MỘT VÀI NÉT VỀ CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA (1955 - 1965)


MỘT VÀI NÉT VỀ CÔNG CUỘC XÂY DỰNG

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA

(1955 - 1965)

Cuối năm 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Tháng 8-1955, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 xác định: "đường lối củng cố miền Bắc của ta là củng cố và phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến dần từng bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội". Nhưng đến tháng 1-1956, trong văn kiện về đường lối cách mạng Việt Nam, Bộ Chính trị nhận định: từ khi hoà bình lập lại, miền Bắc nước ta đã chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hội nghị Trung ương lần thứ 13, tháng 12-1957 nhận định: từ khi hoà bình lập lại, miền Bắc hoàn toàn, giải phóng, ta đã bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Với những nhận định ấy, Đảng ta triển khai hoạt động tư duy về chủ nghĩa xã hội, về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Những năm đầu, Đảng ta chưa đề ra đường lối chung về cách mạng xã hội chủ nghĩa, vì đây là vấn đề lớn và mới, cần có thời gian nghiên cứu, hơn nữa, lúc đó, Đảng phải tập trung vào việc sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất. Để đáp ứng kịp thời việc chỉ đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra kế hoạch 3 năm 1955-1957 nhằm khôi phục kinh tế, hoàn thành một số nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng trước đây (cách mạng dân chủ), xây dựng một số cơ sở quốc doanh, đẩy mạnh phong trào đổi công, thí điểm xây dựng hợp tác xã...

Về sản xuất nông nghiệp, Nhà nước ban hành nhiều chính sách để khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp: bảo đảm quyền sở hữu ruộng đất của nông dân, khai hoang, tăng vụ được giảm và miễn thuế, tự do thuê mướn nhân công, trâu bò, khuyến khích phát triển ngành nghề phụ. Tình hình nông thôn có chuyển biến lớn. Năm 1957, sản lượng lúa đạt 3,9 triệu tấn so với 2,4 triệu tấn năm 1939, năm 1959 lại được mùa nên sản lượng lúa tăng nhiều hơn.

Về sản xuất công nghiệp, Nghị quyết của Bộ Chính trị họp tháng 9-1954 đề ra mục tiêu 3 năm (1955-1957) là khôi phục sản xuất công nghiệp đạt mức ngang thời kỳ trước chiến tranh (năm 1939). Kết quả là năm 1957 đã khôi phục bằng mức năm 1939. Tiếp theo 3 năm khôi phục, 3 năm 1958-1960, công nghiệp tiếp tục phát triển. Năm 1960, miền Bắc có 1.012 xí nghiệp, 2.760 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, thu hút trên 50 vạn công nhân và lao động, làm ra được 32,7% tổng sản phẩm xã hội. Tốc độ phát triển công nghiệp bình quân năm của thời kỳ 1955-1960 là 36,9%.

Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, từ năm 1955 đến năm 1957 phổ biến là tổ đổi công. Tháng 8-1955 Hội nghị Trung ương lần thứ 8 chủ trương xây dựng thí điểm các hợp tác xã. Cuối năm 1955 có 6 hợp tác xã, tháng 10-1957 có 42 hợp tác xã thí điểm. Cũng trong thời gian này, hội nghị sơ kết đã rút ra một Số kết luận: sản xuất hợp tác xã chưa hơn hẳn tổ đổi công, so với trung nông thì còn kém, ở hợp tác xã khá nửa số hộ có thu nhập tăng, số còn lại đại bộ phận thu nhập giảm sút, quản lý lúng túng.

Đến tháng 11-1958, Hội nghị Trung ương lần thứ 14 đề ra kế hoạch 3 năm 1958-1960 với nội dung chủ yếu là đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, khâu chính là cải tạo nông nghiệp và Hội nghị Trung ương lần thứ 16, tháng 4-1959, thông qua 2 nghị quyết quan trọng về hợp tác hoá nông nghiệp, về cải tạo công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa.

Về bước đi, Hội nghị Trung ương lần thứ 14 nêu rõ: trong thời gian đầu, phong trào hợp tác xã mới phát triển, nói chung nên đi từ thấp đến cao: từ tổ đối công, hợp tác xã bậc thấp, hợp tác xã bậc cao để cho nông dân quen với lối làm ăn tập thể, đồng thời cũng thích ứng với trình độ quản lý của hợp tác xã. Đi đôi với quá trình đó là cuộc vận động cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất, phát triển sản xuất.

Khi có những nghị quyết quan trọng trên, công cuộc hợp tác hoá được đẩy mạnh. Cuối năm 1958 miền Bắc có 4.723 hợp tác xã, nhưng chỉ trong 2 năm 1959-1960 công cuộc hợp tác hoá đã hoàn thành về căn bản. Năm 1960 đã thành lập 41.400 hợp tác xã, thu hút 85,8% tổng số hộ.

Đối với tiểu thủ công nghiệp, năm 1960 đã thu hút 20 vạn lao động vào các hình thức làm ăn tập thể dưới các hình thức hợp tác khác nhau. Sản xuất cá thể chỉ chiếm 27,4%.

Năm 1957 công nghiệp tư bản chủ nghĩa tuy nhỏ bé nhưng cũng có vị trí nhất định, chiếm 16,8% giá trị tổng sản lượng công nghiệp. Đến cuối năm 1960, 100% hộ tư sản công nghiệp và 97,2% hộ tư sản thương nghiệp được cải tạo chuyển đổi.

Về thương nghiệp, giá cả sau khi hoà bình lập lại, ở miền Bắc có 2 giá: giá vùng tự do, giá ở vùng trước kia bị địch tạm chiếm. Tháng 9-1954, Bộ Chính trị đề ra chủ trương điều chỉnh giá cả giữa 2 vùng thành một hệ thống giá duy nhất.

Sau khi thực hiện thống nhất giá, tình hình giá cả nói chung là thích hợp. Đảng và Nhà nước để ra nguyên tắc của việc điều chỉnh giá là: dựa trên cơ sở giá các mặt hàng thiết yếu của đời sống như: gạo, muối, vải, dầu hỏa, giấy, đường đã được ổn định để điều chỉnh các mặt hàng cần thiết khác, điều chỉnh chênh lệch giá hàng giữa hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu, giữa hàng công nghiệp và hàng nông nghiệp, giữa các địa phương, giữa bán buôn với bán lẻ, vv.. Trên cơ sở giá cả hiện nay, phải lãnh đạo một cách linh hoạt, tuỳ theo tình hình cung cầu và quản lý thị trường mà điều chỉnh thích hợp. "Tuỳ theo tình hình cung cầu" là một ý quan trọng, nói lên quan điểm phải tính tới thị trường khi điều chỉnh giá.

Dựa vào chủ trương trên, Chính phủ đã chỉ đạo hình thành giá chuẩn 6 mặt hàng thiết yếu làm cơ sở định ra nhiều hàng hoá khác: gạo: 0,4 đồng/kg, vải bông: 1,7 đồng/mét, thịt lợn: 3 đồng/kg, muối: 0,28 đồng/kg, dầu hoá: 0,4 đồng/lít.

Trong thời kỳ này cũng có biện pháp bình ổn vật giá, vì gạo định 0,4 đ/kg nhưng có nơi tăng lên 1,2 đ/kg. Nhà nước thi hành chế độ cung cấp lương thực cho công nhân, viên chức, quân đội. Nhà nước có lực lượng nên đã đưa giá gạo từ 1,2 đ/kg xuống 0,4 đ/kg. Năm 1956 được mùa, giá lúa mùa xuống dưới giá chỉ đạo; năm 1959 được mùa lớn giá thóc thị trường ổn định ở mức 0,22 đồng/kg.

Trong 6 năm 1955-1960 công nghiệp phát triển khá nhanh. Chỉ số phát triển công nghiệp của năm 1960 cao hơn năm 1955 là 4,8 lần. Tốc độ tăng bình quân về công nghiệp 1955-1960 là 36,9%. Giá trị sản lượng nông nghiệp tăng bình quân 3 năm 1955-1957 là 10%.

Xét về thành phần kinh tế: những năm 1955-1958 trong nông nghiệp hầu hết là kinh tế cá thể, hợp tác ở hình thức giản đơn: tổ đổi công. Đến năm 1958 có 4,8% hộ xã viên gia nhập hợp tác xã, nhưng năm 1960 số hộ nông dân tham gia hợp tác xã đã chiếm 85,8%, chủ yếu là bậc thấp. Những người làm nghề tiểu thủ công 4 năm đầu làm ăn cá thể, nhưng đến năm 1960 đã có 87,9% thợ thủ công gia nhập hợp tác xã. Hơn 10 vạn người buôn bán nhỏ tham gia hợp tác xã mua bán, chiếm 45% diện cải tạo. Về tư bản công thương nghiệp những năm 1955-1958 vẫn sản xuất kinh doanh theo lối tư nhân. Đến năm 1960, 783 hộ tư sản công nghiệp, 826 hộ tư sản thương nghiệp đã được cải tạo chuyển đổi.

Về mặt lưu thông phân phối: năm 1955 trong tổng mức hàng hoá bán lẻ thị trường có tổ chức chỉ chiếm 18,2%, thị trường tự do 81,8%; năm 1957 là 32,4% và 67,6%; năm 1960 là 80,1% và 19,9%. Năm 1960 các mặt hàng nhà nước cung cấp cho cán bộ, công nhân viên chiếm 65,4% tổng số chi của gia đình.

Về bảo vệ sức khoẻ nhân dân: năm 1955 có 316 bệnh viện, trạm xá với 700 bác sĩ, 15.800 giường, đến năm 1960 có 3673 CƠ SỞ, 2,200 bác sĩ, 48,200 giường bệnh

Số người đi học: năm 1955 1956 là 1.288.000 người, năm 1960-1961 có 4.536.700 người. Ở bậc đại học năm 1955-1956 có 1.200 người, năm 1960-1961 có 16.700 người.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9-1960) đã quyết định:

"Đường lối chung của miền Bắc trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội là đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn và truyền thống phấn đấu anh dũng, lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tăng cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em do Liên Xô đứng đầu, để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới.

Muốn đạt mục tiêu ấy phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng cách thu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; đây mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hoá và kỹ thuật, biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học tiên tiến,

Khi đề ra đường lối chung, Đảng ta có tham khảo kinh nghiệm các nước anh em, nhưng rất coi trọng nghiên cứu thực tiễn Việt Nam, rút ra 3 đặc điểm rất đúng đắn, đó là chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ nền sản xuất nhỏ, có hệ thống xã hội chủ nghĩa vững mạnh; đất nước bị chia cắt” (Đảng Lao động Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần III).

Có một số đồng chí khi nghiên cứu đường lối của Đảng về cách mạng xã hội chủ nghĩa, cho rằng Đảng ta thường lấy phương tiện làm mục tiêu. Không phải như vậy: "Xây dựng đời sống ấm no hạnh phúc ở miền Bắc, và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà" là mục tiêu rất rõ ràng chứ không phải là phương tiện.

Một vấn đề được đặt ra là "phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản..." có đúng không ? Có người dựa vào một số sai lầm, khuyết điểm của Đảng ta (nhất là thời kỳ cải cách ruộng đất) để phủ định chuyên chính vô sản, cho rằng áp dụng chuyên chính vô sản nên mới có khuyết điểm, sai lầm như vậy.

Đảng ta đã nhiều lần khẳng định rằng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản là đúng. Vì nhà nước ấy thực hiện đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, cho nên nhà nước mang tính chất của giai cấp công nhân rõ rệt. Đồng thời nhà nước dân chủ nhân dân cũng mang tính chất nhân dân sâu sắc, bởi vì Đảng là người đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả của dân tộc.

Sau Đại hội, Đảng ta đặt trọng tâm vào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tổ chức các hội nghị chuyên đề để cụ thể hoá đường lối phát triển kinh tế trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Hội nghị Trung ương Tân thứ 5 (tháng 7-1961) chuyên bàn về phát triển nông nghiệp; Hội nghị lần thứ 7 (tháng 6-1962) bàn về phát triển công nghiệp; Hội nghị lần thứ 8 (tháng 4-1963) bàn về kế hoạch nhà nước; Hội nghị lần thứ 10 (tháng 12-1964) bàn về lưu thông phân phối, giá cả.

Đánh giá những thành tựu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong những năm 1961 - 1965, chúng ta thấy:

Về nông nghiệp:

Hội nghị Trung ương lần thứ 5 đánh giá những tiến bộ trong nông nghiệp, và khẳng định rằng nhịp độ phát triển nông nghiệp hàng năm 5,6% là cao. Chúng ta đã căn bản hoàn thành hợp tác hoá nông nghiệp bậc thấp, tạo ra sự biến đổi lớn lao ở miền Bắc: chế độ người bóc lột người bị xoá bỏ, lao động tập thể căn bản thay đổi lối làm ăn cá thể; sản xuất nông nghiệp đi vào kế hoạch, các hợp tác xã bắt đầu phát huy ưu việt trong việc làm thuỷ lợi, phân bón, tăng vụ, khai hoang v... Đời sống nông dân lao động, nhất là bần nông, trung nông lớp dưới đã được cải thiện một bước. Sự biến đổi lớn lao đó đã làm cho nền kinh tế quốc dân miền Bắc trở nên thuần nhất gồm hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.

Hội nghị chủ trương phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ, vững chắc để cung cấp đủ lương thực và thực phẩm cho toàn dân, cải thiện đời sống của nông dân, đẩy mạnh chăn nuôi, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, xuất khẩu đổi lấy nguyên liệu và thiết bị xây dựng công nghiệp, làm cho nông thôn trở thành thị trường tiêu thụ rộng lớn của công nghiệp.

Tuy nhiên, khi mở rộng phong trào hợp tác hoá, nhiều nhược điểm của hợp tác xã đã bộc lộ rõ: tính cần cù lao động, một nắng hai sương của người nông dân giảm sút, năng suất không tăng, thậm chí giảm; một số nơi nông dân xin ra hợp tác xã v,v.. Do vậy, tháng 11-1962, Bộ Chính trị chủ trương mở cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã. Quá trình thực hiện cuộc vận động này đã làm cho quy mô hợp tác xã được mở rộng, và từng bước chuyển lên bậc cao.

Kết quả sản xuất nông nghiệp trong 5 năm 1961 - 1965 có mấy điểm đáng chú ý: Giá trị tổng sản lượng nông nghiệp bình quân hàng năm tăng 4,1%. Qua phong trào thâm canh đã xuất hiện những điển hình tiên tiến: năm 1965 có 1 huyện và 125 hợp tác xã đạt năng suất bình quân cả năm 5 tấn / ha trở lên. Cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường: 33 công trình thuỷ lợi lớn, 1500 công trình thuỷ lợi vừa và nhỏ đã được khôi phục và xây dựng, bảo đảm tưới tiêu cho 50 vạn ha diện tích gieo trồng. Xây dựng được 3139 cơ sở Cơ khí nhỏ, 7 trạm và 32 đội máy kéo.

Nhưng có nhiều nhược điểm lớn thể hiện ở các mặt: Tổng sản lượng lương thực tăng không nhiều. Chi phí sản xuất tăng, từ 85 đồng/ha năm 1961 lên 140 đồng/ha năm 1965, năng suất lúa bình quân các năm 1961 - 1965 chỉ đạt 18 tạ/ha, kém năm 1959 là năm được mùa đạt năng suất 22,43 tạ/ha. Thu nhập bằng tiền của xã viên giảm, giá trị một ngày công thời kỳ 1958 - 1960 là 0,98 đồng, đến thời kỳ 1961 - 1965 chỉ còn 0,74 đồng.

Trong thời kỳ này phong trào hợp tác hoá vẫn được mở rộng. Năm 1965 có 88,8% số hộ nông dân vào hợp tác xã, trong đó 71,7% Số hộ vào hợp tác xã bậc cao. Nhiều nhược điểm của hợp tác xã bộc lộ rõ. Tuy đã tiến hành cuộc vận động cải tiến quản lý, nhưng vì chưa nhận thức được thực chất nhược điểm của mô hình hợp tác xã, chưa tìm ra được giải pháp có hiệu lực để khắc phục những nhược điểm đó, cho nên dù việc cải tiến quản lý hợp tác xã tiến hành khá tích cực, nhưng cuộc vận động vẫn không đạt yêu cầu.

Về công nghiệp:

Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III đã chỉ rõ: "Muốn cải biến tình trạng nông nghiệp lạc hậu hiện nay của nước ta, đưa nước ta từ chế độ sản xuất nhỏ là chủ yếu lên chế độ sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, chúng ta không có con đường nào khác ngoài Con đường công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở nước ta" (Đảng Lao động Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần III).

Đại hội cũng chỉ ra đường lối công nghiệp hoá là "xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại" (Đảng Lao động Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần III).

Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (tháng 6-1962) đã cụ thể hoá đường lối công nghiệp hoá. Ngoài nội dung ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ cùng với việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Hội nghị còn đề cập đến vấn đề phát triển công nghiệp trung ương với việc phát triển công nghiệp địa phương; kết hợp quy mô nhỏ, vừa và lớn; kết hợp kỹ thuật hiện đại với kỹ thuật thô sơ; kết hợp việc xây dựng những xí nghiệp mới với việc cải tạo, nâng cao các xí nghiệp cũ.

Hội nghị chủ trương trong 10 năm, kể từ năm 1961 "phấn đấu thực hiện một sự chuyển biến căn bản trong nền kinh tế quốc dân, tiến hành trang bị cơ khí và nửa cơ khí một cách phổ biến, xoá bỏ tình trạng thủ công lạc hậu và tình trạng không cân đối nghiêm trọng hiện nay trong nền kinh tế, bảo đảm cho công nghiệp, nông nghiệp và các ngành kinh tế phát triển cân đối, nhịp nhàng, mạnh mẽ, nhằm giải quyết một cách căn bản những nhu cầu thông thường của nhân dân về ăn, mặc, , học tập, bảo vệ sức khoẻ; đồng thời chuẩn bị mọi mặt về vật chất, kỹ thuật, cán bộ, công nhân 0,0. để tiếp tục phát triển kinh tế toàn diện, mạnh mẽ, vững chắc" (Một số văn kiện của Trung ương Đảng về phát triển công nghiệp, Nxb Sự thật, HN, 1980, tr.105).

Kết quả là tốc độ phát triển công nghiệp thời kỳ 1961-1965 là 13,6% bình quân mỗi năm. Một số cơ sở công nghiệp nặng như điện, cơ khí, luyện kim, hoá chất, vật liệu xây dựng... đã hình thành và phát triển nhanh. Điện năm 1965 tăng gấp 10 lần so với năm 1955. Đến năm 1965 đã xây dựng được 1.132 xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, một số khu công nghiệp hình thành: Hà Nội, Hải Phòng, Việt Trì, Thái Nguyên, Vinh, Hồng Quảng. Công nghiệp hàng tiêu dùng, công nghiệp thực phẩm cũng có bước phát triển quan trọng; năm 1965 các xí nghiệp quốc doanh, Công ty hợp doanh cùng với hàng vạn cơ sở thủ công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đã cung cấp cho nhân dân ta 90% hàng hoá tiêu dùng thông thường. Đến năm 1965, miền Bắc có 65 vạn công nhân, lao động công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, trong đó có 2.615 người có trình độ đại học và trên đại học, 11.600 cán bộ có trình độ trung cấp.

Trong thời kỳ này cơ chế kế hoạch hoá tập trung được áp dụng trong công nghiệp đã bộc lộ một số nhược điểm, nhưng thành tựu lớn đã dẫn đến một số khuyết điểm chưa được quan tâm đúng mức.

Về lưu thông phân phối:

Năm 1965 tổng mức bán lẻ thương nghiệp trong xã hội là 2.099 triệu đồng, trong đó thị trường có tổ chức là 1.894 triệu, thị trường tự do 205 triệu. Như vậy, thương nghiệp xã hội chủ nghĩa chiếm đại bộ phận doanh số bán lẻ trên thị trường, thị trường tự do thu hẹp lại chỉ còn 10%.

Chỉ số giá thu mua nông sản năm 1960 là 100%, thì năm 1965 là 114,5%. Như vậy trong 5 năm giá thu mua của Nhà nước chỉ tăng có 14,5%, bình quân mỗi năm tăng chưa đầy 3%.

Năm 1965, nhập khẩu 237 triệu rúp - đôla, trong đó hàng tư liệu sản xuất chiếm 181,5 triệu rúp-đôla, còn lại là hàng tiêu dùng. Tổng giá trị xuất khẩu là 91 triệu rúp-đôla. Sự chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu lớn. Nước ta phải vay và cần có viện trợ ở nước ngoài để tiến hành công nghiệp hoá.

Năm 1965, trong quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, thì tích luỹ chiếm 25,1%, tiêu dùng 71,8%...

Về hệ thống giá bán lẻ hàng tiêu dùng:

Có loại giá điều chỉnh xuống, có loại giá điều chỉnh lên. Nhìn chung, điều chỉnh không lớn, tình hình giá ổn định, nhịp độ tăng giá bình quân năm trong kế hoạch 5 năm 1961-1965 là 3,8%. Vì những năm này vẫn duy trì hệ thống giá dựa trên cơ sở 6 mặt hàng của những năm 1955-1960.

Đó là hệ thống giá do Nhà nước chỉ đạo. Còn giá cả thị trường tự do có khác, cách xa nhiều với giá chỉ đạo; giá gạo có lúc tăng gấp 2-3 lần giá chỉ đạo của Nhà nước. Phải áp dụng nhiều biện pháp, trong đó có việc giảm bớt tiền lưu thông trên thị trường, có thêm hàng để bán ra. So với năm 1960 thì giá bán lẻ thị trường xã hội năm 1961 tăng 5%, năm 1962 tăng 9,7%, năm 1963 tăng 13,1%, năm 1964 tăng 13,5%, năm 1965 tăng 13,2%. Giá chỉ đạo của Nhà nước những năm đầu không phải quá cách xa giá thị trường, vì có tính tới một số yếu tố của thị trường. Nhưng vì giữ giá chỉ đạo như vậy quá lâu, thoát ly các quy luật của thị trường trong khi đó giá thị trường tăng cao, làm cho giá chỉ đạo của Nhà nước trở thành giá cung cấp, nói cách khác là giá bao cấp.

Nhìn lại 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội (1955-1965) chủ yếu là trên lĩnh vực kinh tế, có thể rút ra những nhận xét gì?

Một là, sau khi được giải phóng, miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội có hợp quy luật không, hay là nóng vội? Có một số đồng chí cho rằng: Lúc đó nên coi là giai đoạn xây dựng chế độ dân chủ nhân dân; chủ trương quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nóng vội. Căn cứ của lập luận đó là nước ta chưa đủ điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cân phân tích vấn đề này. Đúng là tháng 8-1955, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 xác định: đường lối củng cố miền Bắc là củng cố và phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến dần từng bước lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng đến tháng 1-1956, Bộ Chính trị đã nhận định: từ khi hoà bình lập lại, miền Bắc nước ta đã chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Từ đó các văn kiện của các Hội nghị Trung ương, các Đại hội của Đảng đều khẳng định chủ trương trên là đúng. Thật ra, Sau khi hai nhiệm vụ cơ bản của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã được hoàn thành thì không cần thiết phải có một thời kỳ vài thập kỷ để xây dựng chế độ dân chủ nhân dân rồi sau đó mới bắt đầu thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Xây dựng chế độ dân chủ nhân dân theo hướng nào? Theo chủ nghĩa tư bản hay theo chủ nghĩa xã hội. Nếu theo chủ nghĩa xã hội, nghĩa là từng bước phải xây dựng những yếu tố của chủ nghĩa xã hội về các mặt, thì như vậy thực chất cũng là quá độ từng bước lên chủ nghĩa xã hội. Vấn đề ở đây là tốc độ tiến lên như thế nào, nhanh hay chậm. Tất cả điều đó phải do yêu cầu của lịch sử, yêu cầu của tình hình cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ đặt ra.

Hai là, cần hiểu rõ bối cảnh lịch sử mà nhân dân miền Bắc tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong những năm 1955-1965. Sau khi miền Bắc được giải phóng, nhân dân ta có điều kiện thuận lợi xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng hậu phương lớn để tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam. Nhân dân đã trở thành người làm chủ, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đang ở thời kỳ phát triển với tốc độ cao, hệ thống xã hội chủ nghĩa lớn mạnh đang tác động lớn đến sự phát triển của thế giới. Phong trào giải phóng dân tộc, phong trào dân chủ phát triển mạnh mẽ. Đó là thuận lợi lớn. Nhưng không chỉ có thuận lợi, mà còn có những bất lợi. Đất nước bị chia cắt, Mỹ thay thế Pháp chiếm miền Nam, coi Việt Nam là trọng điểm để chống phá độc lập dân tộc, chống phá chủ nghĩa xã hội. Cuối những năm 50 có sự chia rẽ lớn trong các nước xã hội chủ nghĩa, trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Ở nước ta, bên cạnh những thắng lợi đã giành được cũng có không ít khó khăn: sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức; một số người cầm đầu nhóm Nhân văn giai phẩm lợi dụng lúc ta gặp khó khăn, đả kích vào sự lãnh đạo của Đảng. Mặt khác, khi bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta chưa có nhiều hiểu biết về chủ nghĩa xã hội. Khi đánh giá mặt được và chưa được, phân tích các quyết định của Đảng ở thời điểm đó không thể không xem xét bối cảnh nói trên.

Tốc độ tiến lên chủ nghĩa xã hội của ta lúc bấy giờ tương đối cao so với trình độ của một nước nông nghiệp lạc hậu. Tuy nhiên, không thể không tiến hành tốc độ cao như vậy. Từ rất sớm, chúng ta đã nhận định rằng Mỹ sẽ can thiệp và miền Nam và biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, biến thành tiền đồn chống Cộng ở Đông Nam Á. Sự nghiệp thống nhất nước nhà là vô cùng quan trọng, để có thể chuẩn bị chiến tranh và trở thành hậu phương lớn vững chắc cho chiến trường miền Nam, miền Bắc không thể không tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội, không thể không nhanh chóng chuyển biến từ nền sản xuất nhỏ sang nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa để có thể chi viện tiền của, vũ khí vào miền Nam đánh Mỹ. Nếu miền Bắc không tiến nhanh tiến mạnh như thế lên chủ nghĩa xã hội thì lấy gì để ổn định sản xuất, lấy gì để chi viện miền Nam, lấy lực lượng đâu để kháng chiến ? Do đó, khi đánh giá chiến lược của Đảng ta vào thời kỳ này không thể không nhận thấy mối quan hệ giữa chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và cuộc đấu tranh giải phóng thống nhất Tổ quốc. Mặc dù còn nhiều khuyết điểm, nhưng mô hình chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã đóng góp vai trò cực kỳ quan trọng trong công cuộc đấu tranh thống nhất Tổ quốc của nhân dân ta.

Trong những năm tiến nhanh tiến mạnh như vậy, chúng ta có một thuận lợi đó là có phe xã hội chủ nghĩa giúp đỡ, điều đó làm chúng ta rút ngắn được thời kỳ quá độ, chuyển từ quá độ gián tiếp (từ đa thành phần kinh tế) sang quá độ nửa trực tiếp (dựa vào viện trợ vật chất kỹ thuật của phe xã hội chủ nghĩa) để tiến nhanh tiến mạnh lên Chủ nghĩa xã hội. Điều này hợp quy luật không ? Thực tế là có, từ Đại hội II Quốc tế Cộng sản, lãnh tụ Lênin đã chỉ ra rằng các nước có trình độ, điểm xuất phát thấp có thể tiến nhanh tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội nhờ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa đã đi trước. Do đó, khi chuyển dần sang chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa, kế hoạch hóa kinh tế của nước ta có tính toán đến khả năng viện trợ của bạn để vạch ra kế hoạch tăng tốc độ cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng cơ sở vật chất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Chính điều đó, mặc dù có những khuyết điểm nhưng tốc độ phát triển kinh tế ở miền Bắc là tương đối cao, không chỉ từng bước khắc phục những yếu kém từ những năm 50, mà còn phát triển, làm cho nước ta đáp ứng nhu cầu của cuộc chiến tranh giải phóng Tổ Quốc. Nhưng không phải là không có nhược điểm, chúng ta đã không thể lường trước đến việc phong trào xã hội chủ nghĩa và công nhân quốc tế bị rạn nứt. Sự bất đồng, mâu thuẫn giữa ta với một số quan điểm của các nước bạn đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc viện trợ, từ đó cũng ảnh hưởng đến các kế hoạch phát triển kinh tế của nước ta, chính điều đó đã làm cho tốc độ phát triển kinh tế của ta chưa phát huy hết mức tối đa, ngược lại có những thời điểm hết sức căng thẳng, phải điều chỉnh liên tục kế hoạch kinh tế làm phá vỡ kế hoạch, làm cho sản xuất bị ảnh hưởng (vì nguyên vật liệu, máy móc, ... phụ thuộc vào viện trợ của một số nước). Nhất là thời điểm phong trào cộng sản quốc tế bị phân liệt nghiêm trọng, Trung Quốc cắt viện trợ, đã ảnh hưởng không nhỏ đối với nền kinh tế nước ta, đối với các kế hoạch kinh tế. Nhưng để đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh giải phóng nước nhà của nhân dân ta, không thể không tiếp tục duy trì tốc độ đi lên chủ nghĩa xã hội như thế, do đó, từ đầu thập niên 70 ta có xu hướng sát gần Liên Xô và cộng đồng các nước xã hội chủ nghĩa để bù lại phần nào cho việc bị cắt viện trợ bởi Trung Quốc.

Ba là, đánh giá thành tựu trong thời kỳ này như thế nào? Trong 10 năm 1955 - 1965 như Bác Hồ đã đánh giá: "miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội, con người đều đổi mới" (Báo cáo của Hồ Chủ tịch tại Hội nghị chính trị đặc biệt, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1964, tr.7). Đây là thời kỳ phát triển nhanh về các lĩnh vực kinh tế và xã hội. Cơ sở vật chất trong công nghiệp, nông nghiệp, cơ sở hạ tầng bước đầu được xây dựng. Trên 1.000 xí nghiệp, hàng nghìn công trình thuy lợi lớn, vừa và nhỏ, nhiều trường học, bệnh viện được xây dựng. Tốc độ phát triển kinh tế cao, Giáo dục, y tế phát triển khá nhanh. Từ chỗ đại bộ phận nhân dân bị mù chữ, từ chỗ số cán bộ đại học, trung học chuyên nghiệp chỉ có khoảng mấy trăm người đến chỗ đại bộ phận nhân dân biết đọc, biết viết, năm 1955 số học sinh đại học và trung học chuyên nghiệp tăng gấp 25 lần. Xã hội miền Bắc trở thành xã hội của những người lao động làm chủ. Đời sống tinh thần lành mạnh. Đó là thành tựu không nhỏ trong 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội. Không có những thành tựu đó thì làm sao miền Bắc có thể trở thành hậu phương lớn, làm cơ sở và căn cứ địa vững chắc để nhân dân cả nước ta có thể đánh thắng đế quốc Mỹ. Không có những thành tựu đó, không có những thế hệ trẻ được lớn lên trong 10 năm dưới chế độ mới thì không thể có mấy triệu thanh niên tự nguyện ra tiền tuyến chiến đấu.

Bốn là, trong 10 năm (1955-1965), thì có 4 năm đầu nền kinh tế miền Bắc là nền kinh tế nhiều thành phần: sản xuất về cơ bản vẫn theo cơ chế thị trường. Năm 1958, 96% số hộ nông dân là kinh tế cá thể. Năm 1957, kinh tế quốc doanh mới chiếm 18,1% tổng sản phẩm kinh tế quốc dân. Công nghiệp tư bản tự doanh tuy nhỏ cũng chiếm 16,9% tổng giá trị công nghiệp, thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mới chiếm 32,5% tổng mức bán lẻ hàng hoá trong xã hội. Những năm này kinh tế phát triển với tốc độ cao, chỉ có 3 năm đã khôi phục bằng mức năm 1939 - năm cao nhất thời Pháp thuộc.

Nhưng qua hai năm cải tạo thì nền kinh tế nhiều thành phần bị xoá bỏ, kinh tế quốc doanh, kinh tế hợp tác xã chiếm đại bộ phận. Việc sớm xoá bỏ các thành phần kinh tế và trong sản xuất kinh doanh không áp dụng những quy luật của sản xuất hàng hoá, đã tác động tiêu cực không ít đến đời sống kinh tế, hạn chế việc phát triển lực lượng sản xuất. Tuy nhiên nếu không xóa bỏ thì không thể tiến lên chủ nghĩa xã hội với tốc độ cao. Cần nhận thức rõ điều ấy.

Nhưng không thể từ đó đi tới phủ định những thành quả của 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, coi toàn bộ mô hình lúc đó từ chính trị, kinh tế đến văn hoá, xã hội đều là hỏng hết, không có tác dụng gì.

Suy nghĩ như vậy thì làm sao cắt nghĩa được trong 10 năm, từ 1955 đến 1965, miền Bắc có những thay đổi sâu sắc?

Làm sao cắt nghĩa được 10 năm đó tổng sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân tốc độ tăng tương đối cao?

Làm sao cắt nghĩa được đến năm 1964, ta đã giải quyết được 90% hàng tiêu dùng, cơ bản giải quyết được vấn đề lương thực ?

Làm sao cắt nghĩa được những thành tựu rất lớn về văn hóa, giáo dục, y tế ….?