mở rộng mạng lưới (92% số xã đã có hợp tác xã mua bán) gồm trên 75.000 nhân viên. Đã nắm được 80% nguồn hàng công nghiệp. Tuy vậy nguồn hàng nông sản Nhà nước nắm được ít (25 -  30% nguồn hàng). Đây là vấn đề phức tạp và nóng bỏng lúc bấy giờ.

Qua công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam từ năm 1976 - 1980, thấy rõ ở tư tưởng nóng vội trong công tác cải tạo, chưa kết hợp chặt chẽ giữa cải tạo với xây dựng. Nếu Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 24 (tháng 9-1975) khẳng định: trong một thời gian nhất định ở miền Nam còn nhiều thành phần kinh tế, thì Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ IV đặt ra mục tiêu đến năm 1980 phải hoàn thành cơ bản công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp ở miền Nam. Và đến Nghị quyết Bộ Chính trị (tháng 3-1977) đã rút ngắn thời gian 5 năm xuống trong vòng 2 năm (1977 - 1978) phải hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh miền Nam.

Rõ ràng là chính sách nhiều thành phần kinh tế đã không được thực hiện. Lý giải cho điều này, chúng ta cần nhớ lại rằng, từ các Hội nghị Trung ương 1956-1957 và Đại hội III (1960), để đảm bảo nhanh chóng tổ chức miền Bắc trở thành một hậu phương vững chắc để tiếp tế cho miền Nam đánh Mỹ, toàn bộ cơ cấu xã hội - kinh tế miền Bắc được đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa một cách nhanh chóng cho phù hợp với cơ cấu của nền kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhờ vào sự hỗ trợ về cơ sở vật chất và đào tạo nguồn nhân lực từ các nước xã hội chủ nghĩa anh em để nhanh chóng hợp lý hoá quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Việc có thể phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản lần đầu tiên đã được Lenin đề cập tại Đại hội lần thứ II của Quốc tế Cộng sản, và thực tiễn của công việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đối với các vùng lãnh thổ lạc hậu hoặc với các vùng lãnh thổ sát nhập sau đã minh chứng hùng hồn cho sự hiệu quả về con đường phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản. Điều này, đòi hỏi việc sự tồn tại của một trung tâm kinh tế - chính trị - xã hội đóng vai trò cốt lõi trong tâp thể các nước xã hội chủ nghĩa là một vai trò "sống còn" đối với việc đảm bảo khả năng các nước xã hội chủ nghĩa non trẻ mới hình thành có thể tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách nhanh chóng, và chính Liên Xô trở thành thành trì và trung tâm cách mạng cũng chính là cơ sở trung tâm để đảm bảo con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua hoàn toàn giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản của các nước xã hội chủ nghĩa non trẻ có thể được thực hiện đến cùng. Nhưng sự "suy yếu" của hệ thống kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và sau đó là cả hệ thống xã hội chủ nghĩa từ sau các cuộc cải cách kinh tế 1957-1965, đã dẫn đến hệ quả là không những khả năng cung cấp các cơ sở vật chất và đào tạo nguồn nhân lực cho các nước xã hội chủ nghĩa còn non trẻ đã giảm đi rất đáng kể, mà ngay cả trong lòng chính các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của họ cũng bắt đầu suy yếu.

Đại hội lần thứ VI của Đảng ta đã chỉ ra nguyên nhân của tình hình kinh tế nước ta là tư tưởng nóng vội, muốn qua cải tạo nhanh để đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách nhanh chóng bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, bỏ qua việc xây dựng những cơ sở vật chất nền tảng trung gian để xây dựng chủ nghĩa xã hội, chưa nhận thức sâu sắc đặc điểm của nước ta là từ sản xuất nhỏ đi lên, cần có thời kỳ quá độ dài, phải biết sử dụng các hình thức trung gian, quá độ, biết sử dụng thành phần kinh tế tư bản có lợi cho chủ nghĩa xã hội. Cũng trong thời gian đó Đảng ta cho rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, có nghĩa là chưa có nền công nghiệp, chưa có cơ sở vật chất kỹ thuật cao. Do đó phải công nghiệp hoá và muốn công nghiệp hoá thì không thể duy trì lâu thành phần tư bản chủ nghĩa, không thể dựa trên nền nông nghiệp lạc hậu, phân tán, cá thể hàng ngày hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản. Phải đẩy mạnh cuộc cách mạng quan hệ sản xuất, coi đó là bước đi tất yếu để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, đẩy nhanh cách mạng kỹ thuật, củng cố liên minh công nông, tạo cơ sở cho sự hình thành tư tưởng mới, tình cảm mới, xây dựng quyền làm chủ của nhân dân. Chính nhận thức này có tác động quan trọng đối với quyết định hoàn thành nhanh công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa. Và cũng cắt nghĩa, vì sao có lúc chủ trương về nền kinh tế nhiều thành phần cần duy trì trong một thời gian nhất định, nhưng sau đó lại đề ra nhiệm vụ sớm hoàn thành việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Nhận định như thế này không phản ánh đúng vấn đề

Không chỉ nhận định tại Đại hội VI, mà ngay cả hiện nay, sau cả Đại hội XII và XIII, quan điểm về vấn đề này vẫn tiếp tục không nhìn nhận đúng. Sai lầm của Đảng ta không phải nằm ở chỗ "nóng vội" cải tạo xã hội chủ nghĩa hay "không nhìn thấy" các hình thức trung gian vì lúc bấy giờ Đảng ta không chủ trương quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, mà là Đảng ta đang chủ trương quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản. Sai lầm của Đảng ta đó là nằm ở chỗ : một) là không sớm nhận ra bản chất phản cách mạng của các vấn đề xảy ra ở Liên Xô kể từ sau Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô, không sớm nhận ra sự phục hồi của các mầm mống kinh tế tư bản tư nhân ở Liên Xô kể từ sau Cải cách kinh tế 1956 - 1965 với kết quả là nó hoàn toàn thủ tiêu nền kinh tế tổ chức quản lý kế hoạch hoá tập trung; hai) là không sớm dứt ra khỏi mối quan hệ phụ thuộc của nền kinh tế thời kỳ quá độ bỏ qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản (hệ quả từ việc không nhìn thấy bản chất phản cách mạng), chậm trễ trong việc chuyển sang nền kinh tế thời kỳ quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nhất là trong giai đoạn những năm 1977 - 1983 (mãi đến năm 1991, tại hội Nghị Trung ương tháng 8 năm 1991, chúng ta mới chấp nhận thực tế là là con đường kia đã thất bại hoàn toàn).

Vấn đề này mang cả tính chất khách quan lẫn chủ quan. Khách quan là bởi vì chúng ta không lường trước được các sự biến ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em sau đó, bởi sự phá sản của các chính sách xét lại trong nền kinh tế Liên Xô, vốn dĩ đã thủ tiêu thành quả trong 30 năm sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Lenin và Stalin vĩ đại. Nền kinh tế quốc dân Liên Xô trong thập niên nửa sau những năm 50 đã thay đổi căn bản về mặt bản chất so với nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của 30 năm trước đó. Kết quả là các cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra liên tiếp trong hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, mà kết quả chúng ta đã biết là sự suy yếu hoàn toàn của hệ thống kinh tế này, dẫn đến việc các thế lực tư bản chủ nghĩa leo sâu vào bộ máy lãnh đạo và từng bước thay thế hoàn toàn, đảo ngược trật tự vô sản, đưa giai cấp tư sản lên nắm quyền và kết quả cuối cùng là Liên Xô sụp đổ. Vấn đề chủ quan chính là chỗ chúng ta không sớm cắt đứt khỏi những chính sách và phương pháp sai lầm đang diễn ra trong nội tại của các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là cắt đứt khỏi các chính sách xét lại trong kinh tế ở Liên Xô, xem nhẹ mối quan hệ giữa sự cung ứng vật tư, cơ sở vật chất xã hội chủ nghĩa và đào tạo nhân lực với khả năng kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân của chúng ta, kết quả các kế hoạch kinh tế bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi sự sụt giảm cung ứng vật tư, cơ sở vật chất xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, cùng với sự chia rẽ trong mối quan hệ Xô - Trung và việc chia rẽ trong mối quan hệ Việt - Trung, chúng ta đã nhận thức sâu sắc về những ảnh hưởng to lớn từ nguồn cung vật tư và cơ sở vật chất xã hội chủ nghĩa từ Trung Quốc đối với kế hoạch kinh tế quốc dân của chúng ta. Do đó, mặc dù từ năm 1979, chúng ta đã dần nhận ra những vấn đề nội tại của việc xây dựng nền kinh tế thời kỳ quá độ bỏ qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản khi phụ thuộc vào hỗ trợ vật tư và cơ sở vật chất chủ nghĩa xã hội từ các nước xã hội chủ nghĩa anh em, nhưng mãi đến khi những biểu hiện này bộc phát thành những cơn khủng hoảng gay gắt thì chúng ta mới tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, dần dần thay đổi phương châm, chuyển dần sang việc xây dựng nền kinh tế thời kỳ quá độ chỉ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, đa thành phần kinh tế, tận dụng các hình thức kinh tế tư bản, tư nhân, kinh tế cá thể và vốn đầu tư nước ngoài.

Có thể nói, chặng đường xây dựng chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn 1976-1986, là một chặng đường đau đớn đối với cách mạng nước ta, để lại nhiều bài học vô cùng quý giá, những kinh nghiệm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tương lai. 

Về cải tạo xã hội chủ nghĩa và củng cố quan hệ sản xuất trong nông nghiệp

Những tư tưởng chỉ đạo về tổ chức lại sản xuất, đưa nông nghiệp tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV tiếp tục được cụ thể hoá trong nghị quyết của các Hội nghị Trung ương lần thứ 2, 5, 6 (khoá IV); trong chỉ thị xây dựng cấp huyện ngày 24-1-1978; trong các nghị quyết của Bộ Chính trị ngày 19-9-1978 và ngày 1-9-1980.

Thực hiện các quyết định của Đảng, trong những năm 1976-1980, các hợp tác xã miền Bắc tiếp tục mở rộng quy mô, tổ chức lại theo hướng tập trung, chuyên môn hoá, cơ giới hoá.

Năm 1979, toàn miền Bắc có 4154 hợp tác xã quy mô toàn xã; một số nơi đã hợp nhất 2-3 hợp tác xã thành một hợp tác xã với quy mô trên 1.000 héc ta. Năm 1980, quy mô của một số đội sản xuất đều lớn gấp đôi so với năm 1970 và tương đương với quy mô hợp tác xã năm 1958.

Trong các hợp tác xã đều hình thành các đội chuyên, thu hút phần lớn lực lượng lao động trẻ, khoẻ làm việc theo chế độ khoán việc, vừa chịu sự điều hành của ban quản trị hợp tác xã, vừa chịu sự điều động của huyện; các đội cơ bản, phần lớn là lao động nữ và lao động già yếu, làm việc theo chế độ ba khoán rất chặt chẽ, thu nhập rất thấp. Đó là việc áp dụng quy trình lao động trong công nghiệp không phù hợp với sản xuất nông nghiệp.

Đến giai đoạn này, mô hình hợp tác xã tập thể hoá được đẩy tới trình độ cao nhất càng bộc lộ rõ nét những nhược điểm của nó. Tình trạng thất thoát, mất mát, hư hao tiền vốn, tài sản cố định trong các hợp tác xã trở thành phổ biến. Hàng năm, ở đồng bằng và trung du miền Bắc có khoảng 2,4 vạn đến 8,7 vạn héc ta ruộng đất bị bỏ hoang. Bộ máy quản lý hợp tác xã phình ra quá lớn, trở nên cồng kềnh, ngày càng xa rời thực tiễn sản xuất.

Tình hình đó làrn cho nông dân trễ nại với công việc tập thể, chỉ đồn sức đầu tư vào mảnh đất phần trăm, một số nơi xuất hiện "khoán chui".

Tháng 8-1977, Ban Bí thư ra Chỉ thị 15 về việc làm thí điểm cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp miền Nam.

Từ cuối năm 1978 đến cuối năm 1980, phong trào hợp tác hoá nông nghiệp được đẩy mạnh. Tính đến tháng 7-1980 toàn miền đã xây dựng được 1.518 hợp tác xã, 9.350 tập đoàn sản xuất, thu hút 35,6% số hộ nông dân vào con đường làm ăn tập thể.

Nét nổi bật của các hợp tác xã và các tập đoàn sản xuất các tỉnh phía Nam là tỷ lệ tập thể hoá các tư liệu sản xuất rất cao, chiếm 50% - 95% diện tích đất canh tác, 60% sức kéo. Quy mô của một hợp tác xã quá lớn (quy mô bình quân một hợp tác xã là 312 héc ta canh tác, 519 hộ xã viên, 1.005 lao động).

Ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, đến đầu năm 1979 đã căn bản hoàn thành việc đưa nông dân vào hợp tác xã và tập đoàn sản xuất. Ở 5 tỉnh duyên hải miền Trung đã xây dựng được 1.023 hợp tác xã thu hút từ 70% đến 90% hộ nông dân. Các tỉnh Tây Nguyên xây dựng được 148 hợp tác xã và 2.180 tập đoàn sản xuất.

Trong giai đoạn 1976 - 1980, trọng khi ở miền Bắc, mô hình hợp tác xã nông nghiệp theo kiểu tập trung, quy mô lớn đã phát triển đến bước cao nhất và lâm vào tình trạng trì trệ, thì mô hình ấy được đem áp dụng vào các tỉnh phía Nam – một môi trường kinh tế - xã hội có đặc thù khác. Tác động tiêu cực của nó bộ lộ ra sớm.

Nhìn chung, trên phạm vi cả nước, trong những năm 1976 - 1980, đầu tư của cả nước cho nông nghiệp không ngừng tăng lên (chiếm tỷ trọng từ 19% - 23%) là giai đoạn đầu tư cao nhất, song năng suất lúa lại giảm đến mức thấp nhất (năm 1976: 22,3 tạ/ha; năm 1977: 19,4 tạ/ha; năm 1978: 17,5 tạ ha; năm 1979: 20,7 tạ/ha; năm 1980: 20,8 tạ/ha). Nhà nước buộc phải nhập khẩu lương thực ngày càng lớn. Sự trì trệ của các hợp tác xã nông nghiệp đã ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Thực tiễn khắc nghiệt đòi hỏi nông nghiệp phải tìm chọn một hướng đi mới.

Về phát triển sản xuất công nghiệp

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV đã đề ra cho ngành công nghiệp phấn đấu đến năm 1980 đạt các chỉ tiêu sau đây: 10 triệu tấn than, 5 tỷ KWh điện, 2 triệu tấn xi măng, 1,3 triệu tấn phân hoá học, 25-30 vạn tấn thép, 450 triệu mét vải, 13 vạn tấn giấy, sản lượng cơ khí tăng 2,5 lần so với năm 1975. Vài năm đầu, sản xuất phát triển đều, nhưng sau đó, sản xuất tụt xuống. Tốc độ tăng bình quân về công nghiệp thời kỳ 1976 - 1980 là 0,6%, do vậy các mục tiêu Đại hội đề ra đều không đạt: điện đạt 72%, than 52%, vải lụa 39%, giấy 37%, xi măng 32%,... Nền kinh tế có chiều hướng đi xuống.

Đến năm 1979, tình hình kinh tế xã hội rất khó khăn. Nhiều nhu cầu tối thiểu trong đời sống nhân dân, do sản xuất trì trệ nên không đáp ứng được, năm 1980 nhập 1.576.000 tấn lương thực; hàng hoá tiêu dùng thiếu gay gắt. Các con số sau đây cho thấy rõ khó khăn của năm 1979 - 1980. Bình quân lương thực đầu người năm 1976: 274 kg, năm 1980: 268 kg. Nhiều sản phẩm công nghiệp giảm hoặc tăng không đáng kể.

Nhập gấp 4 - 5 lần xuất, ví dụ 1979 nhập 1526 triệu rúp - đôla, xuất 320 triệu rúp - đôla. Thu, chi mất cân đối nghiêm trọng. Giá cả năm sau tăng so với năm trước: năm 1976: 128%; năm 1977: 117%; năm 1978: 120,9%; năm 1979: 119,4%; năm 1980: 125%.

Như vậy có thể nói cuối những năm 70 nước ta bước vào cuộc khủng hoảng. Biểu hiện, rõ nhất là sản xuất trì trệ. Giá cả mỗi năm tăng trên dưới 20%.

Vì sao có tình hình nói trên? Về khách quan: hậu quả chiến tranh lâu dài và sau đó lại phải đối phó với hai cuộc chiến tranh ở biên giới để bảo vệ Tổ quốc; viện trợ so với thời kỳ chiến tranh giảm. Nhưng điều quan trọng là phải thấy khuyết điểm, sai lầm chủ quan trong lãnh đạo quản lý của Đảng và Nhà nước ta. Đứng trước tình hình đó, Đảng ta giải quyết như thế nào ? Ở đây cần nhận rõ vai trò của Hội nghị Trung ương lần thứ 6 khoá IV họp tháng 8-1979 bàn những vấn đề cấp bách về kinh tế- xã hội và vấn đề sản xuất hàng tiêu dùng Hội nghị có những nhận định, những chủ trương có tính chất đổi mới thể hiện trên những điểm sau đây:

- Trước hết, về đánh giá tình hình, Hội nghị đã vạch rõ những khuyết điểm, sai lầm trong lãnh đạo kinh tế: xây dựng kế hoạch tập trung quan liêu, chưa kết hợp chặt chẽ kế hoạch hoá với sử dụng thị trường; chưa phát huy vai trò của kinh tế quốc doanh, cũng như chưa sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế cá thể và tư sản dân tộc ở miền Nam; chậm khắc phục sự trì trệ, bảo thủ trong việc xây dựng các chính sách cụ thể về kinh tế, tài chính để khuyến khích sản xuất; có những biểu hiện nóng vội, giản đơn trong công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam.

- Hai là, Hội nghị chủ trương phải ban hành các chính sách phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu, trước hết là sản xuất nông nghiệp với các chính sách tiến bộ: ổn định mức nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần còn lại bán cho Nhà nước với giá thoả thuận hoặc được tự do lưu thông; khuyến khích hợp tác xã, gia đình xã viên tận dụng diện tích đất, hồ, ao còn bỏ hoang hoặc bỏ hoá, ổn định mức bán thịt lợn, phần còn lại bán giá thoả thuận cho Nhà nước hoặc lưu thông tự do; sửa lại giá lương thực, nông sản, bỏ lối phân phối theo định suất, định lượng trong các hợp tác xã, bảo đảm phân phối theo nguyên tắc lao động.

-Ba là, thể hiện ở lĩnh vực cải tạo xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Trung ương 6 (về công nghiệp hàng tiêu dùng) chỉ rõ: Phải tận dụng các thành phần kinh tế: quốc doanh, công tư hợp doanh, tập thể, cá thể (kể cả tư sản được kinh doanh hợp pháp. Phải tuỳ từng ngành nghề, từng mặt hàng và xuất phát từ hiệu quả kinh tế và vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức sản xuất thích hợp, quốc doanh, tập thể hoặc cá thể. Cái gì hợp tác xã đã làm tốt thì không vội vàng thay thế bằng quốc doanh... Đối với cá thể, kể cả sản xuất, sửa chữa và dịch vụ, xét sản phẩm nào, công việc nào cá thể hiện đang làm tốt, phục vụ tốt thì giúp cá thể tiếp tục làm: một số mặt hàng hiện do quốc doanh phụ trách sản xuất, nay nếu xét để cho tiểu, thủ công nghiệp và tư bản tư nhân sản xuất có điều kiện phát triển sản xuất thuận lợi hơn, thì cần mạnh dạn giao lại cho tiểu thủ công và tư nhân làm. Đối với công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa ở miền Nam, uốn nắn những lệch lạc, thực hiện đúng chủ trương của Đảng về sự tồn tại các thành phần kinh tế để tận dụng mọi khả năng lao động, kỹ thuật, quản lý nhằm phát triển sản xuất.

-Bốn là, về thái độ đối với công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, Nghị quyết chỉ rõ: "Về cải tạo đối với nông nghiệp ở miền Nam, phải nắm vững phương châm tích cực và vững chắc, hiện nay phải nhấn mạnh vững chắc; chống tư tưởng nóng vội, chủ quan, cưỡng ép mệnh lệnh, làm ồ ạt gây thiệt hại cho sản xuất và đời sống của nhân dân".

Hội nghị Trung ương lần thứ 6 khoá IV có vị trí quan trọng vì Hội nghị đề ra một số quan niệm, chủ trương đổi mới, tuy chưa cơ bản và toàn diện như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhưng đó là bước mở đâu có ý nghĩa. Tư tưởng nổi lên ở đây là "làm cho sản xuất bung ra", nghĩa là phải khắc phục những khuyết điểm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa đề ra chủ trương phù hợp để phát triển lực lượng sản xuất. Có đồng chí cho rằng Nghị quyết Trung ương lần thứ 6 có nhiều điểm mới, nhưng vì sao không được thực hiện? Đúng là Nghị quyết không phải dễ dàng đi vào cuộc sống. Có một số điểm đổi mới không được thực hiện, nhưng không phải nghị quyết Trung ương 6 không phát huy tác dụng.

Sau Nghị quyết Trung ương 6, đã có những đổi mới quan trọng trong kinh tế. Chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã, thường gọi là "khoán 100", thể hiện sự đổi mới tư duy trong việc cải cách một phần mô hình hợp tác xã.

Chỉ thị đã nêu lên mục đích và nguyên tắc khoán và để thực hiện mục đích đó phải nắm vững phương hướng chủ yếu cải tiến công tác khoán trong hợp tác xã nông nghiệp là: "Khuyến khích hơn nữa lợi ích chính đáng của người lao động và làm cho mọi người tham gia các khâu trong quá trình sản xuất và quản lý của hợp tác xã đều thực sự gắn bó với sản phẩm cuối cùng, do đó mà đưa hết nhiệt tình và khả năng ra lao động sản xuất và xây dựng, củng cố hợp tác xã

Khoán sản phẩm đến người lao động trong thời điểm đó được thể hiện ở mức khoán cho người lao động một diện tích nhất định, người xã viên thường làm 3 khâu: cấy, chăm sóc, thu hoạch, còn hợp tác xã làm 5 khâu. Nếu vượt khoán thì xã viên được hưởng. Do đó đã phát huy được tính tích cực lao động của người xã viên, thúc đẩy họ tăng thêm sức, tận dụng đất đai, đầu tư phân bón, cải tiến kỹ thuật, tận thu mùa màng để có năng suất và sản lượng cao.

Chỉ thị 100 đã tạo ra một động lực mới trong sản xuất nông nghiệp. Chưa có hình thức kinh tế nào khi xuất hiện lại được nhiều người bàn luận sôi nổi và được mở rộng nhanh chóng, biến thành một phong trào quần chúng sâu rộng, thu hút hàng triệu nông dân, không những đem lại hiệu quả kinh tế lớn mà còn mở ra triển vọng tốt đẹp cho việc cải tiến quản lý nông nghiệp, như hình thức khoán sản phẩm đến người lao động. Với hình thức khoán ấy, tuy còn ở trình độ thấp, đã tạo nên không khí phấn khởi trong nông dân. Nhiều hiện tượng tiêu cực trong sản xuất và phân phối, tình trạng chểnh mảng trong lao động tồn tại hàng chục năm ở không ít hợp tác xã, trải qua nhiều đợt cải tiến quản lý không khắc phục được, thì chỉ trong một vụ đông xuân áp dụng cách khoán mới, đã giảm đi nhiều.

Quyết định số 25-CP, ngày 21-1-1981 về một số chủ trương và biện pháp nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh, là một đổi mới có ý nghĩa trong quản lý công nghiệp, cũng là sự thế hiện tinh thần đổi mới của Nghị quyết Trung ương 6.

Sau khi nêu lên ba nguyên tắc để định hướng cho các chủ trương, biện pháp cải tiến công tác kế hoạch hoá và hạch toán kinh tế ở các xí nghiệp quốc doanh, quyết định chỉ rõ cần tiến hành một số công tác, trong đó có việc cải tiến kế hoạch. Kế hoạch của xí nghiệp bao gồm ba phần:

1- Phần Nhà nước giao có vật tư bảo đảm:

Căn cứ vào số kiểm tra của kế hoạch Nhà nước, xí nghiệp phải xây dựng kế hoạch dựa trên những định mức, tiêu chuẩn kinh tế - kỹ thuật đã được Nhà nước hay ngành quy định, bảo đảm các chỉ tiêu kế hoạch được xây dựng theo tinh thần tích cực, vững chắc.

Các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao cho xí nghiệp phải được cân đối với điều kiện vật chất cung ứng cho xí nghiệp. Cần đối được đến đâu thì Nhà nước giao nhiệm vụ kế hoạch đến đó, dựa trên những định mức, tiêu chuẩn hợp lý...

2. Phần xí nghiệp tự làm:

Khi kế hoạch Nhà nước giao chưa huy động được hết năng lực sản xuất của xí nghiệp vì Nhà nước không bảo đảm cung ứng đủ vật tư, nguyên liệu, nếu xí nghiệp có khả năng tự lo được phần vật tư, nguyên liệu còn thiếu để sản xuất thêm sản phẩm trong nhiệm vụ thiết kể của xí nghiệp thì xí nghiệp được xây dựng phần kế hoạch tự làm.

3- Sản xuất phụ: là bộ phận sản xuất do xí nghiệp tự tổ chức thêm, không nằm trong nhiệm vụ sản xuất của xí nghiệp..

Về tiêu thụ sản phẩm: Những sản phẩm của xí nghiệp quốc doanh trong phần kế hoạch Nhà nước giao và phần kế hoạch tự làm đều phải bán cho cơ quan vật tư hay thương nghiệp quốc doanh để phân phối theo kế hoạch của Nhà nước.

Những mặt hàng thuộc phần sản xuất phụ thì ưu tiên bán cho thương nghiệp quốc doanh. Nếu thương nghiệp quốc doanh không nhận tiêu thụ hoặc không thực hiện hợp đồng tiêu thụ thì xí nghiệp có quyền bán cho hợp tác xã mua bán hoặc tự tiêu thụ.

Trong phần kế hoạch tự làm, nếu xét cần thiết giữ lại một phần để đổi lấy vật tư (kể cả vật tư nhập khẩu) để tiếp tục sản xuất, thì xí nghiệp phải đề nghị cấp có thẩm quyền cho phép.

Đối với sản phẩm phụ cho phép xí nghiệp giữ lại không quá 10% để làm hiện vật thưởng cho công nhân, viên chức trong xí nghiệp.

Về giá cả

Đối với những sản phẩm sản xuất theo kế hoạch Nhà nước giao, có vật tư bảo đảm, sẽ căn cứ vào giá thành kế hoạch hợp lý và lợi nhuận xí nghiệp định mức để quy định giá bán buôn xí nghiệp. Các giá bán buôn công nghiệp, chiết khấu thương nghiệp và giá bán lẻ đều phải theo giá chỉ đạo.

Đối với những sản phẩm sản xuất theo kế hoạch tự làm thì giá bán buôn xí nghiệp phải dựa trên cơ sở giá thành tính theo giá mua nguyên, vật liệu thoả thuận và lợi nhuận xí nghiệp định mức tính trên cơ sở giá thành này. Lợi nhuận định mức (tính theo số tuyệt đối) được tính gấp từ hai đến bốn lần lợi nhuận định mức đối với sản phẩm sản xuất theo kế hoạch Nhà nước giao.

So với kế hoạch đang thực hiện hiện nay thì việc cải tiến ấy là nhỏ. Nhưng đặt vào thời điểm lúc đó thì việc cải tiến đó có ý nghĩa giúp cho các cơ sở tự giải quyết một phần khó khăn và điều quan trọng hơn nữa là quyết định 25 gợi mở cho chúng ta những suy nghĩ đổi mới không phải chỉ trong kế hoạch mà cả trong lĩnh vực giá cả, lợi nhuận, tiền thưởng.

Nhìn tổng quát thời kỳ 1976-1980, nền kinh tế nước ta ở trạng thái trì trệ. Sự trì trệ thể hiện ở chỗ trong 5 năm 1976-1980 sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm là 0,6%, nông nghiệp là 1,9%, thu nhập quốc dân 0,4%, trong khi dân số tăng 4,5 triệu người.



Đánh giá thực trạng đó, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn trình bày tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã chỉ rõ: "Năm năm qua, bên cạnh thắng lợi và thành tựu, có rất nhiều khó khăn; và hiện nay, trên mặt trận kinh tế, đất nước ta đang đứng trước nhiều vấn đề gay gắt. Kết quả thực hiện kế hoạch kinh tế trong 5 năm (1976-1980) chưa thu hẹp được những mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế quốc dân. Sản xuất phát triển chậm trong khi số dân tăng nhanh. Thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được tiêu dùng xã hội, một phần tiêu dùng xã hội phải dựa vào vay và viện trợ, nền kinh tế chưa tạo được tích luỹ. Lương thực, vải mặc và các hàng tiêu dùng thiết yếu đều thiếu. Tình hình cung ứng năng lượng, vật tư, tình hình giao thông vận tải rất căng thẳng. Nhiều xí nghiệp sử dụng công suất ở mức thấp. Chênh lệch giữa thu và chi tài chính, giữa hàng và tiền, giữa xuất khẩu và nhập khẩu còn lớn. Thị trường và vật giá không ổn định. Số người lao động chưa được sử dụng còn đông. Đời sống nhân dân lao động còn nhiều khó khăn…".

Ngoài việc đánh giá tình hình nói trên, Đại hội lần thứ V có mấy điểm đổi mới quan trọng

-Một là, vạch rõ nguyên nhân của những khó khăn. Sau khi nói rõ nguyên nhân khách quan: Nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ, gánh chịu những hậu quả hết sức nặng nề của chiến tranh lâu dài, lại phải tiếp tục cuộc chiến tranh giữ nước, thiên tại lớn đồn dập xảy ra. Đại hội chỉ rõ: "Song mặt khác, khó khăn còn do khuyết điểm, sai lầm của các cơ quan Đảng và Nhà nước ta từ Trung ương đến cơ sở về lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Trên những mặt nhất định, khuyết điểm, sai lầm về lãnh đạo và quản lý là nguyên nhân chủ yếu gây ra hoặc làm trầm trọng thêm tình hình khó khăn về kinh tế và xã hội trong những năm qua".

Đại hội còn vạch ra một số biểu hiện cụ thể của sai lầm nói trên như: chưa thấy hết những khó khăn, phức tạp của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế mà sản xuất nhỏ còn phổ biến; thấy chưa hết quy mô của những đảo lộn kinh tế và xã hội sau cuộc chiến tranh lâu dài; chưa thấy hết khó khăn, phức tạp, những yếu kém của chúng ta về quản lý kinh tế và xã hội; lường chưa hết những diễn biến có mặt không thuận lợi trong tình hình thế giới. Do đó, đã chủ quan, nóng vội đề ra một số chỉ tiêu quá lớn về quy mô và quá cao về tốc độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất, nhất là lúc ban đầu. Nóng vội còn một số biểu hiện khác như đưa quy mô hợp tác xã nông nghiệp lên quá lớn ở một số địa phương, như lập kế hoạch và triển khai xây dựng một số công trình khi còn rất thiếu tài liệu điều tra, nghiên cứu và chuẩn bị chưa chu đáo.

Đại hội còn nêu rõ tư tưởng hết sức bảo thủ, trì trệ của chúng ta thể hiện ở chỗ: không đánh giá đúng các thuận lợi và khả năng về lao động, đất đai, rừng, biển, các cơ sở kỹ thuật sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, không chịu suy nghĩ tìm biện pháp phát huy thuận lợi, khả năng. Duy trì quá lâu cơ chế quản lý hành chính quan liêu, bao cấp, chậm thay đổi các chính sách và chế độ kìm hãm sản xuất

Nội dung tự phê bình nói trên, so với nhận thức sau này của Đảng ta, ví dụ nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, sớm xoá bỏ các thành phần kinh tế, trong thực tiễn không áp dụng những quy luật của sản xuất hàng hoá, v.v. chưa được đề cập, nhưng việc vạch ra được những khuyết điểm, sai lầm nói trên cũng thể hiện một sự đổi mới trong tư duy của Đảng.

-Hai là, Đại hội đã nêu ra "chặng đường trước mắt bao gồm thời kỳ 5 năm 1981 - 1985 và kéo dài đến năm 1990 là khoảng thời gian có tầm quan trọng đặc biệt, xác định rõ nội dung cụ thể của chặng đường trước mắt về chính trị, kinh tế, tư tưởng và văn hoá.

-Ba là, Đại hội đã điều chỉnh việc xây dựng cơ cấu kinh tế theo chủ trương sau đây: "trong 5 năm 1981 1985 và những năm 80, cần tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý". Đó là những nội dung chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường trước mắt.

Đó cũng chính là thực hiện "ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ", tạo ra lực lượng sản xuất mới trong chặng đầu tiên này, đồng thời chuẩn bị tiền đề và lực lượng cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong những năm tiếp sau, mà nội dung chính sẽ là "xây dựng cơ cấu công - nông nghiệp hiện đại, lấy hệ thống công nghiệp nặng tương đối phát triển làm nòng cốt"..

-Bốn là, Đại hội xác định "trong một thời gian nhất định... ở miền Nam còn 5 thành phần kinh tế (quốc doanh, tập thể, công tư hợp doanh, cá thể và tư bản tư nhân)". "Thời gian nhất định" nêu ra ở đây có nghĩa là một thời gian ngắn. Vì khi đề ra nhiệm vụ 5 năm 1981 - 1985, Đại hội đã đề ra nhiệm vụ "quyết tâm đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, hoàn thành về cơ bản việc hợp tác hoá nông nghiệp ở các tỉnh Nam Bộ với hình thức phổ biến là tập đoàn sản xuất, phấn đấu hoàn thành về cơ bản cải tạo thương nghiệp, vận tải, công nghiệp, tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp ở miền Nam bằng cách làm và hình thức thích hợp". Đại hội chưa thấy được sự cần thiết phải duy trì nền kinh tế nhiều thành phần trong một thời gian dài.

Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, có 11 hội nghị Trung ương phần lớn tập trung bàn vấn đề kinh tế.

Dưới đây xin nêu một số nét về việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ V.

Về nông nghiệp:

Sau khi có Chỉ thị 100, phần lớn các hợp tác xã ở miền Bắc đã thực hiện khoán sản phẩm đến người lao động; ở các tỉnh Nam Bộ thực hiện Nghị quyết Đại hội đã đẩy mạnh tập thể hoá bằng hình thức tập đoàn, có kết hợp với việc khoán mới. Theo sự điều chỉnh về cơ cấu kinh tế, Nhà nước đầu tư cho nông nghiệp mỗi năm mỗi tăng: năm 1981 là 2938 triệu đồng, năm 1985 lên 4608 triệu đồng. Phân hoá học, năm 1981 là 783.000 tấn, năm 1985 lên 1819000 tấn. Với cơ chế khoán mới cùng với sự đầu tư của Nhà nước về thuỷ lợi, phân bón, giống v.v. nền nông nghiệp trong thời kỳ 1981 - 1985 có sự phát triển khá, bình quân mỗi năm tăng 4,9% so với 1,9% bình quân những năm 1976 - 1980. Sản lượng lương thực tăng đều trong 5 năm từ 15 triệu tấn năm 1981 lên 18,2 triệu tấn năm 1985. Thịt lợn cũng tăng đều: 567.000 tấn lợn hơi năm 1981 lên 748.600 tấn năm 1985. Bình quân lương thực đầu người từ 273 kg năm 1981 lên 304 kg năm 1985.

Về công nghiệp:

Nhờ có Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 với tinh thần khắc phục những trở ngại làm cho sản xuất bung ra, nên sau đó có một số cải tiến chính sách khuyến khích sản xuất, trong đó có Quyết định 25-CP, nên sản xuất công nghiệp thời gian này phát triển khá. Đương nhiên có những công trình xây dựng những năm 1976 - 1980, đến kế hoạch 5 năm 1981 - 1985 mới phát huy tác dụng. Tốc độ tăng bình quân hàng năm của công nghiệp trong các năm 1981 - 1985 là 9,5%.

Phân phối lưu thông:

Một vấn đề đặt ra là trong những năm 1976 - 1980, tình hình kinh tế khó khăn gay gắt, có nguyên nhân khá rõ là sản xuất trì trệ: sản xuất nông nghiệp chỉ tăng 1,9%, công nghiệp 0,6% năm. Nhưng những năm 1981 - 1985 sản xuất tăng khá: nông nghiệp 4,9%, công nghiệp 9,5%. Nhưng vì sao tình hình lại khó khăn hơn, khủng hoàng lại nghiêm trọng hơn. Có thể có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân quan trọng nhất là trên lĩnh vực lưu thông phân phối có nhiều vấn đề nóng bỏng nhưng chưa được giải quyết.

Trong 5 năm 1976 - 1980, giá cả có tăng. Nếu lấy năm 1976 là 100 thì năm 1980, giá bán lẻ hàng hoá thị trường xã hội là 189,5%. Tăng như vậy là lạm phát, đã tác động nhiều đến sản xuất và đời sống. Nhưng thời gian 1981 - 1985 giá cả tăng vọt. Nếu lấy năm 1976 là 100 thì năm 1981 là 313,7% và năm 1985 còn cao hơn nhiều.

Cần xem xét cách xử lý vấn đề lưu thông phân phối trong thời kỳ này như thế nào, có điểm gì là tư duy mới.

Tiến hành cải cách giá và lương lần thứ nhất năm 1981 - 1982

Nét nổi bật của lần này là tăng giá, tăng lương, thực hiện việc chuyển đổi từ cơ chế một giá do Nhà nước quy định sang cơ chế hai giá đối với cả giá hàng tiêu dùng, giá bán vật tư và giá mua sản phẩm theo hợp đồng, giảm mặt hàng cung cấp theo tem phiếu, chuyển phần lớn giá cung cấp qua giá kinh doanh thương nghiệp.

Nội dung điều chỉnh cụ thể lần này là:

Đối với giá hàng tiêu dùng: Giữ lại 9 - 11 mặt hàng cung cấp theo định lượng tem phiếu và 6 mặt hàng cung cấp không định lượng theo giá cung cấp cho cán bộ, công nhân viên chức, lực lượng vũ trang.

Ngoài diện và ngoài mức cung cấp nói trên, mặt hàng khác bán theo giá kinh doanh (hai giá); đồng thời bù lương lên 2 lần cho các đối tượng hưởng cung cấp.

Đối với giá bán vật tư và mua nông sản: Nâng giá vật tư, tư liệu sản xuất lên 5 - 7 hoặc 10 lần tuỳ loại và nâng ngay một lần vào quý I năm 1982, đồng thời đưa giá thu mua trong hợp đồng lên trên dưới 5 lần. Đối với phần sản phẩm mua ngoài hợp đồng áp dụng giá cao hơn, có thể gọi là giá thoả thuận.

Đối với tỷ giá: Nâng tỷ giá hối đoái từ 5,64 đồng lên 17 đồng / 1 rúp chuyển nhượng.

Kết quả thực hiện trong 4 năm (1981 - 1985). Do một phần trong hệ thống giá cả đã sát với thực tế hơn, nên sản xuất, lưu thông trong thời gian này có tốc độ tăng khá hơn, bội chi ngân sách nhà nước có giảm trong 2 năm 1983 và 1984.

Tuy nhiên, do hệ thống giá cung cấp vẫn được duy trì tiếp trong thời gian dài, nhiều loại giá khác chủ yếu vẫn do Nhà nước quy định. Kết quả là giá nhà nước và giá thị trường tự do càng cách xa nhau về tổng chỉ số và nhất là đối với từng mặt hàng vì giá Nhà nước định được giữ ổn định hoặc điều chỉnh ít hơn trong lúc giá thị trường tăng nhanh. Do thời gian thực hiện "hai giá" kéo dài trên diện rộng trong khi thiếu giải pháp hữu hiệu làm giảm lạm phát, bản thân hệ thống giá chỉ đạo bị co hẹp (do thiếu cơ sở vật chất) và nhiều ngành công nghiệp có khi phải sử dụng cả nguyên liệu theo giá tự do, nên đã làm tăng bù lỗ phần phải bù lỗ từ ngân sách cho công nghiệp, xây dựng, cho việc cung ứng hàng hoá cho công nhân (vì ngân sách vẫn trả lương cho xí nghiệp quốc doanh). Riêng năm 1983 - 1984 có đến 1/3 chi ngân sách là bù lỗ và bù giá cho khu vực nhà nước. Đây là một trong những nguyên nhân đã kích động lạm phát lên nhanh.

Lạm phát trầm trọng thêm lại đẩy giá thị trường tiếp tục tăng nhanh (năm 1985 tăng trên 300% so với năm 1984).

Trước tình hình trên, tháng 6-1985, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 chuyên bàn về giá - lương - tiền đã đưa ra quyết định rất đúng đắn là phải dứt khoát xoá bỏ tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện đúng chế độ tập trung dân chủ, hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

Hội nghị khẳng định: Khâu đột phá có tính chất quyết định để chuyển hẳn nền kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa là xoá bao cấp qua giá và lương. Nội dung chính giải quyết giá - lương - tiền là: Thực hiện cơ chế một giá (tính đủ chi phí hợp lý trong giá thành sản phẩm). Tiền lương thực tế bảo đảm cho người ăn lương sống chủ yếu bằng lương, xoá bỏ cung cấp hiện vật. Các ngành kinh tế, kỹ thuật, các địa phương và cơ sở sản xuất chuyển hẳn mọi hoạt động sản xuất kinh doanh sang chế độ hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, xoá mọi khoản bù lỗ bất hợp lý trừ trường hợp cá biệt. Nhanh chóng chuyển hẳn công tác ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

Qua nội dung trên, thấy rõ Hội nghị Trung ương lần thứ 8 đã có sự đổi mới về tư duy trên lĩnh vực lưu thông phân phối một cách cơ bản. Điều quan trọng ở đây là thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật của sản xuất hàng hóa.

Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 8, đã tiến hành đợt điều chỉnh giá - lương - tiền lần thứ hai.

Những nội dung chủ yếu của đợt điều chỉnh bao gồm: Thực hiện một giá kinh doanh, xoá bỏ hoàn toàn giá cung cấp và chế độ tem phiếu, chỉ giữ lại sổ gạo cho cán bộ, công nhân, viên chức, lực lượng vũ trang, đối tượng chính sách để bảo hiểm khi giá lương thực có đột biến. Tổng điều chỉnh toàn bộ hệ thống giá Nhà nước chỉ đạo, lấy giá lúa thị trường tháng 8-1985 đưa toàn bộ mặt bằng giá chỉ đạo lên khoảng 10 lần so với trước tháng 10-1985. Trên cơ sở mức giá mới tính lại tiền lương theo mức tăng của giá. Đổi tiền (1 đông đồng tiền cũ) với ý muốn làm tăng khả năng chi trả của ngân hàng lên 10 lần so với tiền hiện có lúc đó để giải quyết yêu cầu tiền do tăng lương, tăng giá. Thay đổi tỷ giá hối đoái 17 đồng thành 210 đồng một rúp chuyển nhượng.

Hệ quả là đã dẫn đến tình trạng lạm phát phi mã trong 3 năm 1986-1988. So với năm trước thì mỗi năm đã tăng 3 con số là hiện tượng chưa từng có. Vì thế nên năm 1986 đã phải lùi lại một bước, thực hiện trở lại chính sách hai giá, bán lẻ 6 mặt hàng, sau rút xuống 4 mặt hàng theo giá cung cấp mới. Đồng thời giá mua cũng cho phép áp dụng trở lại giá thoả thuận đối với phần nông sản phẩm mua bằng tiền không có vật tư đối lưu.

Nguyên nhân của tình hình trên là, mặc dù đã thực hiện chế độ một giá, nhưng vẫn là giá thống nhất do Nhà nước trung ương và địa phương quy định, chưa phải giá do thị trường quyết định. Làm toàn diện (giá - lương) mức độ lớn (10 lần) trong một thời gian ngắn gây ra cú sốc lớn cho kinh tế, đời sống, tâm lý xã hội. Không tính đến khả năng tác động và hệ quả xấu đối với ngân sách Nhà nước. Không đồng bộ đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.

Trước tình hình đó, cuối tháng 5-1986, Hội nghị Trung ương lần thứ 10 đã khẳng định Nghị quyết Trung ương lần thứ 8 là đúng đắn và nhất trí không ra Nghị quyết mới mà giao cho Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết về một số chủ trương, biện pháp trước mắt tập trung thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8.

Trong khi việc cải cách giá - lương - tiền của Trung ương còn đang gặp nhiều khó khăn thì có một số tỉnh, trong đó có Long An giải quyết vấn đề giá - lương - tiền đã đạt kết quả bước đầu. Long An, một tỉnh có nhiều khó khăn do chiến tranh biên giới, do lũ lụt (mất 1/2 tổng sản lượng nông nghiệp). 5 năm liền không đóng góp cho Trung ương, phân phối lưu thông bế tắc, kinh tế suy giảm. Giải quyết vấn đề giá - lương - tiền, Long An đã thực hiện chính sách giá mua bán thoả thuận, gần sát giá thị trường (mua thấp hơn từ 10 đến 15%, bán thấp hơn từ 5 đến 15%); hợp đồng hai chiều, ứng trước cho dân và ngoài phần nghĩa vụ, Nhà nước mua hàng của dân theo giá hợp đồng; thống nhất một giá bán, xoá bỏ cung cấp theo tem phiếu. Người được hưởng cung cấp được bù giá đủ tiêu chuẩn theo giá của thương nghiệp. Sau 5 năm thực hiện chính sách giá, lương mới, nền kinh tế của Long An có chuyển biến tốt. Phần hàng hoá do tỉnh bán ra, phần tích luỹ và đóng góp cho Nhà nước đều tăng dần. Kim ngạch xuất khẩu năm 1984 được 6 triệu rúp - đôla, gấp 12 lần năm 1981. Ngân sách địa phương bội thu, điều tiết được tiền mặt trôi nổi trong lưu thông.

Mặc dù trong việc lãnh đạo tiến trình đổi mới về giá - lương - tiền trên phạm vi cả nước không thành công, nhưng Đảng ta vẫn kiên trì đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ theo định hướng đúng của Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8.

Việc chuẩn bị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI được bắt đầu từ cuối năm 1985 trong tình hình khó khăn như trên. Dự thảo Báo cáo chính trị lần đầu đưa ra lấy ý kiến chưa đáp ứng yêu cầu của cán bộ, đảng viên và nhân dân, vì đánh giá tình hình chưa thật sát, chủ yếu là chưa thấy đúng mức sai lầm nghiêm trọng trong lãnh đạo, quản lý; chưa nêu ra được những bài học cơ bản rút ra từ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; chưa đề ra được những chủ trương đổi mới quan trọng về kinh tế để có thể làm chuyển biến tình hình.

Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Bộ Chính trị (khoá V) chỉ đạo tiểu ban chuẩn bị văn kiện phải tập trung nghiên cứu những quan điểm kinh tế quan trọng nhất, có ý nghĩa chỉ đạo công cuộc xây dựng kinh tế ở nước ta, làm rõ những nhận thức khác nhau về những vấn đề đó. Căn cứ ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, tiểu ban chuẩn bị văn kiện đã đi sâu nghiên cứu các vấn đề lớn về kinh tế: Cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư, cải tạo xã hội chủ nghĩa để xây dựng quan hệ sản xuất mới, cơ chế quản lý kinh tế, tìm hiểu xem đối với các vấn đề đó trong cán bộ, đảng viên, trong cán bộ lãnh đạo, cán bộ tham mưu, cán bộ lý luận có những nhận thức khác nhau thế nào, lập luận của mỗi loại ý kiến ra sao ? Bộ Chính trị yêu cầu các vấn đề đó phải trình bày rõ điểm nào đã nhất trí, những điểm nào còn có ý kiến khác nhau, để Bộ Chính trị thảo luận, làm rõ đúng sai, và có kết luận, lấy đó làm cơ sở nâng cao chất lượng của Báo cáo chính trị.

Dưới dây là những ý kiến khác nhau về các vấn đề cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa, cơ chế quản lý kinh tế được trình bày để Bộ Chính trị thảo luận.

Về cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư:

-Loại ý kiến thứ nhất nhấn mạnh rằng: để thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm, thì phải ưu tiên đẩy mạnh xây dựng công nghiệp nặng; vừa qua vì chúng ta chưa đầu tư đúng mức và có hiệu quả cho công nghiệp, nhất là công nghiệp nặng, nên công nghiệp nặng hiện nay còn quá yếu, không đủ sức phục vụ nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Do đó, sắp tới để thực hiện được nhiệm vụ phát triển công nghiệp là mặt trận hàng đầu, tập trung đầu tư cho công nghiệp nặng, đẩy nhanh việc xây dựng các công trình dở dang và tranh thủ khả năng xây dựng thêm những công trình then chốt về năng lượng, cơ khí, phân bón,... Phải đưa nông nghiệp lên bằng con đường phát triển công nghiệp nặng, không thể phát triển nông nghiệp theo kiểu "làm nông nghiệp chay". Hơn nữa, nếu không xây dựng thêm những công trình mới, thì sắp tới nhiều ngành công nghiệp sẽ hết công trình gối đầu.

- Loại ý kiến thứ hai nhấn mạnh rằng: trong chặng đường đầu tiên, nhất là trong tình hình rất khó khăn về tiền vốn và vật tư hiện nay, phải quán triệt chủ trương về bước đi công nghiệp hoá của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, tập trung lực lượng phát triển sản xuất nông nghiệp và hàng tiêu dùng; xây dựng công nghiệp nặng phải chọn lựa chặt chẽ, vừa sức và có hiệu quả, nhằm phục vụ trực tiếp nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Việc xây dựng công nghiệp nặng phải theo tinh thần: những gì nhất thiết phải tạo ra ở trong nước (như điện, than, phân lân,...) thì cố gắng tìm cách làm nhanh (với quy mô và kỹ thuật thích hợp), có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu càng nhanh, càng tốt. Những gì có thể thông qua xuất nhập khẩu thì nên cân nhắc đầy đủ để chọn phương án có lợi nhất. Phải kiên quyết thu hẹp diện công trình xây dựng, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư, tập trung vốn và vật tư cho việc thực hiện các chương trình đồng bộ về sản xuất lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu.

Về vấn đề cải tạo xã hội chủ nghĩa và củng cố quan hệ sản xuất mới, có những ý kiến khác nhau về việc cắt nghĩa vì sao quan hệ sản xuất mới được xây dựng lại có nhiều yếu kém? Chủ trương như thế nào để khắc phục tình hình đó?

-Loại ý kiến thứ nhất cho rằng: có tình hình nói trên là do chúng ta buông lỏng công tác cải tạo, buông lỏng công tác quản lý thị trường, đánh giá không đúng mặt tiêu cực của các thành phần kinh tế tư bản và cá thể, để cho các thành phần ấy tự do phát triển, nhất là trong thương nghiệp, lấn át cả kinh tế quốc doanh và tập thể, dẫn đến rối loạn trong quản lý.

Theo ý kiến nói trên thì 5 năm tới phải đẩy nhanh hơn nữa công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa, dứt khoát hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa vào năm 1990 với mức độ cao. Do kinh tế cá thể và kinh tế tư nhân có nhiều mặt tiêu cực cho nên tốt nhất là đưa họ vào con đường làm ăn tập thể hoặc hợp doanh với Nhà nước càng sớm càng tốt. Chỉ sử dụng trong chừng mực nào đó tư sản sản xuất ở miền Nam; không cho tư sản phát triển thêm nhiều và mọc lại ở miền Bắc; nhanh chóng thu hẹp tiểu thương, chuyển phần lớn sang sản xuất, thu hút tuyệt đại bộ phận những người sản xuất nhỏ vào con đường làm ăn tập thể; nâng các tập đoàn sản xuất lên hợp tác xã nông nghiệp bậc cao. Việc củng cố kinh tế quốc doanh và tập thể chỉ có thể làm được đồng thời với việc thu hẹp kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể. Trong hoàn cảnh chúng ta thiếu vật tư, nguyên liệu, không đủ cung ứng ngay cho các cơ sở quốc doanh và tập thể thì việc để cho kinh tế tư nhân, kinh tế cả thể phát triển chỉ dẫn tới việc tranh chấp vật tư, nguyên liệu của Nhà nước, làm cho sự mất cân đối càng lớn hơn.

-Loại ý kiến thứ hai cũng cho rằng công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa đạt kết quả còn thấp, quan hệ sản xuất chậm được củng cố, thậm chí có hiện tượng biến chất nghiêm trọng. Nguyên nhân có thể có nhiều nhưng phải thấy nguyên nhân quan trọng sau đây:

Các thành phần kinh tế quốc doanh giảm sút, vai trò chủ đạo của nó bị suy yếu không phải do ta quá thiên về kinh tế tư nhân, cá thể mà trước hết do thiếu những biện pháp phù hợp, có hiệu quả, thậm chí có những chính sách, những chế độ của cơ chế cũ không thay đổi, đã kìm hãm sự vươn lên của kinh tế quốc doanh. Khi cải tạo kinh tế tư nhân và cá thể, có khuynh hướng chạy theo số lượng, coi nhẹ chất lượng và hiệu quả. Đối với kinh tế tư nhân, ta đã muốn xoá bỏ ngay mà không dùng các hình thức cải tạo thích hợp để sử dụng, cũng không tính đến khả năng kinh tế xã hội chủ nghĩa thay thế nó. Đối với những người làm ăn cá thể, thiếu những hình thức phù hợp để đưa họ vào con đường làm ăn tập thể; có lúc có xu hướng muốn đưa ngay vào con đường làm ăn tập thể, quy mô lớn, không tính đến khả năng trang bị kỹ thuật, trình độ quản lý và năng lực của cán bộ.

Vì vậy, loại ý kiến thứ hai cho rằng, trong những năm tới, đồng ý là cần đẩy mạnh việc cải tạo xã hội chủ nghĩa, nhưng phải coi đây là nhiệm vụ bố trí lại quan hệ sản xuất, sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế, xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất mới. Phải thấy lực lượng sản xuất thấp kém ảnh hưởng khá lớn đến tính chất của quan hệ sản xuất. Cho nên việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đạt mức độ nào không thể không phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Việc đẩy mạnh xây dựng lực lượng sản xuất để có kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể chiếm ưu thế là hoàn toàn đúng, nhưng không nên xoá bỏ toàn bộ kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể, không nên coi cải tạo xã hội chủ nghĩa chỉ là đơn giản xoá bỏ các thành phần kinh tế. Ở nước ta, hàng năm có thêm hàng chục vạn người đến độ tuổi lao động cần có việc làm. Kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể không thể ngay một lúc thu hút hết lực lượng ấy. Nhưng nhất thiết phải sử dụng lực lượng lao động này vào sản xuất và các hoạt động dịch vụ phải giúp đỡ và hướng dẫn họ tự tạo ra việc làm có ích cho xã hội. Vì vậy, cần thừa nhận sự tồn tại cần thiết của một bộ phận kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể trong một thời gian dài, thậm chí có thể dài suốt cả thời kỳ quá độ, có thể dài hơn nữa, trước hết vì lợi ích của chủ nghĩa xã hội, của nhân dân lao động. Từ đó phải coi cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục của cả thời kỳ quá độ.

Về cơ chế quản lý kinh tế, có nhiều ý kiến khác nhau về các vấn đề sau đây:

Cơ chế kinh doanh xã hội chủ nghĩa có phải là cơ chế thị trường hay không ?

-Có cách hiểu "cơ chế thị trường" là cơ chế hoàn toàn dùng thị trường để điều tiết sản xuất và các hoạt động kinh tế, phủ nhận vai trò của kế hoạch. Đó là quan điểm của "chủ nghĩa xã hội thị trường", hoàn toàn khác với cơ chế kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Có cách hiểu "cơ chế thị trường" theo nghĩa hẹp hơn, để chỉ xu hướng chạy theo cơ chế tự phát của thị trường tự do; cụ thể là chấp nhận giá cả của thị trường tự do với mọi yếu tố tiêu cực của nó, lấy nó làm mực thước để điều chỉnh hệ thống giá cả Nhà nước. Hiểu theo nghĩa này thì "cơ chế thị trường" cũng trái với cơ chế kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

-Một cách hiểu khác cho rằng, thị trường tồn tại khách quan, cho nên cơ chế hoạt động của nó có cơ sở khách quan. Cơ chế thị trường là sự vận động tổng hợp của các yếu tố cung cầu, sức mua của đồng tiền và giá cả theo các quy luật của quan hệ hàng hóa - tiền tệ, trên toàn bộ thị trường xã hội, với những nét đặc điểm khác nhau của thị trường có tổ chức và thị trường tự do. Hiểu theo nghĩa đó, chúng ta không thể coi nhẹ thị trường, mà phải nắm chắc để chủ động sử dụng nó gắn liền với kế hoạch hoá. Cơ chế kinh doanh xã hội chủ nghĩa chính là cơ chế lấy kế hoạch làm trung tâm kết hợp chặt chẽ với việc sử dụng quan hệ thị trường.

Về quan hệ giữa kế hoạch và thị trường:

Có ý kiến cho rằng kế hoạch chỉ kết hợp với thị trường có tổ chức, còn thị trường tự do đây rẫy đầu cơ, tích trữ, buôn lậu, hoàn toàn đối lập với kế hoạch, phải dẹp bỏ nó càng sớm càng tốt, ít nhất là hạn chế đến mức tối thiểu hoạt động của tiểu thương, loại trừ ngay thị trường tự do về những mặt hàng mà Nhà nước độc quyền kinh doanh.

Ý kiến khác cho rằng, thị trường tự do còn tồn tại lâu dài ở mức cần thiết và trong phạm vi nhất định ở cả thành thị và nông thôn. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, thị trường tự do còn có vị trí đáng kể. Như vậy, thị trường xã hội bao gồm hai bộ phận: thị trường có tổ chức và thị trường tự do; hai thị trường vừa đấu tranh với nhau, vừa đan xen vào nhau, không thể cắt rời một cách máy móc. Thị trường tự do không thể kế hoạch hoá trực tiếp; nhưng khi bố trí cân đối hàng - tiền và các cân đối tổng hợp kinh tế quốc dân, phải tính đến nó và dùng các chính sách, biện pháp để hạn chế tính tự phát, đưa nó đi theo phương hướng của kế hoạch nhà nước, bổ sung cho thị trường có tổ chức.

Về việc vận dụng các quy luật của quan hệ hàng hoá- tiền tệ, có những ý kiến khác nhau như sau:

Có quan điểm cho rằng chính sách giá cả vận dụng quy luật giá trị có nghĩa là giá cả phải phản ánh trung thực giá trị. Đó là hệ thống giá cả theo kế hoạch của thị trường có tổ chức. Nó không thể dung hợp với giá thị trường tự do là loại giá hình thành tự phát, qua đó giá đã bị co giãn bởi cung cầu và bởi những yếu tố đầu cơ, tích trữ. Trong tình hình cung cầu mất cân đối, Nhà nước phải có hai loại giá: một loại giá phản ánh đúng giá trị và tương đối ổn định, làm công cụ để kế hoạch hoá, hạch toán kinh tế, tăng cường quan hệ trao đổi với nông dân và bảo đảm tiền lương thực tế của người ăn lương; một loại giá bám sát giá thị trường tự do để đấu tranh từng bước ổn định giá cả. Áp dụng chính sách một giá trong tình hình hiện nay sẽ không trách khỏi đẩy giá nhà nước chạy theo giá thị trường tự do, bị cuốn hút theo tính tự phát của cơ chế thị trường.

Để xử lý tình hình giá - lương - tiền lúc bấy giờ, các đồng chí theo quan điểm này chủ trương quay trở lại chính sách hai giá, chỉ đạo chặt chẽ giá mua nông sản thoả thuận, ổn định hệ thống giá nhà nước để mua nông sản theo hợp đồng hai chiều và bán lẻ những mặt hàng thiết yếu cho người ăn lương; khôi phục lại chế độ cung cấp theo giá ổn định qua tem phiếu và mở rộng dần tới mức bảo đảm được 60-70% tiền lương để ổn định về cơ bản tiền lương thực tế của công nhân, viên chức.

Những ý kiến không tán thành quan điểm trên lập luận như sau:

Trong sản xuất và lưu thông hàng hóa, quy luật giá trị và quy luật cung cầu vận dụng một cách khách quan trong sự thống nhất chặt chẽ với nhau, thể hiện ở sự lên xuống của giá cả xoay quanh giá trị. Quy luật giá trị không bao giờ hoạt động tách rời quy luật cung cầu và không chấp nhận quy luật cung cầu. Tách rời quy luật giá trị khỏi quy luật cung cầu xét đến cùng là không hiểu đúng và không tôn trọng quy luật giá trị.

Chính sách giá cả phải vận dụng tổng hợp nhiều quy luật, trong đó có quy luật giá trị và quy luật cung cầu. Việc dùng biện pháp giá cả để điều tiết thu nhập, bảo đảm chính sách xã hội cũng phải có giới hạn, không thể trái với quy luật giá trị và quy luật cung cầu. Khi giá cả đi ngược quy luật giá trị và quy luật cung cầu thì tác động của quy luật kinh tế cơ bản và các quy luật đặc thù khác của chủ nghĩa xã hội cũng bị hạn chế, thậm chí bị triệt tiêu, như thực tiễn nhiều năm qua đã chứng minh.

Cho rằng giá cả chịu tác động của quy luật cung cầu không thể dung hợp với nền kinh tế kế hoạch hoá là cách nhìn một chiều. Giá cả là tín hiệu phản ánh nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng, rất cần cho việc xây dựng kế hoạch và chính sách kinh tế. Nó còn góp phần khuyến khích sản xuất những sản phẩm khan hiếm, kích thích nâng cao chất lượng hàng hoá và sản xuất những mặt hàng mới. Nó cũng có tác dụng điều chỉnh nhu cầu, khuyến khích tiêu thụ những sản phẩm dư thừa, giảm bớt nhu cầu đối với những mặt hàng khan hiếm. Tuy nhiên, khi quy luật cung cầu làm cho giá cả thoát ly giá trị quá xa cũng gây nên tác động tiêu cực nó có thể tự phát điều tiết sản xuất, phá vỡ việc thực hiện quy hoạch và kế hoạch, làm đảo lộn quan hệ phân phối thu nhập. Muốn hạn chế tác động tiêu cực ấy, làm cho giá cả nhích gần giá trị, phải dùng nhiều biện pháp để giảm bớt căng thẳng trong quan hệ cung cầu, chứ không thể chỉ dùng biện pháp hành chính mà kéo giá xuống được.

Giá thị trường tự do có phần chứa đựng yếu tố đầu cơ tích trữ, song không thể tuyệt đối hoá điều đó tới mức phủ nhận cơ sở khách quan của nó thể hiện sự vận động của quy luật giá trị và quan hệ cung cầu. Các hoạt động đầu cơ, kích giá, ép giá xét đến cùng cũng là lợi dụng sự mất cân đối trong quan hệ cung cầu. Hoàn toàn bác bỏ giá thị trường tự do hoặc cho nó luôn luôn là giá đúng đều là thái độ cực đoan.

Giá cả thị trường tự do và giá cả thị trường có tổ chức luôn luôn tác động lẫn nhau. Khi Nhà nước mua nông sản theo giá thấp, "đệm" thêm hàng thì về thực chất quan hệ trao đổi đó không thể thoát ly giá thị trường tự do. Nhà nước bán hàng theo giá thấp cho người ăn lương thì một phần những hàng đó được bán lại theo giá thị trường tự do. Ở đây, tác động khách quan của giá thị trường tự do bị che lấp bởi phương thức "hiện vật hoá", gây nên sự lầm tưởng rằng Nhà nước vẫn làm chủ được giá cả, không chịu ảnh hưởng của giá thị trường tự do.

Thực tiễn đã bác bỏ tính chất giả tạo, trái quy luật của việc định giá trên cơ sở tính giá thành với nhiều yếu tố giả định, chủ quan, coi đó là giá đúng, giá được kế hoạch hoá rồi cố giữ ổn định giá đó một cách cứng nhắc, bất chấp sự biến động của các yếu tố hình thành giá cả và sức mua của đồng tiền, không tính đến quan hệ cung cầu.

Mục tiêu của chúng ta là ổn định giá cả, song vấn đề là ổn định bằng cách nào? Nhiều năm, ta đã áp dụng chính sách ổn định giá cả của Nhà nước, nhưng giá thị trường vẫn lên, giá cả của Nhà nước ngày càng thoát ly giá trị, tạo ra chênh lệch về giá cả với rất nhiều hiện tượng tiêu cực. Rút cuộc là thương nghiệp xã hội chủ nghĩa không chuyển sang kinh doanh được, hầu như chỉ đóng vai trò của kho tiếp nhận, cấp phát và phân phối hàng hoá và trở thành một nguồn cung cấp hàng hoá cho thị trường tự do. Cả Nhà nước, cả công nhân và nông dân, người sản xuất và người tiêu dùng đều bị thiệt thòi, còn bọn đầu cơ thì phất to. Chúng ta chỉ có thể dần dần ổn định được giá cả trên cơ sở phát triển sản xuất, tập trung nguồn hàng vào tay Nhà nước và khắc phục lạm phát, từng bước lập lại cân bằng hàng hoá - tiền tệ và cung cầu. Vì vậy, chính sách giá cả phải nhằm trước hết làm cho người lao động hăng hái làm ra nhiều sản phẩm hàng hoá, nâng cao chất lượng, hạ giá thành, hăng hái bán sản phẩm cho Nhà nước. Không thể coi giá cả đúng khi nó làm cho nông dân thiếu phấn khởi sản xuất, nhiều người chỉ muốn nhận khoán diện tích ở mức làm đủ lương thực cho mình, nông dân trồng mía phá mía, nông dân trồng thuốc lá thu hẹp diện tích thuốc lá,... làm cho xí nghiệp quốc doanh không muốn giao hàng cho thương nghiệp, khiến thương nghiệp xã hội chủ nghĩa lâm vào tình trạng mua không được, bán không được.

Từ bài học thực tiễn, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8 đề ra nguyên tắc: chính sách giá cả phải chủ động vận dụng quy luật giá trị và quan hệ cung g cầu trên cơ sở lấy kế hoạch làm trung tâm. Theo tinh thần đó, Nhà nước phải xác định giá cả phù hợp với giá trị và sức mua của đồng tiền, đồng thời tính đến quan hệ cung cầu thể hiện qua giá trị thị trường. Dĩ nhiên, không chỉ tính đến giá cả thị trường, mà phải phân tích và tìm biện pháp khắc phục những yếu tố tiêu cực, bất hợp lý chứa đựng trong nó.

Thực tiễn đã chứng minh chính sách một giá và bù giá vào lương tác động đến quan hệ cung cầu tốt hơn là chính sách hai giá, vì nó kích thích được sản xuất; tạo điều kiện cho thương nghiệp xã hội chủ nghĩa chuyển sang kinh doanh, chiếm lĩnh được thị trường; không tạo ra nhu cầu giả tạo; ngăn chặn có hiệu quả tình trạng thất thoát hàng... Những yếu tố đó tạo điều kiện cơ bản cho việc từng bước ổn định giá cả. Đó là chưa nói tới những thuận lợi khác đối với việc mua bán của nông dân và đời sống của công nhân, viên chức.

Vì vậy, phương hướng cơ bản và lâu dài là phải thực hiện chính sách một giá. Trong tình hình lúc bấy giờ, không thể loại trừ việc thực hiện chính sách hai giá trong một phạm vi nhất định, song cách làm này cũng phải theo cơ chế kinh doanh, không thể dùng chính sách giá cả bù lỗ kéo dài như trước.

Sau khi nghe báo cáo những ý kiến khác nhau đối với các vấn đề lớn về kinh tế, Bộ Chính trị (khoá V) thảo luận kỹ từng vấn đề một và đi tới sự nhất trí rất cao về quan điểm đối với ba vấn đề lớn đã nêu trên và ban hành bản "Kết luận của Hội nghị Bộ Chính trị đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế". Nội dung chủ yếu của bản kết luận đã được đưa vào Báo cáo chính trị. Khi nghiên cứu Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa V ở Đại hội lần thứ VI, chúng ta sẽ hiểu rõ các quan điểm trong bản kết luận trên.

Có thể nói bản kết luận của Bộ Chính trị (khoá V) là sự đổi mới rất cơ bản về tư duy kinh tế của Đảng ta. Do đó, Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ VI đã nâng cao chất lượng về những vấn đề quan trọng bậc nhất.

Một số nhận xét về thời kỳ 1976 - 1986:

1- Thời kỳ 1976-1986 là thời kỳ sử dụng mô hình kinh tế cũ: cơ chế tập trung bao cấp, sớm xoá bỏ các thành phần kinh tế tư bản, cá thể ... được phát triển ở mức cao và mở rộng trong phạm vi cả nước. Những nhược điểm, khuyết điểm của mô hình đã trở thành sức cản lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trở nên gay gắt. Cuộc sống đòi hỏi cấp thiết phải thay đổi mô hình cũ bằng mô hình phù hợp để đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng. Đổi mới, trước hết trên lĩnh vực kinh tế, trở thành vấn đề sống còn của dân tộc. Để bắt đầu với công cuộc Đổi mới đó, điều trước mắt là Đổi mới về con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, xác định lại hướng đi chính trị đúng đắn, và từ đó bắt đầu tổ chức công cuộc Đổi mới về mặt kinh tế.

1976 - 1986 cũng là thời kỳ tư duy mới từng bước hình thành và phát triển, biểu hiện chủ yếu ở Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khoá IV), Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ V, Nghị quyết Trung ương lần thứ 8 và cuối cùng là ở Nghị quyết của Bộ Chính trị (khoá V) về các quan điểm kinh tế. Đến đây, quan niệm cốt lõi của mô hình kinh tế mới về cơ bản đã hình thành. Đây là sự phát triển tiệm tiến với sự xuất hiện từng mặt, từng bộ phận đến sự phát triển nhẩy vọt của tư duy mới để có được quan niệm trên. Tư duy mới ra đời có nguồn gốc sáàu xa từ thực tiễn. Chính thực tiễn với những khó khăn gay gắt của đất nước buộc Đảng ta phải suy nghĩ, phân tích tình hình, nguyên nhân, tìm tòi các giải pháp; chính thực tiễn đổi mới bộ phận ở các cơ sở, địa phương đã cung cấp những tư liệu cho hoạt động tư duy của Đảng trong việc đề ra những chính sách cụ thể, có tính chất đổi mới từng phần. Ví dụ "khoán chui" được Đảng xem xét để ra Chỉ thị 100; những hiện tượng "phá rào" để gỡ khó khăn cục bộ trong xí nghiệp đi tới Quyết định 25-CP. Tất cả những nhân tố cụ thể đó từng bước được khái quát, qua tư duy, lý luận được nâng lên thành quan điểm.

2- Sự ra đời và phát triển của tư duy mới cũng là quá trình khắc phục tư duy cũ không còn phù hợp. Nó diễn ra trong sinh hoạt nội bộ của các tổ chức của hệ thống chính trị, các hợp tác xã, các xí nghiệp, qua việc thảo luận những ý kiến khác nhau ở nhiều diễn đàn: sinh hoạt đảng, các phương tiện thông tin đại chúng nghiên cứu lý luận và cuối cùng được kết luận ở các cơ quan lãnh đạo của Đảng: Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương, đại hội. Tư duy mới ra đời không phải lúc nào cũng dễ dàng đi vào cuộc sống, có những thời điểm, Đảng có những quyết định đúng đắn, thể hiện tư duy mới, nhưng nó lại không được triển khai thực hiện hoặc thực hiện không đến nơi đến chốn.

Nhưng nhìn toàn cục thì sự phát triển tư duy mới trong thời kỳ 10 năm đó diễn ra có mặt thuận lợi. Vấn đề đặt ra khá nhiều, ý kiến khác nhau không ít, tranh luận khá sôi nổi nhưng cuối cùng có được sự nhất trí cao trong tuyệt đại bộ phận cán bộ, đảng viên. Vì Đảng ta là Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, suốt đời phấn đấu vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Chính điều đó được thể hiện tập trung trong cơ quan lãnh đạo, trong đông đảo cán bộ, đảng viên, hơn nữa, sự nhất trí ấy còn dựa trên cơ sở thực tiễn, thực tiễn của những kết quả về kinh tế do tư duy mới tạo ra, nhất là đã có những điển hình đổi mới có sức thuyết phục lớn.

3- Quá trình hình thành tư duy mới cũng là quá trình mô hình cũ từng bước bị xoá bỏ. Khi có Chỉ thị 100 , nông dân xã viên nhiệt tình thực hiện khoán mới thì mô hình hợp tác xã bắt đầu có sự thay đổi bộ phận. Hoặc khi có Quyết định 25-CP thì kế hoạch hoá theo kiểu tập trung cũng bị suy yếu một phần; khi chủ trương kế hoạch hoá theo phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa, có một số quyết định về hai giá, về thu hẹp mặt hàng cung cấp thì cơ chế bao cấp cũng bắt đầu thu hẹp. Tình hình này cắt nghĩa vì sao sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI một thời gian ngắn, khoảng 3 năm (1987-1988-1989), công cuộc đổi mới của nước ta đã thu được một số thành tựu rõ nét, tạo nên sự tin tưởng, phấn khởi trong nhân dân. Đại hội Đảng lần thứ VI là bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; Đại hội quyết định đường lối đổi mới và đường lối đó đi vào cuộc sống nhanh không những vì nó đúng mà nó còn được chuẩn bị trước đó không chỉ về mặt tư duy mà cả về mặt điều kiện vật chất.