VÕ NGUYÊN GIÁP VÀ VẤN ĐỀ THI ĐUA HÒA BÌNH
I. Bản chất của
“Thi đua hòa bình” kiểu Khrushchev là gì?
Thực chất, các cuộc tranh cãi xung quanh chủ nghĩa
Khrushchevism không phải là vấn đề “Thi đua hòa bình”, mà là vấn đề thuyết
“Chung sống hòa bình” theo kiểu Khrushchev – một sự lệch lạc đối với thuyết
“Chung sống hòa bình” của Lenin.
Nói một cách rõ ràng, “Thi đua hòa bình” theo kiểu
Khrushchev chỉ là vấn đề phụ phát sinh từ lý thuyết “Chung sống hòa bình” mới
do Nikita Khrushchev đề xuất từ Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô, chúng ta
cần phân biệt rõ rệt thuyết đó với thuyết “Chung sống hòa bình” của Lenin. Và
chỉ có tán thành với chủ thuyết “Chung sống hòa bình” theo kiểu Khrushchev thì
mới tán đồng “Thi đua hòa bình” theo kiểu Khrushchev. Vì thế, muốn xem một ai
đó có phải là Khrushchevist không thì phải xem xét họ có tán thành “Chung sống
hòa bình” theo kiểu Khrushchev không? Chính vì thế, trước hết phải hiểu cái
thuyết “Chung sống hòa bình” của Khrushchev là gì, và liệu người đó có “học” và
“vận dụng” chủ thuyết đó hay không?
“Chung sống hòa bình” - không phải là thuyết do Khrushchev
sáng tạo ra, mà Lenin là người đầu tiên đề cập đến.
Vấn đề Chung sống hòa bình và thi đua kinh tế giữa chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đã được Lenin – Stalin nêu ra về mặt lý luận.
Vấn đề đó xuất phát từ chỗ cách mạng xã hội chủ nghĩa không thể thắng lợi cùng
một lúc trong tất cả các nước trên thế giới. Cho nên, trong một thời gian tương
đối, một nước hay một số nước xã hội chủ nghĩa sẽ phát triển trong vòng vây hoặc
bên cạnh các nước tư bản chủ nghĩa. Sự tồn tại giữa hai hệ thống chính trị khác
nhau, trong điều kiện nhà nước xã hội chủ nghĩa còn chưa đủ tiềm lực để thủ
tiêu chủ nghĩa đế quốc trên phạm vi thế giới, tất nhiên sẽ dẫn đến sự chung sống
hòa bình. Vấn đề thi đua kinh tế là vấn đề phụ - ngay cả không chung sống hòa
bình thì thi đua kinh tế vẫn xảy ra - , vì lẽ tất yếu, muốn chứng minh chủ
nghĩa xã hội là một phương thức sản xuất ưu việt hơn, cho nên không thể tránh
khỏi việc lấy những tiêu chuẩn của phương Tây làm thước đo để vượt qua và đề ra
những hình thức cổ vũ phát triển kinh tế, thi đua là một trong những hình thức
cụ thể đó. Tất nhiên, vì là “sản phẩm” của thuyết “Chung sống hòa bình” thì
ngay từ thời của Lenin, hạt giống của sự thi đua hòa bình đã được gieo mầm và nảy
nở trong những kế hoạch vĩ đại kim khí hóa toàn nước Nga rộng lớn trong những
năm 20-30 của thế kỷ XX. Thuật ngữ “Thi đua hòa bình” chỉ đơn giản là đến thời
Khrushchev mới được đặt một cái tên.
Do
đó, muốn nhìn nhận đúng có phải là Khrushchevist thì phải nhìn nhận người đó có
theo thuyết “Chung sống hòa bình” theo kiểu Khrushchev chứ không phải vấn đề
“thi đua hòa bình”.
-
Quan điểm của Khrushchevism về “Chung sống
hòa bình”:
1) Khrushchev tin rằng “chung sống hòa bình” là nguyên
tắc cao nhất để giải quyết các vấn đề thời đại.
Lập
luận rằng: “cùng tồn tại hòa bình, đó là con đường tốt nhất và duy nhất có
thể chấp nhận được để giải quyết các vấn đề quan trọng của xã hội” (A.
Rumyantsev, Vũ khí tư tưởng của Chúng tôi, Tạp chí Các vấn đề về hòa bình và chủ
nghĩa xã hội, 1962, số 1); rằng nguyên tắc chung sống hòa bình đã trở thành một
“quy luật cơ bản của xã hội hiện đại” (Khrushchev, Bài phát biểu tại Hội
đồng Liên Hợp Quốc, 23/9/1960).
2) Krushchev tin rằng chủ nghĩa đế quốc đã sẵn sàng
cùng tồn tại hòa bình và không âm mưu phá hoại các nước xã hội chủ nghĩa.
Viện
dẫn rằng nhiều chính khách phương Tây là những người ủng hộ hòa bình và thể hiện
nhu cầu chung sống hòa bình. Khrushchev đã từng ca ngợi Eisenhower và Kenedy là
những chiến sĩ đấu tranh cho hòa bình. Nhưng thực tế, họ có tôn trọng hòa bình
không? Hoàn toàn không, Tổng thống Kenedy đã đặt điều kiện cho Khrushchev muốn
giữ hòa bình thì phải từ bỏ Đông Âu, Đông Đức, Cuba và không can thiệp vào các
phong trào giải phóng dân tộc và cách mạng (Kenedy phát biểu tại Hội đồng Liên
Hợp quốc 1963). Và kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai cho đến cho đến giữa
thập niên 6x thế kỷ XX, chủ nghĩa đế quốc Mỹ vẫn không ngừng tấn công chủ nghĩa
xã hội và các trào lưu giải phóng dân tộc.
3) Khrushchev tin rằng có thể hợp tác toàn diện với
các nước đế quốc chủ nghĩa (trong điều kiện hình thành 2 hệ thống kinh tế trên
phạm vi toàn cầu), đặc biệt là nước Mỹ.
Giữa
Liên Xô và Mỹ “có thể tìm thấy một cơ sở cho một hành động chung vì lợi ích
của toàn thể nhân loại” (Thư Khrushchev gửi J. Kenedy 30/6/1961).
Khrushchev còn nói: “Chúng ta (hai nước Liên Xô và Mỹ) đều là những nước lớn
mạnh nhất thế giới, nếu chúng ta liên hợp vì hòa bình thì không thể xảy ra chiến
tranh được. Khi đó, nếu có kẻ điên cuồng nào muốn gây chiến tranh, chúng ta chỉ
cần trỏ ngón tay ra dọa, cũng đủ buộc nó im lặng” (Hai đường lối trong vấn
đề chiến tranh và hòa bình, Nxb ngoại văn, Bắc kinh).
4) Khrushchev tuyên bố chung sống hòa bình là “đường
lối chung của chính sách đối ngoại của Liên Xô và tất cả các nước xã hội chủ
nghĩa” (Khrushchev, Bài phát biểu tại Đại sứ quán Đông Đức ở Liên Xô,
ngày 5/7/1961). – Tức là áp đặt đó là chuẩn chung cho các nước Xã hội chủ
nghĩa.
5) Khrushchev tuyên bố chung sống hòa bình là “đường
lối chung của Đảng Cộng sản Liên Xô và các Đảng marxist – leninist”
(B.N. Ponomarev, Một số câu hỏi về phong trào cách mạng, Tạp chí Về các vấn đề
hòa bình và chủ nghĩa xã hội, 1962, số 12) – Tức là áp đặt chung cho các Đảng cộng
sản.
6) Khrushchev tin rằng chung sống hòa bình là điều kiện
quyết định cho chiến thắng của cuộc đấu tranh cách mạng của các dân tộc trong
phạm vi thế giới.
Khrushchev
viện dẫn Cuba và Algeria, Hungary là các điển hình của cách mạng hòa bình đi
lên chủ nghĩa xã hội, đấy là một sự xuyên tạc. Ví dụ trường hợp Hungary, Bela
Kun từng viết: “Từ khi thành lập Đảng Cộng sản cho đến khi cướp chính quyền,
sự xung đột vũ trang với bộ máy chính quyền tư sản vẫn diễn ra và ngày càng nhiều.
Bắt đầu từ ngày 12 tháng 12 năm 1918, bộ đội bảo vệ Budapest cầm vũ khí xuống
đường biểu tình để phản đối bộ trưởng lục quân của chính phủ lâm thời … hầu như
không một ngày nào trên báo không đăng tin về cuộc xung đột đổ máu giữa binh sĩ
cách mạng và công nhân với lực lượng vũ trang của chính phủ, nhất là với cảnh
sát” (Bela Kun: Tạo sao cách mạng vô sản đã giành được thắng lợi ở
Hungari).
7) Khrushchev tin rằng chung sống hòa bình là “cách tốt
nhất để giúp cho phong trào cách mạng quốc tế đạt được mục tiêu giai cấp cơ bản”
(Thư ngỏ của UBTW Đảng CSLX gửi các tổ chức đảng, người cộng sản Liên Xô, ngày
14/7/1963), và điều đó dẫn đến khả năng quá độ hòa bình của các nước tư bản chủ
nghĩa sẽ được tăng lên.
- Những điểm trên có gì chung với chủ nghĩa Lenin?
1) Chính sách chung sống hòa bình của Lenin đơn thuần
là chính sách cá biệt của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với quốc gia theo hệ thống
xã hội khác.
Chính sách đối ngoại chủ
trương chung sống hòa bình của Lenin xuất phát từ về khả năng có thể chiến thắng
của chủ nghĩa xã hội trong phạm vi một quốc gia. Khi nói về cuộc cách mạng ở
Nga, Lenin đã chỉ ra rằng, có thể cách mạng xã hội chủ nghĩa không nổ ra trên
phạm vi thế giới, mà ngay thời điểm đầu tiên, nó có thể diễn ra tại mắc xích yếu
nhất trong chuỗi các nước tư bản đế quốc – đó là đế quốc Nga. Điều đó dẫn đến rằng,
một nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ tồn tại trong lòng hệ thống các nước tư bản chủ
nghĩa, mà nhà nước xã hội chủ nghĩa chưa có điều kiện để thúc đẩy chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi thế giới phát triển thì tất yếu phải tồn tại song song với hệ
thống tư bản chủ nghĩa trong một thời gian lâu dài. Mà mối quan hệ giữa Liên Xô
với các nước đế quốc chắc chắn phải là thù địch, tuy nhiên, để có thể chiến thắng
trong tương lai thì trước mắt phải chung sống hòa bình để TRANH THỦ
nền hòa bình đó mà xây dựng cơ sở và lực lượng.
Còn
Khrushchev lại xem chung sống hòa bình là nguyên tắc cao nhất của xã hội hiện đại
(ngay cả trong điều kiện tồn tại 2 hệ thống kinh tế đối lập).
2) Chính sách chung sống hòa bình của Lenin là một
khía cạnh của chính sách đối ngoại của giai cấp vô sản khi đã nắm chính quyền.
Nghĩa
là chỉ khi nào giai cấp vô sản đã nắm quyền lực Nhà nước trong tay mình, thì mới
sinh ra chính sách đối ngoại quốc tế này, nhưng còn phải tùy theo những điều kiện
cụ thể lịch sử mà Đảng đề ra chính sách hòa bình hay không.
Còn Khrushchev thì xây dựng chung sống hòa bình thành đường
lối chung của các nước xã hội chủ nghĩa, thành cương lĩnh chung của các Đảng Cộng
sản xuyên suốt và lâu dài bất kể điều kiện, hoàn cảnh lịch sử riêng biệt của mỗi
quốc gia.
3) Chính sách chung sống hòa bình của Lenin là nhằm
chống lại chính sách xâm lược và chiến tranh của chủ nghĩa đế quốc.
Lenin
nhắc nhở: “Chúng ta đấu tranh chống sự dối trá của các chính phủ, trên lời
nói thì tất cả đều nói về hòa bình, về công lý, nhưng trong việc làm lại tiến
hành chiến tranh xâm lược và cướp bóc” (Lenin toàn tập, tập 35, Nxb Tiến bộ,
Moskva, 1978, tr.18).
Còn Khrushchev thì xem các nước đế quốc chủ nghĩa đã sẵn
sàng cho việc chung sống hòa bình và tỏ vẻ yêu chuộng hòa bình rồi.
4) Chính sách chung sống hòa bình của Lenin xuất phát
từ mục tiêu đấu tranh giai cấp trên phạm vi toàn cầu.
Lenin từng nói: “Chúng
ta không tồn tại một cách đơn độc, mà là trong hệ thống các quốc gia, sự tồn tại
của Nhà nước Xô viết bên cạnh các nước tư bản đế quốc trong một thời gian dài
là điều không tưởng. Hoặc là chúng ta chiến thắng hoặc chủ nghĩa đế quốc giành
chiến thắng. Các cuộc xung đột giữa nước Cộng hòa Xô viết với chủ nghĩa đế quốc
chắc chắn là không thể tránh khỏi. Điều này có nghĩa là giai cấp vô sản muốn đứng
vững được, chỉ có thể bằng các tổ chức quân sự của chính mình” (Lenin toàn
tập, tập 24, Nga văn, tr.122).
Còn Khrushchev thì xem chung sống hòa bình là sự hợp tác
giai cấp trên phạm vi toàn cầu. Cuộc hợp tác này thể hiện thông qua con đường
nghị viện và cổ súy cho duy nhất một hình thức nghị viện đối với toàn thể phong
trào cách mạng.
5) Chính sách chung sống hòa bình của Lenin là để thực
hiện “sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản quốc tế”.
Nói
cho rõ, tức là dành thời gian hòa bình để xây dựng lực lượng để khi có thời cơ
sẽ xóa bỏ chủ nghĩa đế quốc ở ngoài phạm vi Liên Xô. Sau này Stalin đã giải thích kỹ hơn
luận điểm này: “…. Trì hoãn chiến tranh, thõa hiệp với các nhà tư bản và thực
hiện mọi biện pháp để duy trì quan hệ hòa bình. Chúng ta không quên những lời
Lenin nói về cuộc chiến không thể tránh khỏi với thế giới tư bản, nhưng cuộc
chiến ấy có thể được trì hoãn cho đến khi cuộc cách mạng vô sản ở châu Âu đã
chín muồi, hoặc các cuộc cách mạng ở thuộc địa đã chín muồi, hoặc do cuộc xung
đột giữa các nước đế quốc vì giành giật nhau thị trường thuộc địa. Do đó, duy
trì quan hệ hòa bình với các nước tư bản là một nhiệm vụ bắt buộc đối với chúng
ta” (Lenin và Stalin, sưu tầm, tập 3, Nga văn, tr.227). Điều này hoàn toàn
có thể thấy rõ rệt trong chính sách đối ngoại của Liên Xô và tư duy đối ngoại
hòa bình của Stalin trước Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau khi chiến tranh thế
giới thứ hai kết thúc, một sự thực là hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã ra
đời, việc thủ tiêu các chế độ tư bản chủ nghĩa và đế quốc chủ nghĩa tại các quốc
gia này cũng được thực hiện. Căn bản đó là sự vận dụng chính sách chung sống
hòa bình của Lenin.
Còn
Khrushchev thì quan trọng thái quá vấn đề vũ khí hạt nhân và tin rằng chiến
tranh sẽ không thể xảy ra nữa, xung đột sẽ không còn nữa.
=> Có thể thấy rất rõ, Chính sách “Chung sống hòa
bình” theo kiểu Khrushchev chẳng có gì chung với Chính sách “Chung sống hòa
bình” theo kiểu Lenin.
II. Những nội dung
căn bản của “Thi đua hòa bình” kiểu Võ Nguyên Giáp.
Một trong những cơ sở của những người bài xích tướng Giáp,
cho rằng tướng Giáp “Thi đua hòa bình” đó là bài báo “Đại tướng Lê Đức Anh viết
về nguyên Tổng bí thư Lê Duẩn” do Đại tá Khuất Biên Hòa chắp bút. Báo
Vietnamnet có đăng, tôi xin dẫn nguồn để các bạn tiện tham khảo: https://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/dai-tuong-le-duc-anh-viet-ve-nguoi-anh-le-duan-314397.html
Trong
bài viết, tác giả có viết Lê Đức Anh được Phạm Văn Xô thuật lại rằng khi ra bắc,
đã được cho thảo luận ở tổ để “quán triệt tinh thần Thi đua hòa bình – nội
dung cốt lõi và bao trùm nhất do nhóm anh Võ Nguyên Giáp soạn thảo. Tôi tin lời
anh kể, vì trước đó, ngày 5/6/1956, báo Nhân dân đã đăng (gần hết cả số báo)
bài “Thi đua hòa bình” của anh Võ Nguyên Giáp, trong đó có câu: “Người ta hỏi rằng,
có thể thống nhất đất nước bằng phương pháp hòa bình được không? Câu trả lời là
được! Và đó là con đường duy nhất đúng…” (Khuất Biên Hòa, Đại tướng Lê Đức
Anh viết về nguyên Tổng bí thư Lê Duẩn, báo Vietnamnet).
1)
Trước hết, phải nói rằng Võ Nguyên Giáp chưa từng viết bất cứ một bài báo nào,
một bài nói chuyện nào có nhan đề “Thi đua hòa bình”, và ngày 5/6/1956 báo Nhân
dân không có một bài đăng nào của Võ Nguyên Giáp về vấn đề thi đua hòa bình.
Hình ảnh bài viết có nội dung “Thi đua hòa bình” mà những người bài xích tướng
Giáp đăng tải là bài báo được báo Nhân dân đăng vào ngày 12/7/1956.
Nhan đề của bài viết có nội dung rất rõ ràng: “TỔ QUỐC VIỆT NAM CHÚNG TA
NHẤT ĐỊNH SẼ THỐNG NHẤT – bài nói chuyện của Phó Thủ tướng Võ Nguyên Giáp trong
cuộc mít tinh tại Hà Nội ngày 9/7/1956 hưởng ứng bức thư của Hồ Chủ tịch gửi đồng
bào cả nước về cuộc đấu tranh chính trị hiện nay”.
Như
vậy, thông tin mà tác giả Khuất Biên Hòa đăng tải đã có sự sai lệch về các sự
kiện và thời gian ngay lúc ban đầu. Hoàn toàn không có bài viết nào có nhan đề
“Thi đua hòa bình” vào ngày 5/6/1956.
2)
Trong bài viết “Tổ Quốc Việt Nam chúng ta nhất định sẽ thống nhất” của Võ
Nguyên Giáp bao gồm 2 Chương lớn, 12 mục nhỏ. Trong đó, 2/6 mục nhỏ trong
Chương I có liên quan đến thuyết hòa bình gồm: vấn đề “Thi đua hòa bình” được đề
cập với 1 mục nhỏ có nhan đề “Tổ Quốc ta sẽ thắng trong cuộc Thi đua hòa
bình giữa hai miền” với tổng cộng 11 dòng. Còn mục còn lại có nhan đề “Và
có khả năng thắng lợi bằng phương pháp hòa bình” khoảng 1,5 trang A4, để
trả lời 2 câu hỏi.
Trước
nhất, có thể nói đây là bài viết DUY NHẤT mà Võ
Nguyên Giáp đề cập đến vấn đề “Thi đua hòa bình” mà tôi check thấy được trong
cuốn Tổng tập về Võ Nguyên Giáp được PGS.TSKH Bùi Loan Thúy chủ biên, Nhà xuất
bản Văn hóa Sài Gòn, ấn bản 2009. Trong hàng chục bài khác từ phát biểu, tạp
chí, báo đều không nhắc đến cụm từ “Thi đua hòa bình”. Có thể thấy “Thi đua hòa
bình” ở đây không phải là vấn đề xuyên suốt trong tư duy.
Thứ
hai, nội dung của mục “Tổ Quốc ta sẽ thắng trong cuộc
Thi đua hòa bình giữa hai miền” là quá ngắn, không thể hiện đầy đủ tư
duy “Thi đua hòa bình”. Chỉ đúng 11 dòng. Có thể thấy “Thi đua hòa bình” ở đây
không phải là vấn đề được lý luận hóa.
Thứ
ba, mục “Và có khả năng thắng lợi bằng phương pháp
hòa bình” không phải là nội hàm của vấn đề “Thi đua hòa bình”, mà nó là
nội hàm của vấn đề “Chung sống hòa bình”,
“Tổ Quốc ta sẽ thắng trong cuộc Thi đua hòa bình giữa hai miền”
chỉ là một trong những hình thức của phương pháp hòa bình mà thôi (phương pháp
hòa bình có nhiều hình thức: bạo lực cách mạng của quần chúng, đấu tranh chính
trị, hiệp thương, nghị viện, thi đua sản xuấn, đấu tranh pháp luật … nhằm một mục
tiêu là thay đổi chế độ chính trị để thiết lập chế độ chính trị mới)
Như
vậy, “Thi đua hòa bình” của Võ Nguyên Giáp hoàn toàn không phải là hệ thống lý
luận hay tư tưởng, mà đơn thuần được đề cập đến là một trong nhưng hình thức của
phương pháp hòa bình. Do đó luận điểm mà tác giả Khuất Biên Hòa viết “quán
triệt tinh thần Thi đua hòa bình – nội dung cốt lõi và bao trùm nhất do nhóm
anh Võ Nguyên Giáp soạn thảo” là không chính xác. Vì:
-
Vốn dĩ không có thuyết “Thi đua hòa bình” nào tồn tại, vì căn bản thi đua kinh
tế là một hình thức của thuyết “Chung sống hòa bình”, do đó Thi đua hòa bình
không thể là “nội dung cốt lõi và bao trùm nhất” được;
-
Vấn đề thảo luận ở tổ, đảng viên chỉ thảo luận Nghị quyết, không thảo luận hệ
tư tưởng cá nhân. Trước và sau bài phát biểu của tướng Giáp - không có Nghị quyết
nào mang tư tưởng “Thi đua hòa bình” được Đảng đề xuất hoặc thông qua.
-
Không tổ chức Đảng nào đi thảo luận hay tranh luận một bài phát biểu của Phó Thủ
tướng Võ Nguyên Giáp cả.
Do
đó, những nội dung mà tác giả Khuất Biên Hòa đăng tải, đã có dấu hiệu sai lệch
so với sự thật.
3)
Tác giả Khuất Biên Hòa cho rằng phương pháp hòa bình đó là nội dung của thuyết
“Thi đua hòa bình” khi đề cập trong bài viết của mình: “Tôi tin lời anh kể,
vì trước đó, ngày 5/6/1956, báo Nhân dân đã đăng (gần hết cả số báo) bài “Thi
đua hòa bình” của anh Võ Nguyên Giáp, trong đó có câu: “Người ta hỏi rằng, có
thể thống nhất đất nước bằng phương pháp hòa bình được không? Câu trả lời là được!
Và đó là con đường duy nhất đúng…” (Khuất Biên Hòa, Đại tướng Lê Đức Anh viết
về nguyên Tổng bí thư Lê Duẩn, báo Vietnamnet).
Như
đã phân tích ở trên, ngay cả trên phạm vi thế giới cũng không có thuyết “Thi
đua hòa bình”, mà chỉ có thuyết “Chung sống hòa bình”. Do đó, việc xem phương
pháp hòa bình là nội dung của “Thi đua hòa bình” là hiểu ngược, sai lệch. Chỉ
có thể hiểu đúng rằng, phương pháp hòa bình là một trong những phương pháp thực
hiện của thuyết “Chung sống hòa bình”, còn thi đua hòa bình là hình thức cụ thể
của thuyết “Chung sống hòa bình.
Câu
hỏi: ““Người ta hỏi rằng, có thể thống nhất đất nước bằng phương pháp hòa
bình được không? Câu trả lời là được! Và đó là con đường duy nhất đúng…”
(Khuất Biên Hòa, Đại tướng Lê Đức Anh viết về nguyên Tổng bí thư Lê Duẩn, báo
Vietnamnet) đó nằm trong mục “Và có khả năng thắng lợi bằng phương pháp
hòa bình”. Vậy “Phương pháp hòa bình” ấy là nội hàm của thuyết “Chung sống
hòa bình” của Lenin hay Khrushchev? Qua phân tích nội dung của bài phát biểu của
Võ Nguyên Giáp, chắc chắn chúng ta sẽ thấy rõ.
1)
Võ Nguyên Giáp có phải xem phương pháp hòa bình là nguyên tắc cao nhất (tuyệt
đối) hay không?
Võ
Nguyên Giáp khi trả lời cho câu hỏi có thể dùng phương pháp hòa bình để thắng lợi
hay không, ông đã nói: “Có thể. Chủ trương của ta là thống nhất
nước nhà bằng phương pháp hòa bình, và chúng ta nhận định rằng trong điều kiện
trong nước và thế giới hiện nay, sự nghiệp thống nhất nước nhà của Việt Nam ta có
khả năng hoàn thành bằng phương pháp hòa bình”. (PGS.TSKH Bùi Loan
Thúy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vị tướng của hòa bình, Nhà xuất bản Văn hóa Sài
Gòn, ấn bản 2009, tr.151)
Có
thể thấy, tướng Giáp xác định rằng phương pháp hòa bình là một trong những khả
năng để thực hiện mục tiêu cao nhất đó là thống nhất đất nước. Tướng Giáp chỉ
giới hạn phương pháp này trong khả năng “Có thể” và “có khả năng” chứ không xem
đó là tuyệt đối, là nguyên tắc cao nhất để giải quyết mọi vấn đề.
Về
điểm này không có gì giống với thuyết “Chung sống hòa bình” theo kiểu
Khrushchev cả.
2)
Võ Nguyên Giáp có xem Phương pháp hòa bình có phải là đường lối duy nhất
đúng TRONG bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào hay không? (nói chính xác hơn là tướng
Giáp có trông chờ tuyệt đối vào nền hòa bình – không chiến tranh như lời
Khrushchev nói không?).
Tướng
Giáp nói: “Và trong tình thế hiện nay, chủ trương đó là chủ trương chính xác
duy nhất. Nhận định trên hoàn toàn phù hợp với sự phân tích tình hình thế giới
của Đại hội lần thứ XX của Đảng Cộng sản Liên Xô: Đại hội nêu ra những hình thức
mới tiến lên chủ nghĩa xã hội, trong đó có cđường lối hòa bình phát triển,
không dùng đến vũ trang đấu tranh” (PGS.TSKH Bùi Loan Thúy, Đại tướng
Võ Nguyên Giáp vị tướng của hòa bình, Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn, ấn bản
2009, tr.151).
Đây
là một nhận định gây nhiều tranh cãi, và làm nhiều người hiểu sai lệch, vì nó
liên quan đến Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô. Như chúng ta biết, tại Đại
hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô, dưới sự lãnh đạo của Khrushchev, Đảng Cộng sản
Liên Xô đã có những sai lầm, trong các vấn đề lý luận lẫn các hoạt động tổ chức
của Đảng. Song, không thể phủ nhận hết rằng, Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên
Xô vẫn đánh dấu có những bước phát triển mới trong vấn đề tư duy và phát triển
lý luận, chí ít là ở một mức độ nhất định. Tuyệt nhiên, không thể cho rằng
Khrushchev có sai lầm, thì dấu ấn của Đại hội XX có thể bị phủi sạch. Chúng ta
cần nên nhớ rằng, phải sau khi hết 2/3 thời gian của Đại hội, sau khi
Khrushchev đã nắm chắc trong tay vị trí Bí thư thứ nhất, ông ta mới lên kế hoạch
soạn thảo một bài phát biểu bí mật chống Stalin (trong thực tế phần lớn thời lượng
của Đại hội, người ta vẫn ca ngợi Stalin là nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và
Nhà nước Xô viết).
Có
hai điều đáng ghi nhận ở Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô:
Trước
hết, đó là nhận thức đúng về xu hướng hòa bình. Tất
nhiên, nói như thế không phải là đến Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô, thì mới
nhận thức về xu hướng này, mà thực tế, xu hướng này hiện hữu từ sau khi Chiến
tranh thế giới thứ 2 kết thức và ngày càng được củng cố với sự hình thành hai hệ
thống chính trị xã hội đối lập. Ngay từ năm 1954, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và nhiều nước thế giới thứ ba đã xác nhận các
nguyên tắc hòa bình quốc tế rồi, thì không có lý gì Đại hội Đảng lần thứ XX của
Đảng Cộng sản Liên Xô lại không nhận thức được.
Thứ
hai, đó là nhận thức về các hình thức mới của quá độ cách
mạng. Do xu hướng hòa bình ngày càng phát triển và phong trào đòi hòa bình do
Liên Xô và các nước nước xã hội chủ nghĩa khởi xướng gặt hái nhiều thành công,
làm thế và lực của lực lượng yêu chuộng hòa bình có nhiều sự phát triển, đồng
thời làm xuất hiện các khả năng mới, khả năng quá độ hòa bình hay khả năng có
thể sử dụng các phương pháp, cách thức theo con đường hòa bình để tiến hành
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô đã chỉ rõ các
hình thức đó, chủ yếu là con đường nghị viện. Điều này hoàn toàn không sai,
chúng ta không nên quên rằng Lenin cũng có thời kỳ ủng hộ những đảng viên
bolsheviks gia nhập Duma Nga để tranh đấu vạch mặt chế độ Nga hoàng.
Tuy
nhiên, trong hai cái đáng ghi nhận đó, cũng tồn tại những quan điểm không đúng
đắn của Khrushchev, đấy là cơ sở sau này bị Đảng Cộng sản Trung Quốc bác bỏ:
Thứ
nhất, bên cạnh việc xác định xu hướng hòa bình, Khrushchev
lại xem chủ nghĩa đế quốc đã sẵn sàng cho công cuộc hòa bình, và xem rằng trong
kỷ nguyên của vũ khí nguyên tử sẽ không thể phát sinh chiến tranh. Vì chiến
tranh là con đường diệt vong của nhân loại. Quan điểm này không được cộng đồng
quốc tế đón nhận.
Thứ
hai, bên cạnh xác định các hình thức mới đúng đắn của con
đường quá độ, trong đó có con đường nghị viện. Có thể nói, trong điều kiện một
quốc gia nào đó phù hợp với con đường này, thì con đường nghị viện vẫn có thể
được sử dụng miễn là đem lại lợi ích cuối cùng cho cuộc đấu tranh của giai cấp
vô sản. Lenin cũng có lúc ủng hộ con đường nghị viện, tất nhiên là trong một
hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Cái không đúng của Khrushchev là ở chỗ ông ta cổ súy
cho hình thức đó và xem đó là hình thức duy nhất trong thời đại hòa bình, khi đặt
“hòa bình” và nguyên tắc cao nhất trong việc giải quyết các vấn đề thế giới. Từ
đó, đẩy các đảng cộng sản ở một loạt các quốc gia như Tây Ban Nha, Pháp và một
số nước khác có hoàn cảnh, điều kiện không phù hợp với phương pháp hòa bình, đã
rơi vào thế bị động, bị các đảng tư sản đánh bại và loại khỏi chính trường. Đó
là một trong những tổn thất to lớn của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Có
thể thấy, tướng Giáp đã xác định một cách rõ ràng rằng, phương pháp hòa bình
bên cạnh là một khả năng, một hình thức để thực hiện mục tiêu cao nhất, thì nó phải
tương thích với một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định. Tướng Giáp đã viết khá
rõ “Và trong tình thế hiện nay, chủ trương đó là chủ trương chính xác duy nhất”.
Có nghĩa là trong tình hình hiện tại của cách mạng Việt Nam (7/1956) thì con đường
thống nhất nước nhà trong điều kiện lịch sử đặc biệt của nước Việt Nam như thế,
không thể có con đường nào khác ngoài con đường hòa bình.
Về
điểm này không có gì giống với thuyết “Chung sống hòa bình” theo kiểu
Khrushchev cả.
3)
Võ Nguyên Giáp có tin rằng đế quốc Mỹ sẽ mong muốn hòa bình, và sẵn sàng đàm
phán hòa bình?
Thực
tế quá rõ ràng là không.
Trong
bài nói “Tổ Quốc Việt Nam chúng ta nhất định sẽ thống nhất” ngày 9/7/1956, tướng
Giáp có viết: “Từ khi hòa bình được lập lại đến nay, lực lượng của nhân dân
ta đã lớn mạnh lên rất nhiều, nhưng trong lúc đó đế quốc Mỹ cũng ngày càng tăng
cường can thiệp vào miền Nam, chính quyền tay sai của đế quốc Mỹ ở miền Nam đã
dùng mọi phương sách để củng cố lực lượng của chúng. Chính quyền đó là đại biểu
cho bộ phận thân Mỹ phản động nhất trong giai cấp đại địa chủ và tư sản mại bản
ở miền Nam. Đế quốc Mỹ là một chủ nghĩa đế quốc cực kỳ hung bạo. Do đó mà muốn
hoàn thành nhiệm vụ phản đế và phản phong ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước
nhà thì nhất định phải trãi qua một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ”.
(PGS.TSKH Bùi Loan Thúy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vị tướng của hòa bình, Nhà xuất
bản Văn hóa Sài Gòn, ấn bản 2009, tr.149)
Ngoài
ra, trong bài nói và các bài viết, hồi ký về sau, nhiều lần Võ Nguyên Giáp đều
chỉ ra tính “không đáng tin cậy” của chủ nghĩa đế quốc. Đều này chứng tỏ ông
không xem Mỹ hay các cường quốc phương Tây thực sự mong muốn hòa bình và sẵn
sàng đàm phán hòa bình.
Về
điểm này không có gì giống với thuyết “Chung sống hòa bình” theo kiểu
Khrushchev cả.
4)
Võ Nguyên Giáp có cổ súy cho hình thức nghị viện hay xem hình thức nghị
viện là hình thức duy nhất đúng trong phong trào chính trị hay không?
Không
chỉ riêng trong bài nói “Tổ Quốc Việt Nam chúng ta nhất định sẽ thống nhất”
ngày 9/7/1956, mà trong tất cả các bài viết của tướng Giáp trước và sau đó đều
không nhắc đến hình thức Nghị viện, và cổ súy cho hình thức đó là hình thức duy
nhất đúng để quá độ hòa bình lên chủ nghĩa xã hội.
Về
điểm này cũng không có gì giống với thuyết “Chung sống hòa bình” theo kiểu
Khrushchev cả.
5)
Võ Nguyên Giáp có phải không muốn bạo lực cách mạng giải phóng miền Nam
hay không?
Thực
tế hoàn toàn không phải. Bản chất của phương pháp hòa bình vẫn là bạo lực cách
mạng, song bạo lực cách mạng đó dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng nhân
dân làm nòng cốt chứ không phải lực lượng vũ trang. Không nên đánh đồng: bạo lực
cách mạng thì phải sử dụng lực lượng vũ trang. Bạo lực cách mạng của quần chúng
là cuộc đấu tranh giành chính quyền của quần chúng nhân dân bằng mọi phương
pháp có thể, đôi lúc là dùng các hình thức chính trị cơ bản, nhưng đôi lúc là
hoạt động vũ trang, … miễn sao là giành
được chính quyền để thiết lập chế độ mới, tùy những điều kiện hoàn cảnh mà ta
có sách lược phù hợp (Phong trào Thanh niên Tiền phong trong Cách mạng tháng
Tám là một ví dụ cho phong trào chính trị và việc sử dụng nhuần nhuyễn các
phương pháp cách mạng vừa chính trị, vừa vũ trang).
Cần
nhận thức sự khác biệt giữa đường lối hòa bình và đường lối chủ nghĩa cải lương,
đường lối cải lương chính là lối cổ súy Nghị viện, trông cậy vào pháp luật, hiến
pháp của kẻ thù và phủ nhận đi tính bạo lực cách mạng để giành chính quyền. Con
đường cải lương nhằm thực hiện những cải cách chế độ, chứ không phải lật đổ chế
độ. Do đó, đường lối hòa bình của tướng Giáp hoàn toàn khác hẳng đường lối cổ
súy Nghị viện của Khrushchev.
Còn
con đường đấu tranh vũ trang khi đó được toàn Đảng chúng ta xem là chưa có điều
kiện để vận dụng, (thực tế là từ Hội nghị BCHTW lần 6 (tháng 6/1954) cho đến Hội
nghị BCHTW lần 14 (tháng 11/1958) chúng ta vẫn chưa đả động gì đến bạo lực vũ
trang cách mạng miền Nam, do đó cho đến Hội nghị BCHTW lần thứ 10 (tháng
10/1956) Đảng ta vẫn căn cứ trên Nghị quyết của Bộ Chính trị tháng 9/1954 trong
đó kiên quyết thực thi Hiệp định Geneva đến cùng. Chính vì thế, không có con đường
nào khác ngoài con đường đấu tranh thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa
bình vào thời điểm đấy. Ngay cả trong Đề cương Cách mạng miền Nam của Lê Duẩn
cũng viết: “Đấu tranh cách mạng theo lối hòa bình có nghĩa là lấy lực lượng
chính trị của nhân dân làm chỗ dựa căn bản chứ không phải lấy lực lượng vũ
trang của nhân dân để đấu tranh với chính quyền hiện hữu nhằm đạt mục đích của
cách mạng”. (Lê Duẩn, Tuyển tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2007 – báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam). Tại Hội nghị BCHTW lần thứ 9
(4/1956), Hồ chủ tịch đã chỉ thị rằng bên cạnh việc đấu tranh bằng phương pháp
hòa bình, nhưng chúng ta cần thiết phải chuẩn bị cho lực lượng vũ trang để sau
này có điều kiện có thể dùng.
Nhiều
người bài xích tướng Giáp thường hiểu sai lệch khi cho rằng tướng Giáp nói “Và
trong tình thế hiện nay, chủ trương đó (phương pháp hòa bình) là chủ trương
chính xác duy nhất” là hành động xét lại theo Khrushchev. Điều đó là không
đúng. Họ quên rằng, trước Hội nghị BCHTW lần thứ 15 (từ 1954 – 1959), trong tất
cả các văn kiện của Đảng về vấn đề miền Nam đều không chủ trương “đấu tranh vũ
trang”, … Ngay cả trong Nghị quyết BCHTW 15 và văn kiện Đại hội III, các thuật
ngữ này cũng sử dụng hạn chế. Chính vì thế, trong bài phát biểu của tướng Giáp
hồi 9/7/1956, căn bản không thể đề cập đến con đường đấu tranh vũ trang vì vẫn
phải tuân thủ theo Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9/1954 và các Nghị quyết Hội
nghị BCH TW lần thứ 7, thứ 8, thứ 9 Khóa 2 (đều dùng Nghị quyết BCT tháng
9/1954 làm cơ sở).
Quan
điểm của tướng Giáp trong bài phát biểu 9/7/1956 khá tương đồng với quan điểm của
Lê Duẩn trong tác phẩm Đề cương cách mạng Miền Nam về việc sử dụng phương pháp
hòa bình để giải quyết vấn đề cách mạng miền Nam và chưa chủ trương sử dụng bạo
lực vũ trang (Tất nhiên, Đề cương đề cập sâu sắc hơn và cụ thể hơn về đối tượng
và hình thức cách mạng). Và cơ sở của cả 2 đều xuất phát từ Nghị quyết 9/1954 của
Bộ Chính trị - thi hành Hiệp định Geneva.
Và
cả điểm này, tướng Giáp không có gì giống với thuyết “Chung sống hòa bình” theo
kiểu Khrushchev cả.
Tóm
lại, trên cơ sở phân tích nội dung và bản chất của
bài viết của Phó Thủ tướng Võ Nguyên Giáp ngày 9/7/1956, chúng ta hoàn toàn có
thể đánh giá rằng: không có điểm gì chung với Khruschevist cả.
III. Thống nhất nước nhà
bằng phương pháp hòa bình.
Thống
nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình – đây là một trong những chủ trương lớn
của Đảng được thông qua từ Hội nghị lần thứ 10 BCHTW Đảng (8-10/1956), được ghi
rõ trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 10 của BCHTW Đảng về đấu tranh thực hiện
thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hòa bình. Do
đó, cần và nhất thiết phải hiểu đúng chủ trương lớn này. Đây cũng là ý chí của
toàn Đảng trong giai đoạn tương đối khó khăn, nhất là sau khi Hiệp định Geneva
1954 đã bị Mỹ - Diệm công nhiên phá hoại, không thể Tổng tuyển cử thống nhất.
Do đó, mục này tôi sẽ giải thích cặn kẽ về chủ trương này.
1)
Hồ Chí Minh bàn về “Thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình”
Thuật
ngữ này lần đầu được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đến trong Đáp thư từ trong buổi
lễ trình quốc thư của Đại sứ Liên Xô tháng 3/1956 (trước bài phát biểu của tướng
Giáp 4 tháng) Lời phát biểu chào mừng phái đoàn Liên Xô sang thăm Việt Nam
4/1956, Hội nghị lần thứ 9 BCHTW vào tháng 4/1956 (cách 3 tháng) và “Thư gửi đồng
bào cả nước” ngày 6 tháng 7 năm 1956 (cách 3 ngày).
Trong
Đáp thư từ, chủ tịch Hồ Chí Minh có viết: “Nhân dân Việt Nam rất vui mừng
trước sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng sản thắng lợi của nhân dân Liên Xô vĩ đại.
Vì thắng lợi ấy càng khuyến khích nhân dân Việt Nam thêm hăng hái đấu tranh về
mọi mặt, đặc biệt là đấu tranh chính trị để thi hành triệt để Hiệp định Geneva
và thực hiện thống nhất đất nước bằng phương pháp hòa bình, bằng tổng tuyển cử
tự do trong cả nước” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị QG Sự thật,
Hà Nội, 2011, tr.304)
Trong
Lời phát biểu chào mừng phái đoàn Liên Xô sang thăm Việt Nam 4/1956, chủ tịch Hồ
Chí Minh có nói: “Miền Bắc đã được giải phóng, nhưng nước ta hiện nay chưa thống
nhất. Cho nên đồng bào ta phải ra sức củng cố hòa bình, củng cố miền Bắc, đồng
thời đấu tranh để thực hiện thống nhất trên cơ sở độc lập và dân chủ, bằng
phương pháp hòa bình” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị QG Sự thật,
Hà Nội, 2011, tr.303). Hồ Chủ tịch còn nhắc: “Chúng ta triệt để thi hành Hiệp
định Geneva và đòi đối phương phải thi hành đúng Hiệp định. Chúng ta phải đấu
tranh trên cơ sở Hiệp định Geneva để thực hiện thống nhất nước nhà bằng phương
pháp hòa bình” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị QG Sự thật, Hà
Nội, 2011, tr.304).
Tại
Hội nghị lần thứ 9 BCHTW tháng 4/1956, chủ tịch Hồ Chí Minh có nói: “Trong
khi nhận định có khả năng thực hiện thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa
bình ở Việt Nam ta, chúng ta cần phải luôn luôn nhớ rằng kẻ thù của nhân dân ta
là đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng còn chiếm giữ một nửa đất nước ta, và
chúng đang chuẩn bị chiến tranh; vì vậy chúng ta phải luôn luôn nâng cao đề
phòng và cảnh giác” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị QG Sự thật,
Hà Nội, 2011, tr.313).
Vào
tháng 7/1956, thời điểm hạn định của Tổng tuyển cử nhưng Mỹ - Diệm đã phá hoại,
nhưng cố nhiên không vì địch không chịu Tổng tuyển cử thì chúng ta cũng từ bỏ.
Hồ Chủ tịch viết gởi thư cho đồng bào cả nước có viết: “Chính phủ nước
VNDCCH thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Geneva, đã nhiều lần đề nghị chính quyền
miền Nam mở hội nghị hiệp thương để bàn về tổng tuyển cử tự do nhằm thống nhất
nước nhà. Nhưng đế quốc Mỹ và chính quyền thân Mỹ ở miền Nam âm mưu chia cắt
lâu dài đất nước ta, phá hoại tổng tuyển cử tự do trong toàn quốc đúng kỳ hạn
như Hiệp định Geneva đã quy định. Họ đã làm trái với lợi ích của Tổ Quốc ta,
trái với nguyện vọng của nhân dân ta. Đứng trước tình hình ấy, nhiệm vụ thiêng
liêng của chúng ta là: Kiên quyết tiếp tục đấu tranh thi hành Hiệp định Geneva,
thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp
hòa bình, hoàn thành sự nghiệp vẻ vang giải phóng dân tộc” (Hồ Chí Minh
toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị QG Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.359).
Như
vậy, tướng Giáp không phải là người đề ra thuật ngữ phương pháp hòa bình. Việc
tác giả Khuất Biên Hòa ngộ nhận đồng nhất nội dung của “phương pháp hòa bình” với
“thi đua hòa bình” theo kiểu Khrushchev là một sai lệch cực nghiêm trọng, làm
nhiều người hiểu sai lệch một chủ trương lớn và đúng đắn của Đảng ta, đồng thời
làm sai lệch đi cái nhìn đúng đắn về tướng Giáp.
2)
Lê Duẩn bàn về “Thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình”
Nhiều
người cho rằng Đảng ta tồn tại 2 đường lối, đường lối thứ nhất – chủ hòa, đường
lối thứ hai – chủ chiến. Thực sự đó là sai lầm, đúng là trong Đảng tồn tại nhiều
loại tư tưởng khác nhau: có tư tưởng muốn đánh nhanh thắng nhanh ở miền Nam, có
tư tưởng muốn củng cố mỗi miền Bắc bỏ lơ miền Nam, có tư tưởng đấu tranh bằng
phương pháp hòa bình. Nhưng kỳ thực, trong Đảng ta chỉ có một đường lối duy nhất.
Đó là đường lối đấu tranh thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình. Đồng
chí Lê Duẩn không đứng ngoài chủ trương lớn đó của Đảng và hoàn toàn tương đồng
với đồng chí Võ Nguyên Giáp.
Tác
phẩm Đề cương cách mạng miền Nam của đồng chí viết tháng 8/1956 đã cho thấy
quan điểm và tư duy của Lê Duẩn về “Thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa
bình”. Căn bản đã quán triệt và giải thích đầy đủ Nghị quyết Hội nghị lần thứ
10 BCHTW Đảng (8-10/1956) về đấu tranh thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa
bình.
Lê
Duẩn xác định, mục đích chung của hai nhiệm vụ chiến lược ở cả miền
Bắc và miền Nam là “giữ gìn hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập,
dân chủ trong cả nước” (Lê Duẩn tuyển tập, Đề cương Cách mạng miền Nam, Nxb
Chính tri QG Sự thật, 2007).
Lê
Duẩn xác định, nhiệm vụ của cách mạng Miền Nam đó là đánh đổ
chính quyền Diệm, thành lập chính quyền liên hiệp có tính chất dân tộc, dân chủ
để cùng miền Bắc hòa bình thống nhất nước nhà. Phong trào cách mạng cả nước đấu
tranh cho hòa bình tạo điều kiện cho nhân dân miền Nam chống Diệm; Cuộc đấu
tranh lật đổ Diệm góp phần công sức của nhân dân miền Nam vào sự nghiệp hòa
bình thống nhất. Hai mục tiêu đó là biện chứng và tuân thủ nguyên tắc thống nhất
nước nhà bằng phương pháp hòa bình (hai miền thống nhất trên cơ sở hiệp thương
chính trị).
Lê
Duẩn xác định, phương pháp hòa bình là một khả năng, trong Đề
cương có viết: “Trên cơ sở phân tích tình hình chung trên thế giới, Đại hội
thứ XX Đảng Cộng sản Liên Xô đã đưa ra hai luận điểm quan trọng: 1 Các cuộc
xung đột hiện nay trên thế giới có thể giải quyết thông qua thương lượng hòa
bình. 2 Cách mạng trong nhiều nước hiện nay có thể tiến thẳng lên bằng phương
pháp hòa bình (Cố nhiên, đây chỉ là một khả năng. Trong những nước mà giai cấp
thống trị có một bộ máy cảnh sát mạnh và đang dùng chính sách phát xít để đàn
áp phong trào cách mạng thì đảng lanh đạo trong các nước ấy cần phải phân tích
rõ tình hình cụ thể nước mình mà đề ra phương pháp đấu tranh thích hợp). Căn cứ
vào nhận định trên, chúng ta có thể kết luận rằng nếu các cuộc xung đột trên thế
giới có thể giải quyết thông qua thương lượng hòa bình thì việc thống nhất nước
Việt Nam có thể thực hiện bằng phương pháp hòa bình” (Lê Duẩn tuyển tập, Đề
cương Cách mạng miền Nam, Nxb Chính tri QG Sự thật, 2007).
Lê
Duẩn cũng đã giải thích và thống nhất thuật ngữ “đấu tranh cách mạng theo
đường lối hòa bình” ở miền Nam Việt Nam là như thế nào: “Đấu tranh
cách mạng theo đường lối hòa bình có nghĩa là lấy lực lượng chính trị của nhân
dân làm chỗ dựa căn bản chứ không phải lấy lực lượng vũ trang của nhân dân để đấu
tranh với chính quyền hiện hữu nhằm đạt mục đích của cách mạng. Đấu tranh theo
đường lối hòa bình cũng khác với chủ nghĩa cải lương. Nếu như chủ nghĩa cải
lương về căn bản dựa theo pháp luật, vào hiến pháp để đấu tranh thì đấu tranh
cách mạng theo đường lối hòa bình coi chỗ dựa chủ yếu là bạo lực cách mạng của
quần chúng. Tất nhiên có sử dụng các biện pháp đấu tranh khác, kể cả lợi dụng
pháp luật và hiến pháp của địch, nhưng bạo lực quần chúng đóng vai trò quyết định”
(Lê Duẩn tuyển tập, Đề cương Cách mạng miền Nam, Nxb Chính tri QG Sự thật,
2007).
Lê
Duẩn tự hỏi và tự trả lời về câu hỏi về khả năng thực hiện phương pháp hòa
bình: “Chống lại một chính quyền độc tài, phát xít như chính quyền Mỹ - Diệm
thì đấu tranh theo đường lối hòa bình có khả năng đạt được mục đích cách mạng
hay không?
Chúng
ta phải nhận rõ rằng toàn bộ tiến trình cũng như mỗi bước phát triển của cách mạng
về căn bản phải do nhân dân làm lấy; đó là một vấn đề có tính quy luật, không
thể làm khác được. Cho nên đường lối, phương pháp nhất thiết phải đi đúng nguyện
vọng của nhân dân thì cách mạng mới phát triển và đi đến thành công được. Nguyện
vọng tha thiết của nhân dân miền Nam là giữ gìn hòa bình, thống nhất đất nước.
Phong trào cách mạng miền Nam bước đầu giữ vững được và có thể phát động lên,
căn bản là nhờ đã nắm chặt ngọn cờ hòa bình hợp với lòng dân. Ngược lại, bọn Mỹ
- Diệm đang dùng chế độ phát xít, dùng bạo lực phản cách mạng để tiêu diệt
phong trào yêu nước là trái với lòng dân nên chúng nhất định sẽ thất bại”
(Lê Duẩn tuyển tập, Đề cương Cách mạng miền Nam, Nxb Chính tri QG Sự thật,
2007).
Lê
Duẩn tiết tục tự hỏi và trả lời câu hỏi: “Có ý kiến cho rằng dưới sự cai trị
phát xít và trước âm mưu gây chiến tranh của Mỹ - Diệm mà dùng lực lượng chính
trị của nhân dân để đấu tranh đòi tự do, dân chủ, giữ gìn và củng cố hòa bình
thì không thể nào thực hiện được. Nhận định đó không có cơ sở. Đương nhiên
không thể giành được các quyền tự do dân chủ một cách dễ dàng. Chúng ta đều biết
trong lịch sử phong trào công nhân và công đoàn, thợ thuyền trong các nước tư bản
chủ nghĩa đã đấu tranh gay go, gian khổ như thế nào mới tranh thủ được một số
quyền tự do, dân chủ. Thí dụ để có ngày lao động Quốc tế 1 tháng Năm, giai cấp
thợ thuyền trên thế giới đã đổ biết bao mồ hôi và xương máu mới giành được. Thế
thì khó khăn, gian khổ, thậm chí tổn thất, hy sinh, trong đấu tranh cách mạng
là một điều tất nhiên. Nhưng khó khăn, gian khổ không phải là không vượt qua được”
(Lê Duẩn tuyển tập, Đề cương Cách mạng miền Nam, Nxb Chính tri QG Sự thật,
2007)
Căn
bản, hai câu tự hỏi và tự trả lời của Lê Duẩn trong Đề cương cách mạng Miền Nam
khá tương đồng với hai câu tự hỏi và tự trả lời của tướng Giáp trong bài phát
biểu 9/7/1956 mặc dù không tham khảo lẫn nhau.
Tóm
lại, quan điểm của Lê Duẩn về “Thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình”
cơ bản tương đồng với quan điểm của tướng Giáp. Tất nhiên, vì là
chịu trách nhiệm chính trong việc tiến hành cách mạng miền Nam (đường lối
riêng), khác với tướng Giáp chịu trách nhiệm thực thi cách mạng miền Bắc (đường
lối chung), cho nên bản Đề cương cách mạng miền Nam tỏ ra sâu sắc và hoàn chỉnh
hơn.
3)
“Thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình” là một chủ trương lớn và xuyên
suốt của Đảng ta
Thực ra, không phải đến Hội nghị lần thứ 10 BCHTW
(8-10/1956) thì ta mới có văn kiện về thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa
bình. Từ tháng 9/1954, Nghị quyết Bộ Chính trị và Nghị quyết của Hội nghị BCHTW
lần thứ 8 (8/1955) ta đã chủ trương đấu tranh để thực hiện thống nhất nước nhà
trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hòa bình rồi (nhưng lúc ấy lại gọi
cái tên khác).
Nghị quyết của Bộ Chính trị (9/1954) đã nhấn mạnh tầm vai
trò của Hiệp định Geneva và kiên quyết thi hành chính sách “củng cố hòa bình” để
đấu tranh thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập, dân chủ, tự do. Dựa trên cơ sở
phương pháp hòa bình, các hình thức chủ đạo là thương lượng, sống chung, đàm
phán để tổng tuyển cử tự do thống nhất nước nhà.
Trong báo cáo Hội nghị BCHTW lần thứ 8, Tổng bí thư Trường
Chinh đã phát biểu: “Nước Việt Nam, về mọi mặt lịch sử, địa lý, dân tộc,
kinh tế, văn hóa, là một khối duy nhất, không thể phân chia được. Lãnh thổ Việt
Nam là một dải thống nhất, không thể chia cắt được. Nhưng trong điều kiện chính
trị hiện nay, việc thống nhất nước nhà theo đường lối hòa bình phải tiến hành từng
bước. Không chủ quan nóng vội” (Văn kiện Đảng toàn tập, tập 16, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.486).
Đến Hội nghị BCHTW lần thứ 10 (8-10/1956), Đảng ta mới cho
ra đời Nghị quyết của Hội nghị BCHTW lần 10 về đấu tranh thống nhất nước nhà
trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hòa bình.
Trong Nghị quyết Hội nghị BCHTW lần thứ 15 (1959), Đảng ta
vẫn tiếp tục xác lập con đường hòa bình: “Nhân dân Việt Nam chẳng những phải
củng cố và phát huy thắng lợi đã giành được, phải củng cố miền Bắc đã được độc
lập, mà còn phải giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở
độc lập và dân chủ bằng con đường hòa bình” (Văn kiện Đảng toàn tập, tập
16, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.59). Nghị quyết tiếp tục viết: “Chủ
trương của Đảng ta giữ vững hòa bình ở Việt Nam, thực hiện thống nhất nước nhà
bằng con đường hòa bình, chủ trương ấy gắn liền với chủ trương chung nói trên của
phe xã hội chủ nghĩa” (Văn kiện Đảng toàn tập, tập 16, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2002, tr.67). Nghị quyết còn có hẳn 1 mục có nhan đề “Thực hiện thống
nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng con đường hòa bình”.
Tại Đại hội đại hội lần thứ III của
Đảng ta (1960), vẫn tiếp tục kiên định con đường hòa bình. Nghị quyết Đại hội
có viết: “Nhiệm
vụ cách mạng ở miền Bắc và nhiệm vụ cách mạng ở miền Nam thuộc hai chiến lược
khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền trong hoàn
cảnh nước nhà tạm bị chia cắt. Hai nhiệm vụ đó lại nhằm giải quyết mâu thuẫn
chung của cả nước giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng,
thực hiện mục tiêu chung trước mắt là hòa bình thống nhất Tổ quốc.
Nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam hiện nay là: tǎng cường đoàn kết
toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một
nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực
góp phần tǎng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông - Nam á và thế
giới” (Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần III, báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 20/4/2018)
Đại hội III còn có tên gọi là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.
Có thể nói, Thống nhất nước nhà bằng con đường hòa bình, là một
chủ trương lớn và xuyên suốt của Đảng ta. Từ Nghị quyết Bộ Chính trị 9/1954 cho
đến Hội nghị Hiệp thương thống nhất đất nước 1976.
IV. Kết luận
Tóm lại, chúng ta có thể đưa ra các kết luận như sau:
1) Võ Nguyên Giáp không phải là một Khrushchevist.
Những quan điểm và tư tưởng của tướng Giáp chịu ảnh hưởng bởi thuyết “Chung sống
hòa bình” theo kiểu Lenin và nguyên tắc chung sống hòa bình theo 5 nguyên tắc được
Trung Quốc đề xuất trong cuộc gặp gỡ Ấn Độ (“Chung sống hòa bình” kiểu Lenin và
5 nguyên tắc đã tư tưởng chung của BCH TW Đảng, đã được thông qua trong các Nghị
quyết).
2) Quan điểm “Thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình” là một
trong những chủ trương lớn của Đảng, được thống nhất và xuyên suốt
từ Hội nghị Bộ Chính trị 9/1954 cho đến Hội nghị Hiệp thương thống nhất đất nước
(1976). Do đó hoàn toàn không có chuyện có hai hay nhiều đường lối trong Đảng, tồn
tại hai hay nhiều phe trong Đảng. Khác biệt nằm ở chỗ những hình thức cụ thể của
chủ trương đó mà thôi, và hai miền thực hiện hai nhiệm vụ riêng biệt, cho nên tùy
theo góc độ mỗi miền, chủ trương đó có thể có chút khác biệt trong cách thức thực
hiện.
3) Thuật ngữ “Thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình” là do
Chủ tịch Hồ Chí Minh định danh sớm nhất, từ tháng 3/1956. Nhưng nội
dung và tư tưởng thì từ Hội nghị Bộ Chính trị 9/1954 đã có.
4) Cả Hồ Chí Minh, Lê Duẩn và Võ Nguyên Giáp đều chủ trương “Thống
nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình”, vậy nên không nên đồng nhất
Thi đua hòa bình là đấu tranh thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình. Đó
là xuyên tạc lịch sử, nói đúng hơn là không hiểu đúng về chủ trương, quan điểm
của Đảng. Bài viết của tác giả Khuất Biên Hòa có độ sai lệch rất cao.
5) Không nên phủ định toàn bộ Đại hội lần thứ XX của Đảng Cộng
sản Liên Xô, đặc biệt cần tìm hiểu tiến trình của Đại hội (tôi đã từng
viết rồi). Đồng thời cũng không nên phủ nhận những cái mới của Đại hội, cần phải
hiểu nó đúng chỗ nào, sai chỗ nào, vì đâu mà sai. Đối với mỗi quốc gia, hoàn cảnh,
điều kiện khác nhau thì cái nào đúng cái nào sai, cái nào vận dụng được, cái nào
không vận dụng được. Nhìn lại toàn bộ các quan điểm của Đảng, của Hồ Chủ tịch
chúng ta có thể thấy Hồ Chủ tịch và Đảng đã tận dụng rất khéo léo những quan điểm
đúng của Đại hội XX, loại bỏ cái chưa đúng, đề ra cái phù hợp cho con đường đi
của Đảng ta, đó là một minh chứng cho tư duy sáng tạo của Hồ Chủ tịch – vị lãnh
tụ của Đảng và dân tộc ta.
#Gấu
