SỬ GIA PHƯƠNG TÂY ĐÃ TẠO RA SỐ LIỆU NẠN NHÂN CÁC VỤ HÃM HIẾP Ở BERLIN 1945 NHƯ THẾ NÀO ?



=====================
Năm 2002, trong cuốn sách Berlin 1945: Sự sụp đổ của A. Anthony Beaver, lần đầu tiên người ta biết đến một cách rộng rãi huyền thoại về con số 2 triệu nạn nhân. Thực ra, con số 2 triệu này ko phải do Anthony Beaver tìm ra - mà là trích dẫn từ một công trình “nghiên cứu” (mà có lẽ ko đáng gọi là nghiên cứu, một công cụ tuyên truyền) của hai người Đức - Helke Zander và Barbara Yor. Đây là người đầu tiên và cũng là người duy nhất “tìm” ra con số này, và cũng chưa có ai, tổ chức nào chứng thực được số liệu của bà Helke Zander và Barbara Yor này. Những kẻ khác, kể cả bọn sử gia, bộ máy tuyên truyền, chính trị gia đơn thuần là nhại lại “công trình” của Helke Zander và Barbara Yor.

- Cách thức để tạo ra những con số?

Năm 1945, chính quyền phát xít bị sụp đổ nhanh chóng, gần như hoàn toàn ko có bất kỳ một công trình nghiên cứu, thống kê toàn diện nào về các vụ án hiếp dâm. Do đó, chỉ có thể tiếp cận đến một số tài liệu ít nhiều liên quan, chủ yếu đến từ nguồn bệnh viện - nguồn duy nhất có thể làm tài liệu để .... suy đoán.

Công trình của Helken Zander và Barbara Yor đã sử dụng phương pháp nghiên cứu sử học một cách rất “khoa học”, đó là lựa chọn có chủ định 2 bệnh viện phụ sản trong thành phố Berlin. Điều đó thật đã vi phạm phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên trong phương pháp thống kê, tác giả đã có một sự lựa chọn có chủ ý. Đây là sai lầm thứ nhất của “công trình nghiên cứu” của Helken Zander và Barba Yor (1). Điều này có sự ảnh hưởng rất lớn, nếu như quá trình lựa mẫu ngẫu nhiên rơi vào 2 cơ sở phụ sản ở những vùng không có người Nga, thì thuyết “hàng trăm nghìn nạn nhân ở thủ đô Berlin bị hiếp dâm bởi Hồng Quân” tất nhiên bị phá sản.

Để tìm ra tổng số phụ nữ bị hãm hiếp ở Đông Đức, Helken Zander và Barbara Yor sử dụng phương pháp ngoại suy. Dữ liệu được lấy từ bệnh viện - Hoàng hậu Augusta Victoria và Charite trong khoảng thời gian từ tháng 9/1945 đến 8/1946.

Có khoảng 23.124 đứa trẻ được sinh ra trong thời điểm này. Nguồn gốc sắc tộc của người cha được các tác giả dựa trên một tài liệu duy nhất đó là bệnh viện Hoàng hậu Augusta Victoria - và từ đó ngoại suy ra có đến 1.156 đứa trẻ là kết quả của “tội ác” Hồng quân (2). Đây là sai lầm thứ 2 các tác giả. Việc tự lựa chọn cơ sở, rồi tự dùng 1 dữ liệu của cơ sở đó, áp cho toàn bộ 23.124 đứa trẻ những % nguồn gốc Nga rồi kết luận rằng có đến 1.156 đứa trẻ sinh ra bởi các vụ hãm hiếp. Đó là một sự dối trá trắng trợn có hệ thống.

Giả sử, nếu số liệu bệnh viện Hoàng hậu Augusta Victoria không phải là 5% (1.156 đứa trẻ) mà là 6% (1387 đứa) hay 10% (2.312 đứa) thì rõ ràng đây không phải là những con số thực, mà là các con số suy đoán có thể tăng giảm tùy ý. Trên thực tế không có bất cứ con số thống kê chính xác nào về các tình trạng xảy ra ở Berlin cả.

Sai lầm thứ ba của họ đó chính là họ giả sử ra các con số % khả năng về “số phụ nữ giữ lại thai sau khi bị hiếp dâm” (3). Con số này được các tác gia đề cập là 10% (tức là nói 90% phụ nữ phá thai sau khi bị hiếp dâm). Trong tài liệu của Helken Zander và Barba Yor, các tả giả không đưa ra được bất cứ điều gì để chứng minh cho số liệu của họ về giả sử % khả năng này, họ cũng không giải thích, mà tự bịa ra. Câu hỏi đặt ra là sao lai phải là 90%, mà ko phải là 99%, hay 60%, hay bất kỳ con số nào khác ?

Sai lầm thứ tư đó là tác giả áp mẫu của “số phụ nữ có thai sau khi bị hãm hiếp” từ dữ liệu của bệnh viện Charite là 20%, tức dựa vào số liệu 514 phụ nữ bị hiếp dâm, trong đó có 118 người mang thai (4). Cách tính % không sai, nhưng phương pháp chọn và dùng mẫu đã sai. Sai thứ nhất là không lựa chọn ngẫu nhiên bệnh viện để lấy mẫu, sai thứ hai là dùng mẫu này áp cho toàn bộ phụ nữ ở thủ đô Berlin (đó ko phải là thống kê, mà là tiếp tục ngoại suy bằng cách dùng các tài liệu đã chọn lọc). Vẫn tiếp tục là thủ đoạn dơ bẩn chứ không phải nghiên cứu khoa học.

Trong thời điểm đó (1945), không có bất cứ một khoa học thống kê nào nghiên cứu về % “số phụ nữ có thai sau khi bị hãm hiếp”. Theo dữ liệu sớm nhất mà tôi thu thập được là vào năm 1990, tại Mỹ, người ta bắt đầu thử tiến hành các hoạt động thống kê các nạn nhân của các vụ hãm hiếp. Chỉ có 3,2%-4,8% nạn nhân xác định họ nghi ngờ con họ là kết quả của các vụ hãm hiếp. Tuy nhiên, xác minh DNA các trường hợp đó, người ta phát hiện có đến 60% trong các trường hợp, không phải là kết quả của nạn hiếp dâm, mà lại là kết quả của hoạt động tình dục của những người phụ này với những người đàn ông mà họ quan hệ tình cảm. Tức là trên thực tế chỉ có 1,92%-2,88% “số phụ nữ có thai sau khi bị hãm hiếp” là kết luận của các nhà khoa học Mỹ được thực hiện vào năm 1990. Tất nhiên đây không phải là bằng chứng để bác bỏ con số 20% mà các tác giả đưa ra, mà đây là tài liệu cho thấy 20% là con số không thực tế, không đáng tin cậy, huống hồ thời điểm đấy không có bất kỳ một thống kê khoa học nào như thống kê 1990 ở Mỹ.

Vấn đề thứ sáu mà tôi muốn đề cập đến đây là, số liệu thống kê của bệnh viện Hoàng hậu Augusta Victoria, trong đó có một cột ghi ngày tháng từ 1/9 - 31/12/1945. Thông thường người phụ nữ thường mang thai 9 tháng, khả năng mang thai chỉ 7 tháng thường rất thấp. Nếu tính từ thời điểm tháng 9, thì khả năng những người phụ nữ có thai rơi vào tháng 1/1945 (9 tháng) - 3/1945 (7 tháng). Nếu tính tháng 12/1945 thì khả năng phụ nữ có thai rơi vào 3/1945 (9 tháng) và 5/1945 (7 tháng). Nếu nói một cách chính xác, thật khó để bảo rằng các vụ hãm hiếp diễn ra từ tháng 1/1945 - 4/1945, khi mãi đến 16/4/1945 chiến dịch Berlin mới nổ ra. Nhưng từ ngày 16/4 - 2/5 thì Hồng quân đang giành giật từng con phố, từng ngôi nhà trên khắp thủ đô Berlin với Đức Quốc xã cho nên khả năng này cũng gần như không thể. Vậy suy ra, chúng ta không thể khẳng định những đứa trẻ sinh ra từ 9/1945-12/1945 có nguồn gốc Nga thì hoàn toàn là con của những người lính Hồng Quân. Không thể loại trừ rằng trên thực tế không ít người gốc Nga đã từng sống và tồn tại ở Berlin trước đó, có thể có nguồn gốc từ: a) Người Nga chạy khỏi đất nước sau Cách mạng tháng Mười và Nội chiến b) Người Nga từ các đội quân Giải phóng Nga do Đức Quốc xã lập nên c) Người gốc Nga từ các vùng bị chiếm đóng nhưng có thái độ chống chính quyền Xô viết như vùng Baltic, Ba Lan, Ukraina, Belarus,... d) Những người gốc Slav cũng thường xuyên bị nhầm là người Nga.

Các tác giả cũng khá bất cẩn khi xử lý các nguồn tài liệu. Ví dụ, bảng thống kê bệnh viện Hoàng Hậu Augusta Victoria liệt kê chỉ có 16 trẻ được sinh ra xác định đúng là người Nga, nhưng 5 người còn lại thì họ không biết, không chắc chắn đó là người Nga. Tức là có đến 25% số liệu không chính xác (7).

Nếu như thế, tỷ lệ nạn nhân chắc chắn sẽ phải giảm xuống (theo cách tính của các tác giả) sẽ từ 5% xuống còn 3,1%. Và như thế, số lượng nạn nhân ước lượng bằng phương pháp suy đoán như thế sẽ không đạt được hiệu quả, không thể phục vụ cho nhu cầu chính trị của phương Tây.

Vấn đề thứ tám, các tác giả phạm một sai lầm nữa là họ ước lượng 1.156 đứa trẻ là kết quả các vụ hiếp dâm của Hồng Quân ở Berlin, nhưng ước lượng đến 292.000 đứa trẻ khác trên toàn bộ Đông Đức (tức là 2 triệu nạn nhân hiếp dâm trên toàn bộ Đông Đức). Câu hỏi đặt ra là liệu dân số Đông Đức (trừ Berlin) gấp 260 lần dân Berlin ? Chưa kể binh lính Liên Xô tập trung phần lớn ở Berlin, vậy làm sao để đạt được hiệu suất gấp 260 lần như thế ? Đó là cái mà Helken Zander và Barba Yor không bao giờ giải thích.

=================

Cách tính số nạn nhân của Helken Zander và Barba Yor là như sau:

- Ở số liệu 5% đứa trẻ sinh ra là người Nga, các tác giả lấy từ tài liệu của bệnh viện Hoàng Hậu Augusta Victoria (hình 1). Số liệu về khả năng mang thai của 20% lấy từ bệnh viện Charite (hình 2) bằng cách lấy (118/514) x 100.

Hình 1


Hình 2

- Như vậy, Helken Zander và Barba Yor lập luận rằng từ 9/1945 - 12/1945 có 23.124 đứa trẻ được sinh ra, mà số liệu của bệnh viện Hoàng hậu Augusta Victoria thống kê là 5% là có nguồn gốc Nga. Cho nên suy ra những đứa trẻ có gốc Nga là .... 5% của 23.124 tức là 1.156 đứa trẻ. (hình 3)

Các tác giả tiếp tục lập luận, giả dụ có đến 90% phụ nữ mang thai sau khi bị hiếp đã phá thai, thì có thể .... cho rằng, số nạn nhân bằng 1.156 x 10, tức là 11.560 phụ nữ mang thai (hình 3)


Hình 3

- Lấy cơ sở 20% phụ nữ bị hiếp dâm có khả năng mang thai, các tác giả tiếp tục lập luận, tổng số phụ nữ bị hiếp dâm là 11.560 x 5 tức là vào khoảng 57.800 nạn nhân. (hình 3)

- Để có thể gia tăng con số nạn nhân ở thủ đô Berlin, các tác giả lập luận như sau: Ở thủ đô Berlin lúc này có khoảng 600.000 phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (18-45t), tức là 9,5% số phụ nữ Berlin đã bị hãm hiếp (57.800/600.000 x 100). (hình 3)

- Các tác giả tìm mọi cách để tăng số nạn nhân bằng việc mở rộng số tuổi của các nạn nhân, tức là cho rằng các nạn nhân từ 14-18t cũng có khả năng bị cưỡng hiếp. Mà lúc đó có đến 800.000 cô gái từ 14-18t. Giả sử 9,5% trong nhóm này bị hãm hiếp, thì số nạn nhân sẽ tăng thêm 73.300 nạn nhân (nếu giảm một nửa %, tức là 4,75% thì cũng sẽ có thêm 36.650 nạn nhân). (hình 3)

Tóm lại, Helken Zander và Barba Yor đúc kết có đến 94.450 - 131.100 nạn nhân, cho trung bình là 111.000 nạn nhân bị hiếp dâm bởi Hồng quân. Cách tính đơn giản quá phải không ? =]]x

===================

Cũng với cách tính như vậy thì chúng ta có thể liệt kê, số nạn nhân bị hiếp dâm bởi người Mỹ - Anh - Pháp là: 69.314 nạn nhân nếu chỉ dựa theo các tài liệu của bệnh viện Hoàng hậu Augusta Victoria và Charite.

Nhưng giả sử, cũng phương pháp này mà chúng ta chọn những cơ sở bệnh viện ở Tây Berlin có % những đứa trẻ mang sắc tộc Mỹ, Anh, Pháp cao khoảng 5%-8%. Thì số “nạn nhân” cũng có dao động từ 131.000 nạn nhân đến 215.650 người là nạn nhân của các vụ hãm hiếp gây ra bởi người Mỹ, Anh, Pháp chăng (?)

Rồi nếu chúng ta tiến hành tính toán toàn bộ tổng số nạn nhân được gây ra bởi các lực lượng bên ngoài đối với người Đức thì chúng ta sẽ tổng kết như thế nào ?: Liên Xô chiếm 110.000 nạn nhân/ 1,4 triệu phụ nữ Đức (600.000 người độ tuổi 18-45t và 800.000 người độ tuổi 14-18t) và Mỹ, Anh, Pháp chiếm 69.314 nạn nhân/1,4 triệu phụ nữ Đức chăng ? Hóa ra là số phụ nữ ở thủ đô Berlin là 2,8 triệu người chứ không phải 1,4 triệu người theo số liệu thống kê dân số mà Helken Zander và Barba Yor đưa ra hay sao (?)

Rõ ràng phương pháp của các tác giả là con dao 2 lưỡi đối với chính tác giả. Nó thể hiện sự dốt nát, và yếu kém của những kẻ làm công tác tuyên truyền dối trá chứ không phải nghiên cứu lịch sử.

Helken Zander và Barba Yor qua lăng kính của bọn chủ nhà băng, bọn tài phiệt, bọn chính trị gia tư sản, bọn ngáo cần và keo con chó có thái độ chống cộng cuồng nhiệt, bọn tâm thần cuồng phương Tây ... là những “nhà nghiên cứu sử vĩ đại”. Nhưng Helken Zander và Barba Yor qua lăng kính của những trí thức, học giả, nhà nghiên cứu lịch sử chân chính thì chả khác gì những kẻ đốn mạt, đám cặn bã trong khoa học nghiên cứu.

Tiến sĩ Khoa học lịch sử E.S. Senyavskaya, thành viên của Viện Lịch sử thuộc Viện hàn lâm khoa học Nga đã bình luận:

“Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, chủ đề này đã được phóng đại lên tuy nhiên không mạnh mẽ và ồ ạt như trong 20 năm trở lại đây. Con số bị “hãm hiếp” rất khiêm tốn 20.000 - 150.000 trên toàn bộ nước Đức. Nhưng vào năm 1992, sau khi sụp đổ của Liên Xô, cuốn sách của hai nhà nữ quyền là Helken Zander và Barba Yor “Người giải phóng và Giải phóng”, đã được xuất bản tại Đức đã nêu ra con số 2 triệu nạn nhân. Điều đó dựa trên sự suy đoán hoàn toàn thiếu căn cứ: số liệu thống kê được lấy từ một bệnh viện ở Berlin trong 1945-1946, trong đó khoảng 500 trẻ em đã được sinh ra, khoảng 15 người được xếp quốc tịch của người nói tiếng Nga, có đến 2/3 trường hợp bị chỉ định là “hãm hiếp” vô căn cứ. Những “nhà nghiên cứu” này làm gì ? Họ cho rằng trong mọi trường hợp, khi những đứa trẻ đó có nguồn gốc Nga thì mặc nhiên đó là hiếp dâm. Sau đó, bằng các phương pháp của Goebbels (Bộ trưởng tuyên truyền Đức Quốc xã) nhân lên 80 lần. Con số 2 triệu này chỉ phổ biến vào năm 2002 (tức là trước đó chả mấy ai care vì phương pháp nghiên cứu như shit) với việc xuất bản cuốn sách The Fall of Berlin của Anthony Beaver”.

Thế đấy, đó là cách thức các “chuyên gia nhồi sọ” phương Tây hô biến ra nạn nhân của con ngáo ộp mà họ luôn sợ hãi - huyền thoại các nạn nhân bị hãm hiếp gây ra bởi Hồng quân đã bị thổi phóng gấp 80 lần so với thực tế.