Phần Lan, nạn nhân của chủ nghĩa bành trướng Đại Nga Xô viết hay con Cáo trắng của chủ nghĩa Đế quốc ?




========================================

A - kiến thức về chủ quyền lãnh thổ quốc gia.

1. Quy phạm luật pháp về vấn đề lãnh thổ.

Trong lịch sử phát triển lâu dài của Luật pháp quốc tế, những nguyên tắc và qui phạm pháp luật xác lập chủ quyền lãnh thổ đã được hình thành trên cơ sở thực tiễn quốc tế, trong đó có các phương thức thụ đắc lãnh thổ:“Thụ đắc lãnh thổ là việc mở rộng ranh giới địa lý của chủ quyền quốc gia ra một lãnh thổ mới”. 

Trong việc xác lập chủ quyền lãnh thổ, học thuyết và thực tiễn quốc tế thường chia ra 5 phương thức thụ đắc lãnh thổ chính:

- a). Thụ đắc lãnh thổ bằng chiếm hữu ( Occupation). Đây là việc thiết lập và thực hiện chủ quyền của một quốc gia trên một vùng lãnh thổ vô chủ hoặc một vùng lãnh thổ vốn đã có chủ nhưng sau bị bỏ rơi và trở lại trạng thái vô chủ ban đầu.

- b). Thụ đắc lãnh thổ do tác động của tự nhiên (Accretion). Theo phương thức thụ đắc lãnh thổ này, một quốc gia có quyền mở rộng ranh giới địa lý của lãnh thổ thông qua việc bồi đắp tự nhiên vào lãnh thổ chính hoặc do sự xuất hiện của các hòn đảo mới trong phạm vi đường biên giới quốc gia.

- c).  Thụ đắc bằng chuyển nhượng. Là phương thức thụ đắc lãnh thổ bằng sự chuyển giao một cách hoà bình chủ quyền lãnh thổ từ quốc gia này sang quốc gia khác. Hình thức chuyển nhượng thông thường được hợp thức thông qua các điều khoàn của một điều ước chính thức mà trong đó miêu tả rõ ràng về vùng đất được chuyển nhượng cũng như các điều kiện để việc chuyển nhượng được hoàn thành.

- d). Thụ đắc lãnh thổ bằng xâm chiếm (Conquest) Là phương thức thụ đắc lãnh thổ được tiến hành thông qua hành động sử dụng vũ lực của một quốc gia để sáp nhập lãnh thổ của nước khác vào lãnh thổ nước mình. (Chỉ được công nhận khi chiếm hữu một thời gian dài và không còn ai lên án, hoặc bản thân chủ nhân vùng đất đó đồng ý sáp nhập vào).

2. Quy phạm pháp luật quốc tế trong việc công nhận chủ quyền.

Xin dẫn về Công ước Montevideo về quyền và nhiệm vụ của các Quốc gia (Montevideo Convention on the Rights and Duties of States) là một hiệp ước ký kết tại Montevideo, Uruguay, vào ngày 26 tháng 12 năm 1933, trong Hội nghị quốc tế lần thứ VII các nước châu Mỹ. Cũng tại Hội nghị này, Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt cũng đã phê chuẩn vào công ước.

Ý nghĩa của Công ước này là hệ thống hóa các lý thuyết tuyên bố tình trạng của một nước và nó được chấp nhận như là một phần của pháp luật tập quán quốc tế. Tức là đến năm 1933, người ta mới lý thuyết hóa vấn đề vốn dĩ đã được công nhận từ lâu trong hệ thống pháp luật tập quán quốc tế (* Rất quan trọng)

Sau đây xin trích dẫn điểm vô cùng quan trọng trong Hiệp ước đó:

"Điều 3: Sự tồn tại về chính trị của các quốc gia độc lập với sự công nhận của các quốc gia khác."

- Vde1: Quốc gia chủ thể lớn (cường quốc - đế quốc) chiếm hữu thuộc địa/ quốc gia phụ thuộc là đại diện duy nhất trực tiếp công nhận sự độc lập của các thuộc địa/ quốc gia phụ thuộc đó.

- Vde2: Mọi sự công nhận của quốc tế đối với quốc gia chỉ sinh ra vấn đề ngoại giao, không sinh ra chủ quyền.

B. Sơ lược căn bản xoay quanh chủ quyền của Nga và Phần Lan.

1. Chủ quyền của nước Nga đối với vùng lãnh thổ Phần Lan và vùng "tranh chấp" thời kỳ trước Cách mạng Tháng Mười.

a) Phần Lan.

- Phần Lan trước kia là lãnh thổ thuộc Thụy Điển, sau thất bại trong chiến tranh với Nga,   năm 1809 Thụy điển đã ký Hiệp ước Fredrikshamn cắt nhượng Đại công quốc Phần Lan cho Nga. Đây là hình thức cơ bản của nguyên tắc "chuyển nhượng lãnh thổ".

- Tại Hội nghị bốn Đẳng cấp của xứ Phần Lan nhóm họp tại Nghị viện Porvoo vào ngày 29 tháng 3 năm 1809, các đại biểu Phần Lan cam kết bày tỏ lòng trung thành với đế quốc Nga để đổi lấy sự đảm bảo về luật pháp và quyền tự do cũng như tôn giáo sẽ được giữ nguyên vẹn. Phần Lan trở thành một nước tự trị trực thuộc đế quốc Nga. (Hình thức thụ đắc lãnh thổ bằng xâm chiếm).

=> Nga có chủ quyền đối với toàn bộ phần lãnh thổ Phần Lan khi đó.

b) Bán đảo Karelia (vùng tranh chấp Nga - Phần Lan)

Thực tế vùng Karelia rất lớn, Nga và Phần Lan mỗi bên chiếm một nữa, ở vấn đề này ad chỉ đề cập đến vùng đất mà Liên Xô chiếm hữu vào Cuộc chiến mùa đông năm 1940.

- Túm lại cái muốn ám chỉ tới chỉ có mỗi vùng Old Phần Lan, tức vùng đất chủ quyền thuộc Phần Lan trước kia do Thụy Điển nhượng lại Nga sau khi thất bại trong chiến tranh, đó là Hiệp ước Nystad ký với Thụy Điển năm 1721. (hình thức chuyển nhượng lãnh thổ).

- Sau khi Phần Lan thề trung thành với Sa Hoàng vào năm 1809, năm 1812, phần đất Old Phần Lan được Sa Hoàng trao trả lại, sáp nhập lại vào công quốc Phần Lan (nhưng vẫn thuộc Nga). Tức Phần Lan có chủ quyền với phần Old Phần Lan mà Sa Hoàng trao tặng. (Hình thức chuyển nhượng lãnh thổ một lần nữa).

=>  Như vậy, Phần Lan trong thời kỳ trước Cách mạng tháng Mười, thực sự có chủ quyền đối với vùng lãnh thổ mà Liên Xô chiếm hữu trong Cuộc chiến mùa Đông năm 1940.

2. Nga Xô viết trao trả độc lập cho Phần Lan 1920 ?.

Chúng ta thường được nghe đến việc nước Nga Xô viết công nhận nền độc lập của Phần Lan và xác lập đường biên giới thông qua Hiệp ước Hòa bình Tartu vào năm 1920 (cái này truyền thông Phương Tây nói), nếu như việc nước Nga ký hiệp ước Hòa bình Tartu vào năm 1920 công nhận nền độc lập của Phần Lan theo quy chiếu công nhận lãnh thổ của Đại công quốc Phần Lan trước kia thì chủ quyền của Phần Lan đối với vùng Old Phần Lan là sự xác lập thông qua hình thức chuyển nhượng, trao toàn bộ chủ quyền vào tay chính phủ tư sản Phần Lan. Như thế có nghĩa là Phần Lan có lãnh thổ hợp pháp ở vùng Old Phần Lan và việc Hồng quân chiếm hữu vào năm 1940 là hành vi xâm lược !!.

Nhưng, đều đó chỉ đúng khi Phần Lan được "công nhận độc lập" vào năm 1920 !!

Nhưng thực tế, trong Hòa ước Tartu, nước Nga Xô viết đã không công nhận sự độc lập của Phần Lan, vì trước đó nước Nga Xô viết đã công nhận sự độc lập và toàn vẹn lãnh thổ Phần Lan từ trước đó chứ không phải vào năm 1920. 

=> Như vậy nội dung của hiệp ước Nga Xô viết - Phần Lan thực chất là tái khẳng định chủ quyền biên giới và phân định vùng biên giới. Nhưng trước đó đã phân chia thế nào thì đó là cả một câu chuyện dài ..... (hãy tiếp tục đọc phía dưới).

3. Nước Nga Xô viết công nhận độc lập của Phần Lan vào năm 1917.

- Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười thắng lợi thành công, việc đầu tiên mà chính phủ bolsheviks cần làm là hòa bình, tức phải mở một cuộc đàm phán hòa bình với Đức thông qua Hòa ước Brest-Litovsk trong năm 1918. Ngay từ khoản thời gian bắt đầu đàm phán hòa bình Brest-Litovsk. Chính phủ tư sản Phần Lan đã gửi kiến nghị đến Chính phủ Xô viết về việc công nhận nền độc lập của Phần Lan. Ngày 18/12/1917, Hội đồng dân ủy Xô viết đưa ra nghị quyết công nhận trao trả nền độc lập cho Phần Lan. Ngày 4/1/1918, Ban chấp hành TW phê chuẩn Nghị quyết Hội đồng dân ủy về việc trao độc lập cho Phần Lan.

- (*Rất quan trọng) Mặc dù chính phủ Phần Lan đã được nhận sự đồng ý về việc công nhận độc lập, tuy nhiên một văn bản bổ sung đã được thêm vào trong mục (B) của Nghị định của Hội đồng Ủy viên Nhân dân Xô viết trong đó quy định: tổ chức một ủy ban đặc biệt giữa 2 chính phủ để nghiên cứu các biện pháp phát sinh từ việc Phần Lan tách khỏi Nga .... nhưng trong đó bao gồm có đại diện Chính phủ Phần Lan và đại diện của tầng lớp lao động Phần Lan (Xô viết).

- Các biện pháp cần thiết để tách Phần Lan khỏi nước Nga Xô viết đã chưa được thực hiện, ủy ban đặc biệt đó đã chưa được thành lập. 

4. Chính phủ Tư sản Phần Lan đánh mất quyền đại diện một bên"chủ thể" trong việc đàm phán với nước Nga Xô viết.

- Đầu năm 1918, những người Bolsheviks Phần Lan bắt đầu tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước Phần Lan độc lập. Bắt đầu tại thủ đô của Phần Lan, chính phủ tư sản tan rã và chạy đến thành phố Vassa, một chính phủ mới được thành lập gọi là Thượng viện Vassa thay cho Thượng viện Svinhufvud trước đó đóng ở thủ đô. Cuộc nội chiến ở Phần Lan bắt đầu. Về mặt cơ bản, Chính phủ Vassa đã đánh mất quyền lãnh đạo thực tế tại thủ đô và toàn bộ vùng lãnh thổ công nghiệp tại miền Nam. Đồng nghĩa với việc Chính phủ Vassa chỉ còn mang tính chất danh nghĩa hình thức và ở Phần Lan tồn tại 2 chính quyền song song tồn tại : Chính phủ tư sản ở Vassa và chính phủ Xô viết Phần Lan ở thủ đô.

- Quan điểm chính phủ Nga Xô viết đã được thể hiện trong thông báo ngày 27/1/1918 : "Nga sẽ tuân thủ trung lập và không can thiệp vào cuộc xung đột nội bộ ở Phần Lan." . Như vậy, chính phủ Nga Xô viết hoàn toàn tuân thủ và cam kết những nguyên tắc của mình đối với việc công nhận chủ quyền của Phần Lan, bao gồm vùng đất Old Phần Lan.

- Tuy nhiên, mặc dù chính phủ tư sản Phần Lan đã chạy khỏi thủ đô và thực tế ko còn thực quyền tại lãnh thổ phía Nam, tuy nhiên chính phủ tư sản Phần Lan vẫn là đại diện "chính thức" đối với nước Nga Xô viết. Nhưng, hành động sau đó của chính phủ tư sản Phần Lan đã dẫn đến các sự việc đầy tiêu cực:

Thứ nhất, Chính phủ Phần Lan ngang nhiên tấn công các pháo đài quân đội Nga còn đóng ở Phần Lan (Sau Cách mạng tháng Mười, quân đội Nga hoàng đang tan rã và giải ngũ, nên vẫn còn một số lượng lớn quân Nga đóng trên lãnh thổ Phần Lan chưa kịp rút, việc rút quân đã có thỏa thuận). Chính phủ Phần Lan đã phớt lờ thông báo ngày 27/1/1918 của chính phủ Xô viết về vấn đề Trung lập.

Thứ hai, Ngay trong tháng 2 năm 1918 Chính phủ Phần Lan tuyên bố đứng về phía quân Đội Đức - kẻ thù chính trên mặt trận phía Tây của Nga- và tuyên bố tái chiếm toàn bộ vùng lãnh thổ Karelia (trong đó có một phần thuộc Nga) và bán đáo Kola (chủ quyền của nước Nga). Yêu cầu nước Nga Xô viết chấp nhận hòa bình với điều kiện mất toàn bộ lãnh thổ Đông Karelia.

Việc Phần Lan tiến một bước tới việc Chiến tranh đã dẫn tới việc các hòa ước trước đó sẽ bị xé bỏ, không còn hiệu lực.

=> Như vậy, chính phủ tư sản Phần Lan trong cơ hăng say thắng lợi của quân đội Đức, đã xé bỏ hòa bình với nước Cộng hòa Xô viết, xé bỏ quyền đại diện hợp pháp của mình trong đối thoại với chính phủ Xô viết. Vậy nên, chính phủ Xô viết chỉ còn một cách là công nhận sự độc lập vẹn toàn của Phần Lan thông qua chính quyền còn lại của Phần Lan, chính quyền đang nắm lực lượng thực tế ở thủ đô và toàn bộ vùng lãnh thổ phía Nam, chính quyền Xô viết Phần Lan trở thành đại diện "chủ thể" hợp pháp trong việc đàm phán với nước Nga.

5. Sự tái công nhận lãnh thổ Phần Lan của nước Nga Xô viết và Hiệp ước mới về "lãnh thổ".

- Ngày 1/3/1918, các thõa thuận về việc bình thường hóa quan hệ giữa Phần Lan và Nga đã được ký kết bởi 2 chính phủ hợp pháp là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Công nhân Phần Lan. Ngay sau đó Ngày 10/3/1918, một thõa thuận mới về lãnh thổ đất đai, bất động sản, tài sản đã được ký kết giữa Nga Xô viết và Phần Lan với tên gọi "Về việc tăng cường tình hữu nghị và tình anh em".

- Trong đó có một mục quan trọng nêu Về vấn đề lãnh thổ như sau: Nước Nga Xô viết cắt lãnh thổ Pechenga (Petsamo) cho Phần Lan Đỏ, Phần Lan Đỏ trao vùng đất có pháo đài Ino (Fort Nikolaevsky - nằm trên vùng đất Old Phần Lan) ngay lập tức cho nước Nga (để phục vụ việc tiếp tế cho Hồng quân Phần Lan), việc phân định biên giới chi tiết Phần Lan - Nga Xô viết sẽ do một tiểu ban đặc biệt đảm trách. 

=> Như vậy, về mặt cơ bản, nước Nga Xô viết đã hoàn thành những bước cơ bản trong việc công nhận nền độc lập và chủ quyền của Phần Lan - Nga, đồng thời tiến hành ngay công việc phân định biên giới.

=======================

C. Chủ nghĩa đế quốc Phần Lan.

- Không lời tuyên chiến, đầu tháng 1 năm 1918, quân đội của chính phủ tư sản Phần Lan bất ngờ vượt biên xâm lược vào vùng Đông Karelia của nước Nga Xô viết, 2 hướng chính là Ukhta và Kem.

- Ngày 27/2/1918, chính phủ Phần Lan tuyên bố mình là Đồng minh của Đức và ủng hộ cuộc chiến tranh giữa Đức với nước Nga Xô viết để kết thúc bằng việc một hiệp ước hòa bình mà Nga Xô viết phải chấp nhận trao lãnh thổ Đông Karelia cho Phần Lan.

- Ngày 3/6/1918, Phần Lan thành lập một chính phủ Đông Karelia tại thủ đô Phần Lan, âm mưu cho việc sáp nhập hợp hóa lãnh thổ của nước Nga vào Phần Lan.

- Ngày 7/3/1918, Hoàng đế Đức Wilhelm II từ chối việc công nhận và ủng hộ các hành động của Phần Lan khi nó "vượt" qua nội dung của hòa ước Brest-Litovsk.

- Ngày 5-7/5/1918, quân đội Phần Lan trong việc truy kích Hồng quân Công nông Phần Lan đã vượt biên nước Nga tiến thẳng vào thủ đô Petrograd, âm mưu "giải phóng" và chiếm toàn bộ các thành phố lân cận (kế hoạch của tướng Mannerheim - Phần Lan đã ký vào 15/3/1918 về kế hoạch Wallenius).

- Hồng quân công nông Nga Xô viết đã anh dũng chặn bước tiếng của quân đội Phần Lan, âm mưu tấn công thủ đô nước Nga cách mạng. Biên giới Nga - Phần Lan hiện tại chỉ cách thủ đô Petrograd xấp xỉ 25km.

- 15/5/1918, Phần Lan tuyên chiến với Nga, chiếm toàn bộ tỉnh Olonets nằm trên phần đất của nước Nga.

- 22/5/1918, nhà lãnh đạo Phần Lan Rafael Waldemar Erich tuyên bố: "Phần Lan sẽ kiện Nga vì tổn thất do chiến tranh, độ to lớn của tổn thất đó có thể được bồi thường từ Đông Karelia và bờ biển Murmansk". Đúng chất vừa ăn cướp vừa la làng.

- 15/10/1918, quân đội Phần Lan vượt biên chiếm làng Repola.

- Đầu tháng 1/1919, Phần Lan tuyên bố chiến tranh tiếp tục, chiếm Poros-Ozersky, Rebolskaya.

- Tháng 2/1919, tại hội nghị của các nước Đế quốc tại Véc-xây, Phần Lan tuyên bố chủ quyền ko chỉ mỗi Đông Karelia mà còn cả bán đảo Kola (chủ quyền hoàn toàn của Nga).

- 21-22/4/1919, Phần Lan tiếp tục vượt biên - chiếm được Tuloksu và Olonet (23/4) , Veshkelitsa (24/4) , Quân đội Phần Lan tiến gần Pryazha, trực tiếp đe dọa Petrozavodsk (25/4).

- Chiến sự xoay quanh Petrozavodsk ác liệt, cuối cùng quân đội Phần Lan bị Hồng quân đánh bật ngược trở lại biên giới, Chính phủ Xô viết đề nghị đàm phán nhưng Chính phủ Phần Lan từ chối đàm phán vào ngày 7/8/1919.

- 14/9/1919, chính phủ Xô viết kêu gọi đàm phán hòa bình, Phần Lan từ chối lần nhứ nhất.

- 16/10/1919, chính phủ Xô viết đề nghị đàm phán Hòa bình lần 2 sau khi quân đội Phần Lan thất bại nghiêm trọng trên mặt trận, Quốc hội Phần Lan suy xét, nhưng trên mặt trận quân đội Phần Lan vẫn tiếp tục tổ chức tấn công.

- Hồng quân đã đánh lui hoàn toàn các đợt tấn công của quân đội Phần Lan, giải phóng lại được một số vùng như Pechenga và vùng cực, biên giới Nga - Nauy.

- Thất bại trong âm mưu xâm lược hoàn toàn vùng cực bắc của nước Nga Xô viết, Phần Lan chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán hòa bình 12-24/4/1920.

- 21/7/1920, Hồng quân giải phóng toàn bộ Đông Karelia buộc Phần Lan phải ký vào bản hiệp ước hòa bình Tartu 1920 (14/10) trong đó vẫn quy định Nga giữ phần đất Đông Karelia và bán đảo Kola như lãnh thổ của kế thừa từ Cộng hòa Nga. Phần Lan vẫn giữ một vài vùng đất đã chiếm được.

- 6/11/1921, Phần Lan tổ chức chiến tranh xâm lược lần 2, Hồng quân sau khi chiến thắng trong Nội chiến đã tái củng cố lực lượng giáng trả những đòn nặng nề vào quân xâm lược.

- Ngày 25/1/1922, Hồng quân giải phóng Kestenga và Kokisalma.

- Ngày 17/2/1922, chiến tranh kết thúc bằng việc Phần Lan rút khỏi biên giới Liên Xô.

- Ngày 21/3/1922, thõa thuận về Phần Lan và Liên Xô về bất khả xâm phạm biên giới đã được ký, thay cho hiệp ước hòa bình.

- Ngày 11/11/1930  Ở Phần Lan, luật chống cộng được thông qua.

- Từ năm 1938-1941, Hồng quân Liên Xô đã di chuyển một số lượng rất hạn chế các quân đoàn của mình về hướng Tây, tránh mọi tình huống dẫn đến việc gây nên những mâu thuẫn với Đức Quốc xã. Chính phủ Liên Xô dự toán cần thiết phải tranh thủ hòa bình để tổ chức lực lượng vũ trang cần kíp cho cuộc chiến với Đức. Từ năm 1934, Stalin đã nhận định việc chiến tranh với Đức khi lực lượng quốc xã thắng thế là chuyện tất yếu sẽ diễn ra.

- Sau các cuộc bạo loạn của các phần tử Phát xít ở Phần Lan trong thập niên 30, các xu thế phát xít ngày càng nổi trội ở Phần Lan. Mối quan hệ giữa Đức và Phần Lan ngày càng trở nên tốt đẹp. Quân đội Phần Lan được cung cấp một số lượng vũ khí của Đức quốc xã.

- Ngày 9/10/1939. Phần Lan bắt đầu chuyển quân sang biên giới Liên Xô và Phần Lan. Đồng thời, một chiến dịch kích động đang được phát triển trong nước để chiến tranh với Liên Xô lần 3.

- Ngày 11/10/1939, Ở Phần Lan việc tổng động viên nhập ngũ từ độ tuổi 15-33 đã ngừng. Báo chí kêu gọi nhân dân chống lại Liên Xô, các hoạt động chuẩn bị để di tản dân chúng từ các vùng phía đông của Phần Lan và Helsinki về phía tây và tây bắc đang được thực hiện.

- Một phái đoàn Phần Lan đến Moscow để thảo luận giữa quan hệ Liên Xô và Phần Lan. Thay vì Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, đứng đầu phái đoàn Phần Lan chỉ là Đại sứ Phần Lan tại Thụy Điển, Yu.K. Paasikivi . Phái đoàn Liên Xô gồm có Stalin, Molotov, Potemkin.

- Ngày 13/10/1939, Liên Xô đề xuất hiệp ước tương trợ để củng cố mối quan hệ, Phần Lan từ chối. Liên Xô đề nghị chuyển nhượng lãnh thổ lẫn nhau giữa Liên Xô và Phần Lan, nhưng đã bị từ chối.

- Ngày 15/10/1939, một phần 3 dân số trong Vịnh Phần Lan nằm trên lãnh thổ Phần Lan đã di tản. Chính phủ Phần Lan thực hiện.

- Từ ngày 16-22/10/1939, quân đội Phần Lan tập trung một số lượng lớn quân đội về Vịnh Phần Lan. Các nhóm trinh sát của Hồng quân đã xác nhận việc tập kết lực lượng quân sự này, tuy nhiên vẫn chưa xem xét đây là hành động gây chiến.

- Ngày 23/10/1939, Phái đoàn Phần Lan đến Moskva, và có thái độ cứng rắn với vấn đề biên giới và việc Liên Xô thuê cảng Hanko. Phần Lan từ chối. (Liên Xô đề nghị chuyển hơn 5000km2 lãnh thổ cho Phần Lan đổi lại Phần Lan trao khoảng 2300km2 khu vực Vịnh Phần Lan để mở rộng vành đai bảo vệ Leningrad).

- Cuối tháng 10/1939, Phần Lan tiến hành thao diễn sát biên giới Liên Xô, một hành động đầy khiêu khích.

- Ngày 1/11/1939, Phái đoàn Phần Lan đến Moskva lần 3, và đang xem xét lại các đề nghị của chính phủ Liên Xô trước đó.

- Ngày 7/11/1939, trưởng đoàn Phần Lan Eero Erkko, do nhận được chỉ thị không đồng ý của Tổng thống Phần Lan, đã tuyên bố giáng đoạn việc ký kết giữa Liên Xô và Phần Lan.

- Trong tháng 11/1939, Phần Lan ráo riết chuẩn bị lực lượng quân sự. Bộ trưởng Ngoại giao Phần Lan -  tuyên bố rằng : "chiến tranh có lợi cho chúng ta hơn là đáp ứng các yêu cầu của Nga " - ( A. Shirokorad, chuyên gia quân sự, trích tài liệu Ba cuộc chiến tranh của "Phần Lan vĩ đại" - M .: "Вече", 2007, trang 66)

- 15h45p ngày 26/11/1939, Phần Lan pháo kích vào khu vực thị trấn Maynili (Майниллы). Chính phủ Xô viết tuyên bố yêu cầu Phần Lan rút quân khỏi khu vực biên giới 20-25km.

- 27/11/1939, Phần Lan yêu cầu ngược lại, quân đội Xô viết phải rút khỏi 25km trên tuyến biên giới, đó các trung đoàn được điều động đến sau sự tập kết lực lượng quân sự của Phần Lan sát biên giới. Thực tế việc rút 25km khỏi biên giới nghĩa là Leningrad bị bỏ trống không có lực lượng quân sự phòng thủ, điều kiện đó của Phần Lan là vô lý.

- 28/11/1939, chính phủ Xô viết tuyên bố tố cáo Phần Lan vi phạm hiệp ước về biên giới, gây hấn và khiêu khích chiến tranh.

- Ngày 29/11/1939, phái viên ngoại giao Phần Lan tại Moskva đã tuyên bố, ngoại giao giữa Phần Lan và Liên Xô chấm dứt. Phần Lan đơn phương xé bỏ quan hệ ngoại giao.

- Ngày 30/11/ 1939, Tổng thống Phần Lan- K. Callio tuyên chiến với Liên Xô. Với sự chuẩn bị trước và nhờ những thông tin trinh sát từ mặt trận về, Hồng quân đã có chuẩn bị sẵn sàng cho việc đáp trả các hành động khiêu khích. Cùng ngày với lời tuyên bố của Tổng thống Phần Lan, sau đó Hồng quân Liên Xô đã vượt biên giới tiến công vào lãnh thổ Phần Lan.

- Trong thời kỳ chiến tranh này, các trinh sát của Hồng quân đã được nhận nhiệm vụ phá hủy âu tầu Saimen, thực chất nó là một con đập để ngăn dòng nước, nếu phá hủy thành công thì dòng nước sẽ đổ về phía bên phải (từ bắc xuống) tức là chiến tuyến của Phần Lan. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, trinh sát Hồng Quân đã phát hiện ra rằng Phần Lan đã cho xây dựng bức tường đập thứ hai ngăn phía bên phải sông, và chính Phần Lan cũng đã tính toán rằng họ sẽ cho nổ tung âu tàu để dồn hướng ngược lại sang các đơn vị Hồng quân Xô viết ở mạn trái (hướng từ bắc xuống), sẽ dìm toàn bộ lực lượng Hồng quân ở Vịnh Phần Lan trong bể nước. Trinh sát Hồng quân đã hoàn thành nhiệm vụ phá hủy con đập thứ hai và ngăn chặn được cả nổ âu tàu. Kế hoạch của quân Phần Lan đã thất bại.

Việc xây dựng con đập thứ 2 cho thấy Phần Lan đã chuẩn bị điều kiện chiến tranh với Liên Xô, con đập này được xây dựng trong thời gian ngắn, trước đó tình báo Xô viết không nhìn thấy con đập này.

- Chiến tranh kết thúc, Phần Lan buộc phải nhượng bộ theo các điều khoản mà Liên Xô đề xuất trước chiến tranh. Phần Lan trao cho Liên Xô lãnh thổ khu vực Old Phần Lan cũ, kế hoạch này tương đồng với kế hoạch mà Nga Xô viết dự định ký tiếp với Chính phủ Xã hội Chủ nghĩa Phần Lan vào năm 1918, tuy nhiên chính phủ này nhanh chóng thất bại trong Nội chiến do sức mạnh từ liên quân Đức - Phần Lan.

- Tháng 3/1940, Các trinh sát của Hồng quân phát hiện trên một hòn đảo nằm trong hồ Lagoda, vị trí phía bên trái của hồ, nằm gần biên giới Liên Xô - Phần Lan có một trường tình báo quân sự của Đức quốc xã, tuyển mộ các thành phần dân tộc Baltic (Estonia, Latvia,..), Đức, và lính Nga bị bắt trong Chiến tranh mùa Đông 1940 Xô - Phần Lan.

- 19/12/1940, Một hiệp định kỹ thuật Phần Lan-Đức đã được ký kết, cung cấp cho việc vận chuyển thiết bị của Đức, bệnh nhân và quân lính từ các đơn vị Đức tại Na Uy ngang qua Phần Lan.

- Ngày 20/5/1941. Tổng thống Phần Lan nhận được đại diện của Hitler, Bộ trưởng Schnurre, ông ta nói rằng không loại trừ xung đột quân sự giữa Liên Xô và Đức sắp diễn ra trong tương lai.

- Ngày 9/6/1941, Tổng tư lệnh Lục quân Phần Lan đã ra lệnh huy động một phần quân đội Phần Lan, các lực lượng dự bị nhanh chóng được thành lập.

- Ngày 17/6/1941, Tổng tư lệnh Lục quân Phần Lan ra lệnh huy động toàn quân.

- Ngày 21/6/1941, Lãnh đạo quân sự của Phần Lan đã nhận được thông tin về Đức chuẩn bị xâm lược Liên Xô 22/6/1941.

- Ngày 22/6/1941, Trong bài phát biểu của mình, Hitler có nói, Đức và Phần Lan sẽ cùng sát cánh bên nhau bảo vệ lãnh thổ Phần Lan.

- Ngày 23/6/1941, Molotov triệu tập đại sứ Phần Lan, yêu cầu giải trình việc Phần Lan ném bom vào cảng Hanko và Leningrad.

- Ngày 25/6/1941, Phần Lan đơn phương tuyên chiến, chiến tranh Xô - Phần Lan lần 4 bắt đầu.

D. Tổng kết .

1) Vì sao Liên Xô muốn khôi phục chủ quyền ở vùng Old Phần Lan.

Đây là việc kế thừa các nhiệm vụ lịch sử của nước Nga từ xưa, bảo vệ Thành phố Leningrad (thủ đô của cách mạng). 

- Năm 1809, việc Nga hoàng trao Old Phần Lan cho Công quốc Phần Lan là vì biên giới của Nga đã bao trùm toàn bộ lãnh thổ Phần Lan và ngoại vi xung quanh thủ đô Saint Peterbug (Leningrad sau này). Còn ngay trong thời điểm đầu thế kỷ XX, từ khi Phần Lan được độc lập -1918. Thủ đô Petrograd (Leningrad sau này) chỉ cách biên giới Phần Lan khoảng 25km, tức là hoàn toàn nằm trong tầm bắn của pháo binh và không lực. Vì thế nước Nga Xô viết muốn thông qua đàm phán với chính phủ Công nông Phần Lan để khôi phục lại vùng lãnh thổ này, tuy nhiên sự thất bại của Phần Lan đỏ đã dẫn đến việc chưa thực hiện xong.

- Từ thập niên 2x-3x, mặc dù nghi ngại nhưng Liên Xô cũng không đánh giá cao việc Phần Lan có khả năng chiếm được Leningrad. Ngược lại công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô cho Phần Lan thấy, họ không còn khả năng tấn công Liên Xô nếu không có cường quốc hỗ trợ.

Đến thời điểm năm 1939, sự gia tăng quân sự của Đức đã dẫn đến việc nghi ngại chiến tranh Xô - Đức diễn ra, các nhà lãnh đạo Xô viết đã tiến hành các biện pháp thõa thuận hòa bình để nâng tầm phòng thủ Leningrad thêm khoản 70km nữa, đảm bảo vùng biên giới an toàn trước các đợt tấn công của quân Đức. Và không loại trừ Phần Lan sẽ đứng vào thành phần quân Đức để tiến công Liên Xô.

- Liên Xô hoàn toàn có thể nghi ngại việc Phần Lan sẽ đứng về phe trục tấn công Liên Xô, trước hết không chỉ dựa vào những thông tin về tình hình thay đổi chính trị ở Phần Lan trong thập niên 30 - khi chủ nghĩa phát xít lên ngôi, mà ngoài ra Liên Xô còn hiểu rõ dã tâm của chủ nghĩa dân tộc Phần Lan, những kẻ luôn nung nấu ý định chiếm vùng lãnh thổ phía Bắc của Nga bất chấp việc hết dựa vào Đức (ww1) và dựa vào Anh- Pháp (1921-1922) - nên nhớ trong thời điểm cuối ww1, quân Anh cũng đổ bộ lên Karelia và chiến đấu chống quân Đức - Phần Lan, nhưng sau khi người Đức thua, Anh- Pháp ủng hộ Phần Lan chiếm Karelia của Nga.

2) Phần Lan là kẻ hiếu chiến, chứ ko phải là nạn nhân của chủ nghĩa dân tộc Đại Nga.

- Trong bốn cuộc chiến tranh Phần Lan- Nga Xô viết, thì Phần Lan đơn phương 4 lần tuyên chiến trước đối với nước Nga, thậm chí hiệp ước hòa bình vừa ký kết chưa đầy 2 năm thì tiếp tục xâm lược vào lãnh thổ Nga.

- Phần Lan còn bỉ ổi hơn trong việc đứng hoàn toàn về phe phát xít để phát động cuộc chiến tranh chống Liên Xô, nhiều kẻ cho rằng đây là điều hiển nhiên để chống lại cái gọi là "xâm lược" từ Liên Xô, tuy nhiên thế lại càng cho thấy bỉ ổi hơn.

3) Chiến thắng của những kẻ "quân tử".

Liên Bang Xô viết, sau khi chiến thắng Phần Lan trong Chiến tranh mùa Đông đã có quyền ưu tiên sử dụng thắng lợi đó để ép Phần Lan trên mặt trận ngoại giao và hoàn toàn có quyền tước toàn bộ đất đai kể cả vùng mà Nga Xô viết chuyển giao cho Phần Lan công nông, hoặc thậm chí chỉ nhận thêm đất chứ ko còn là trao đổi.

Tuy nhiên, Liên Bang Xô viết đã không hành xử "côn đồ" như bọn Phần Lan xâm lược nước Nga hồi 1918-1922, Liên Xô không tước đoạt một cách trắng trợn, không chiếm đóng một cách bạo ngược như những gì Phần Lan làm ở nước Nga, không làm như những gì bọn phát xít muốn xâm lược nước Nga vào năm 1941. Trong biên bản ghi nhớ phân định biên giới (tài liệu hợp pháp duy nhất để xác lập chủ quyền - thụ đắc lãnh thổ bằng hình thức chuyển nhượng) giữa Phần Lan và Liên Xô có quy định:

- Phần Lan chuyển giao cho Liên Xô một số đảo, eo Karelia (old Phần Lan) với tổng diện tích là 2,761 km2.

- Liên Xô bồi thường cho Phần Lan: tiếp tục công nhận phần lãnh thổ mà Nga Xô viết chuyển giao cho Phần Lan trước đó, chuyển giao thêm 1 ít phần đất ở Đông Karelia cho Phần Lan (cái mà Phần Lan âm mưu chiếm đoạt free từ năm 1918) với tổng diện tích (phần cho thêm 1940) là 5,529 km2.

- Liên Xô không tước đoạt mà xin thuê cảng Hanko trong 30 năm và trả phí đầy đủ.

- Cấp quyền neo đậu tàu hải quân ở  Vịnh Lappvik.

Trong lịch sử ngành ngoại giao quan hệ quốc tế, chưa từng thấy một hiệp ước chuyển nhượng lãnh thổ nào mà được tiến hành một cách sòng phẳng của một phe thắng trận trong chiến tranh giữa 2 quốc gia. Những yêu cầu của Liên Bang Xô viết là dựa trên những tinh thần cầu thị ngoại giao mà Liên Xô đề nghị trước đó với Phần Lan chứ ko phải là tư cách của người thắng trận, điều đó làm thay đổi tính chất của cuộc chiến Phần Lan - Liên Xô vào năm 1940.

#Gấu