CHẾ ĐỘ KINH TẾ DÂN CHỦ NHÂN DÂN VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Tại Đại hội II của Đảng Lao động Việt Nam, chủ trương, chính sách về xây dựng nền kinh tế dân chủ nhân dân trong thời kỳ đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ đã được Đảng ta đề ra. Căn cứ trên Báo cáo chính trị tại Đại hội II của Hồ Chủ tịch, các văn kiện Luận cương cách mạng Việt Nam, Bàn về chính quyền dân chủ nhân dân, Báo cáo tài chính, … đã được xây dựng. Nổi bật nhất đó là Luận cương cách mạng Việt Nam của đồng chí Tổng bí thư Trường Chinh.
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Hồ Chủ tịch đã căn cứ trên những đặc điểm của nước ta là một nền kinh tế nông nghiệp, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội không thể tiến lên một cách mau lẹ, nhanh chóng, mà phải từng bước, trãi qua nhiều nấc thang để phát triển. Do đó, mô hình kinh tế NEP do Lê-nin khởi xướng và được áp dụng ở Liên Xô từ năm 1921 cho đến năm 1937 là kiểu mẫu để thực hiện. Và chế độ kinh tế dân chủ nhân dân thực chất là nền kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đã được Đảng ta thông qua tại Đại hội II của Đảng.
Đồng chí Trường Chinh khẳng định: “Kinh tế dân chủ nhân dân là kinh tế của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế dân chủ nhân dân Việt Nam gồm có những bộ phận như sau: Kinh tế Nhà nước gồm những xí nghiệp do Nhà nước kinh doanh; bộ phận hợp tác xã gồm những tổ chức inh tế do hợp tác xã kinh doanh; bộ phận kinh tế nhỏ tức kinh tế của nông dân, tiểu thương tiểu chủ; bộ phận kinh tế tư bản tư nhân gồm những xí nghiệp của tư sản dân tộc. Ngoài ra, còn bộ phận tư bản Nhà nước gồm những xí nghiệp do tư bản tư nhân cùng chung vốn với Nhà nước kinh doanh, hoặc các xí nghiệp và tài nguyên của Nhà nước nhượng cho tư nhân kinh doanh có điều kiện.
Kinh tế Nhà nước và kinh tế hợp tác xã hợp thành bộ phận xã hội hóa và đóng vai trò quyết định trong nền kinh tế quốc gia” (1).
Báo cáo còn nhấn mạnh: “Vì trình độ phát triển kinh tế nước ta còn thấp, nên thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội không thể ngắn. Kinh tế tư nhân nước ta còn tồn tại và phát triển trong một thời gian lâu dài” (2)
Sau này trong tác phẩm Thường thức chính trị, Hồ Chủ tịch đã bổ sung và khái quát hóa chính sách kinh tế dân chủ nhân dân:
“1. Công tư đều lợi. Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền kinh tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó…
Tư là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà. Cho nên chính phủ cần giúp họ phát triển…
2. Chủ thợ đều lợi. Nhà tư bản thì không khỏi bóc lột. Nhưng chính phủ ngăn cấm họ bóc lột công nhân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi công nhân. Đồng thời vì lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng đủ để cho chủ được số lợi hợp lý, không yêu cầu quá mức.
Chủ và thợ đều tự giác tự động, tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên.
3. Công nông giúp nhau. Công nhân ra sức sản xuất nông cụ và các thứ cần dùng khác, để cung cấp cho nông dân. Nông dân thì ra sức tăng gia sản xuất, để cung cấp lương thực và các nguyên liệu cho công nhân…
4. Lưu thông trong ngoài. Ta ra sức khai lâm thổ sản để bán cho nước bạn và để mua những thứ ta cần dùng. Các nước bạn mua những thứ ta đưa ra và bán cho ta những hàng hóa ta chưa chế tạo được. Đó là chính sách mậu dịch, giúp đỡ lẫn nhau rất có lợi cho kinh tế ta.
Bốn chính sách ấy là mấu chốt để phát triển kinh tế nước ta” (3).
Chính sách chủ trương kinh tế dân chủ nhân dân thực chất là nền kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước. Chính sách kinh tế dân chủ nhân dân đã tỏ ra những phát huy hiệu quả trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp, tăng gia sản xuất, giúp việc động viên sức người sức của cho mặt trận ngày càng tốt hơn.
Khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, Đảng tiếp tục vận dụng kinh tế dân chủ nhân dân để hàn gắn những vết thương chiến tranh do sự tàn phá nặng nề của chiến tranh và của bọn xâm lược Pháp. Trong khoảng 3 năm (1955-1957), nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đã chứng tỏ những ưu điểm của nó, sức sản xuất đạt và cao hơn năm 1939, đỉnh cao của thời thuộc địa (về mặt kinh tế). Khôi phục 29 xí nghiệp và xây dựng 55 xí nghiệp mới. Hệ thống giao thông được phục hồi và phát triển. Kinh tế quốc doanh nắm phần lớn các ngành sản xuất và then chốt.
Tuy nhiên, tình hình miền Nam sau 1954 càng trở nên vô cùng phức tạp khi đế quốc Mỹ phá hoại cuộc tổng tuyển cử Geneva và can thiệp ngày càng mạnh mẽ vào miền Nam. Sự đàn áp các lực lượng cách mạng của Diệm ngày càng thảm khốc. Tình hình đó thúc giục Đảng Lao động và nhân dân miền Bắc buộc phải khẩn trương lao động để tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội, để trở thành hậu phương vững chắc cho cách mạng miền Nam. Cho nên từ tháng 1 năm 1956, Bộ Chính trị đã chuẩn bị văn kiện Mấy vấn đề về đường lối cách mạng Việt Nam. Trong đó, đối với miền Bắc đã định hình về đường lối thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong đó nhấn mạnh nhiệm vụ phải hoàn thành cải cách ruộng đất, tiến hành xây dựng kinh tế quốc doanh và tập thể, cải tạo kinh tế theo hướng chủ nghĩa xã hội.
Đồng thời bên cạnh đó, tình hình quốc tế, tình hình phong trào công nhân vô cùng phức tạp. Nhất là khi phe xã hội chủ nghĩa có dấu hiệu rạn nứt, bất đồng. Đặc biệt Hội nghị đại biểu các đảng cộng sản và công nhân họp tháng 11/1957 tại Mát-xcơ-va, giới cầm quyền Liên Xô đứng đầu là Khơ-ru-sốp đã áp đặt 9 quy luật về cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong đó nhấn mạnh đến việc có thể rút gọn tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở các nước chậm phát triển.
Nhận thấy rằng có thể nhờ vào sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa để có thể tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, tháng 12 năm 1957, Hội nghị TW thứ 13 của Đảng ta đã khẳng định “sau khi cơ bản hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Bắc, phải lập tức tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa”. Đến Hội nghị lần thứ 14 Ban chấp hành Trung ương Đảng 11/1958 đã quyết định tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế cá thể, thợ thủ công, tiểu thương, kinh tế tư bản tư doanh, từng bước xóa bỏ kinh tế nhiều thành phần. Chuyển đổi sự quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ hình thức gián tiếp theo chính sách kinh tế mới của Lê-nin (NEP) sang hình thức quá độ nửa trực tiếp phụ thuộc vào sự giúp đỡ của các nước Xã hội chủ nghĩa mà tiến lên với tốc độ cao bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa.
Tại Hội nghị lần thứ 15 BCH TW khóa II năm 1959 và tại Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Lao động Việt Nam lần thứ III vào năm 1960, Đảng ta đã từng bước kiện toàn tư duy chiến lược mới về con đường đi quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Về mặt phương hướng, Đảng ta xác định phương hướng căn bản là hình thức quá độ nửa trực tiếp, có thể “vượt qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội” (4).
Đường lối này trong thực tiễn lịch sử đã chứng tỏ những vấn đề bất cập của nó:
+ thứ nhất, Đảng ta có phần vội vã trong việc đưa miền Bắc bước vào con đường quá độ trực tiếp với lý do là muốn mau chóng đưa miền Bắc tiến lên Chủ nghĩa xã hội để trở thành hậu phương lớn cho miền Nam; Đồng thời nguyên nhân cũng có thể do sự “áp đặt” từ Hội nghị quốc tế Mát-xcơ-va 1957 khi Khrushchev đã nêu ra những “tiêu chuẩn” để có thể đứng vào hàng ngũ các nước xã hội chủ nghĩa.
+ thứ hai, chính nhờ mối quan hệ ngày càng gắn chặt hơn giữa các nước xã hội chủ nghĩa và các nước dân chủ nhân dân đối với Việt Nam, cho nên Đảng ta cũng từng bước nhận thức những thuận lợi của con đường quá độ nửa trực tiếp, có thể thông qua sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa mà thu hẹp được thời gian xây dựng những cơ sở vật chất – xã hội, có thể đẩy nhanh quá trình miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc trên con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, thậm chí có thể cho rằng sẽ khắc phục được những thiếu sót, khó khăn của tình hình kinh tế xã hội nước ta.
Tuy nhiên, nhược điểm của hình thức quá độ nửa trực tiếp này là xu hướng tả tăng nhanh trong Đảng, hình thức tổ chức và quản lý của Nhà nước nhanh chóng được cải tiến theo hình thức tăng dần quan hệ sản xuất – vượt trước cả lực lượng sản xuất, phụ thuộc rất lớn vào nguồn cung cấp từ khối các nước xã hội chủ nghĩa. Nếu như các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng kinh tế hoặc không đủ điều kiện hỗ trợ Việt Nam tiếp tục thực hiện con đường quá độ nửa trực tiếp, thì vô hình chung sẽ phá nát toàn bộ cơ cấu kinh tế xã hội của nước ta vì đang đương tiến hành tổ chức theo lối kinh tế kế hoạch hóa trình độ cao.
Sau khi hoàn thành cuộc Tổng tiến công và giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất Tổ quốc. Đáng lẽ, Đảng ta phải tiến hành một cuộc tổng kết các kinh nghiệm của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Nhưng đã không có cuộc tổng kết nào cả, mặc dù trong thực tế, khi đưa miền Bắc tiến lên Chủ nghĩa xã hội đã gặp phải nhiều nhiều khó khăn, bất cập, nhiều nơi sản xuất không tương xứng với nguồn vốn bỏ ra, và không đáp ứng được các chỉ tiêu kế hoạch. Nguyên nhân góp phần quan trọng đó là nguồn viện trợ, nguồn cung ứng nguyên vật liệu, máy móc kỹ thuật giảm mạnh sau khi Trung Quốc giảm dần viện trợ và hợp tác với ta từ năm đầu năm 1970 và đến năm 1974 gần như chấm dứt. Điều đó phá vỡ nghiêm trọng các công tác kế hoạch kinh tế của nước ta.
Nước ta tiến nhanh tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội bắt nguồn từ nguyên nhân muốn biến miền Bắc trở thành hậu phương lớn cho chiến trường miền Nam. Song, sau năm 1975, đây không còn là nguyên nhân nữa, việc có thể quay trở lại hình thức quá độ gián tiếp theo lối kinh tế NEP của Lenin đã có thể làm, nhưng do sự chủ quan, nóng vội, duy ý chí đã tiếp tục thực hiện đưa cả nước tiến lên Chủ nghĩa xã hội theo con đường nửa trực tiếp nhờ vào khối các nước Xã hội chủ nghĩa.
Hội nghị lần thứ 24 của BCHTW Đảng Lao động Việt Nam về nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới đã thông qua Nghị quyết số 247-NQ/TW, ngày 29/9/1975. Nghị quyết đã xác định phương hướng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong toàn quốc tiếp tục là hình thức nửa trực tiếp, Đảng ta tiếp tục xác định: “Cả nước đang ở trong quá trình tổ chức lại nền sản xuất xã hội, từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa vượt qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” (5). Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam (1976) đã tiếp tục khẳng định lại những nội dung căn bản của Hội nghị lần thứ 24 BCHTW khóa III.
Việc Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào tình trạng sản xuất ngày càng kém do quan hệ sản xuất "Xã hội chủ nghĩa phát triển" (cao hơn cả CNXH) ngày càng tỏ ra không tương thích với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đã kìm hãm và khiến Liên Xô rơi vào thời kỳ trì trệ, điều đó cũng ảnh hưởng rất lớn đối với chế độ kinh tế của Việt Nam vốn phụ thuộc rất nhiều vào các mặt hàng công nghiệp và khoa học của Liên Xô, do đó kéo theo tình cảnh là nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế kéo dài.
Mãi tới thời kỳ Đổi mới, Đảng ta mới từng bước tháo gỡ những tư duy chủ quan, giáo điều, duy ý chí đó, thực hiện mô hình kinh tế đa thành phần, đa chế độ sở hữu, vận hành theo lối thị trường, quay lại những tư duy chiến về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta đã từng đề cập đến từ hồi Đại hội II (1951).
#Gấu
1. ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, HN, 2001, tr.106
2. ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, HN, 2001, tr.108.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 2000, t.7, tr.221-222.
4. Văn kiện Đại hội đảng, Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III, báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, ngày 20-4-2018
5. Văn kiện Hội nghị BCHTW Đảng, Nghị quyết số 247-NQ/TW, ngày 29/9/1975 Hội nghị lần thứ 24 BCHTW Đảng Lao động Việt Nam về nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, ngày 16/6/2018.
