Quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga



MỤC LỤC



CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT QUAN HỆ VIỆT NAM – LIÊN BANG NGA TRƯỚC NĂM 1992.

1.1 Cơ sở quan hệ thương mại Việt Nam – Liên bang Nga

Năm 1950, Việt Nam và Liên Xô đã thiết lập quan hệ ngoại giao. Tuy nhiên, do điều kiện của cuộc kháng chiến chống Pháp cho nên quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Liên Xô là chưa có, chỉ dừng lại ở mức viện trợ một số trang thiết bị quân sự mà thôi. Mãi đến năm 1955, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Liên Xô mới chính thức bắt đầu, từ đó kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa hai nước liên tục tăng và tăng rất nhanh qua các năm, hoạt động viện trợ và đầu tư của Liên Xô sang Việt Nam cũng phát triển nhanh, đã góp phần tăng thêm khối lượng hàng hóa và nguyên vật liệu trao đổi giữa hai nước.

Thời kỳ từ năm 1955 đến 1975, do đặc thù hoàn cảnh trong nước nên quan hệ thương mại giữa hai nước chủ yếu diễn ra một chiều từ Liên Xô sang Việt Nam. Từ năm 1976 đến 1991, thì quan hệ thương mại diễn ra cả hai chiều, và được thực hiện trên cơ sở các Hiệp định thương mại và Nghị định thư được ký kết hàng năm, tuy nhiên luồng hàng hóa từ Liên Xô sang Việt Nam vẫn chiếm tỷ trọng lớn về cả khối lượng lẫn giá trị. Nếu như năm 1955, kim ngạch buôn bán hai chiều mới chỉ đạt 5 triệu Rub, thì đến năm 1960 kim ngạch đã tăng lên gấp 13 lần. Trong 5 năm 1976-1980 khối lượng trao đổi hàng hóa giữa 2 nước bằng 20 năm trước đó cộng lại. Trong những năm 80 sau đó, khối lượng và kim ngạch hàng hóa trao đổi giữa Liên Xô và Việt Nam càng lớn, đạt đỉnh cao nhất trong giai đoạn 1986-1990, với quy mô là 10.192,8 triệu Rub[1].

Hoạt động trao đổi hàng hóa giai đoạn này được thực hiện trong bối cảnh nền kinh tế kế hoạch hóa ở cả hai nước và trên cơ sở nghị định thư được ký kết giữa hai bên. Giá cả hàng hóa trao đổi được xác định ổn định theo sự thỏa thuận. Với những điểm riêng biệt của quan hệ thương mại Việt – Xô lúc bấy giờ, kim ngạch trao đổi song phương tuy có tăng lên, nhưng chưa xứng với tiềm năng sẵn có của cả hai bên. Nguyên nhân chính là do nền kinh tế Việt Nam còn nghèo nàn lạc hậu, cơ chế không phù hợp, chưa khơi dậy được tính chủ động, sáng tạo và khả năng linh hoạt của các doanh nghiệp, chưa khai thác được năng lực sản xuất và xuất khẩu của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.

1.2 Đặc điểm kinh tế Liên bang Nga.


Liên bang Nga là quốc gia có địa lý trãi dài trên 2 châu lục là châu Âu và châu Á, với diện tích lớn nhất thế giới 17,1 triệu km2, trong đó 1/3 nằm ở châu Âu và 2/3 nằm ở châu Á. Phía Đông và phía Nam giáp với Trung Quốc, phía Đông Nam giáp với CHDCND Triều Tiên, phía Nam giáp với Mông Cổ, Ca-dắc-xtan, A-déc-bai-gian và Gru-zia, phía Tây Nam giáp với U-crai-na, phía Tây giáp với Bê-la-rút, Lát-via, Ét-tô-nia, Phần Lan và Na Uy. Giáp với các đại dương như Thái Bình Dương, Bắc Băng Dương, biển Ban tích và Biển Đen.

Cơ cấu hành chính lãnh thổ nước Nga gồm 89 đơn vị chính thức gọi là các chủ thể liên bang, 21 nước cộng hòa, 49 tỉnh, 6 vùng, 1 tỉnh tự trị, 10 khu tự trị, 2 thành phố trực thuộc Trung ương là Mát-xcơ-va và Xanh Pê-téc-bua.

Về dân số, Liên bang Nga hiện nay có 144,5 triệu người, đứng vị trí thứ 6 trên thế giới, là một quốc gia đa sắc tộc, đa tôn giáo, nước Nga hiện nay có trên 100 sắc tộc trong đó sắc tộc Nga là chiếm đa số.

Về tài nguyên thiên nhiên, nước Nga có tài nguyên rất phong phú, bao gồm : khí đốt, dầu mỏ, than gỗ, muối mỏ, kim cương, uranium, nhôm, đồng, vàng, thiếc …

Về chế độ Nhà nước, liên bang Nga là nhà nước cộng hòa, theo Hiến pháp thì Tổng thống là nguyên thủ quốc gia bảo đảm việc thực thi Hiến pháp trên toàn lãnh thổ. Chính phủ liên bang Nga là thủ tướng thực thi quyền hành pháp. Quyền lập pháp thuộc về Quốc hội liên bang gồm hai viện là : Hội đồng liên bang (thượng viện) và Duma quốc gia (hạ viện). Liên bang Nga xây dựng hệ thống đa nguyên theo mô hình đảng phái chính trị phương Tây.

Kể từ sau khi Liên Xô sụp đổ năm 1991, với tư cách quốc gia kế tục thì nước Nga thừa hưởng 70% lãnh thổ, 61% dân số, 90% dầu khí, 80% vũ khí hạt nhân và 10/17 nhà máy điện hạt nhân, 75% tiềm lực công nghiệp nói riêng và tiềm lực kinh tế Liên Xô nói chung với cơ sở vật chất kỹ thuật hùng hậu, hệ thống kết cấu hạ tầng được xếp loại cao trên thế giới, có nền khoa học kỹ thuật phát triển, đặc biệt là khoa học cơ bản. Hầu hết các viện nghiên cứu, trường đại học, trung tâm khoa học lớn của Liên Xô đều nằm trên lãnh thổ liên bang Nga, vì vậy nước Nga có lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật đông đảo; người dân Nga được hưởng nền giáo dục và học vấn của Liên Xô nên trình độ mặt bằng tương đối cao. Là một trong hai quốc gia có tiềm lực vũ khí hạt nhân mạnh nhất và là thành viên của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc. Đây cũng là những thuận lợi lớn làm cơ sở cho liên bang Nga chuyển sang một thời kỳ phát triển mới.

Tuy nhiên những năm đầu thập niên 90, thế kỷ XX, tình trạng khủng hoảng về kinh tế -xã hội đã làm nước Nga tụt hậu so với các nước phát triển. Các biểu hiện được thể hiện qua các mặt như sau:

Về kinh tế:, đó là sự phá vỡ của một chỉnh thể kinh tế thống nhất được xây dựng trong một thời gian dài thành các quốc gia độc lập, những vấn đề phát triển không đồng đều kinh tế -xã hội giữa các khu vực trở nên gay gắt. Hội đồng tương trợ kinh tế SEV mà Liên Xô là trụ cột bị giải thể đã phá vỡ các mối quan hệ kinh tế đối ngoại quan trọng.

Mục tiêu đối nội của liên bang Nga khi tách ra làm một thực thể độc lập trên trường quốc tế đó là xóa bỏ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, chuyển sang nền kinh tế thị trường và thúc đẩy cải cách dân chủ theo mô hình các nước phương Tây. Tuy nhiên, sau một vài năm thực hiện mục tiêu này, nước Nga không những không thoát khỏi khủng hoảng mà còn lâm vào khủng hoảng mới.

Về chính trị: diễn biến chính trị nội bộ của Liên Xô là vô cùng phức tạp với những đặc điểm, mâu thuẫn và đấu tranh quyền lực của các phe phái. Trong cuộc đấu tranh đó giữa B. Yelsin (chủ trương thành lập nước cộng hòa tổng thống) và phó tổng thống Ruskoi – Khasbulatov chủ tịch Xô viết tối cao (chủ trương thành lập cộng hòa nghị viện). Mặc dù B. Yelsin đã giành thắng lợi, Hiến pháp 1993 đã được thông qua, nước Nga đã trở thành nước cộng hòa Tổng thống, nhưng mâu thuẫn giữa các lực lượng chính trị vẫn âm ỉ trong suốt nửa sau thập niên 90.

Về xã hội: do những khủng hoảng chính trị, thất bại về kinh tế đã tác động mạnh mẽ đến tinh thần, tạo nên sự phân hóa sâu sắc về tư tưởng và thái độ của người dân. Cùng với sự bất ổn về chính trị, các khoảng trống pháp luật xuất hiện làm cơ sở cho sự gia tăng tội phạm, bạo lực, thiếu an toàn. Các mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo, … vẫn đang là nguy cơ tiềm ẩn để chủ nghĩa ly khai xuất hiện, và ảnh hưởng trực tiếp đến an sinh xã hội thống nhất và toàn vẹn của quốc gia rộng lớn này.

Như vậy, đặc điểm chủ yếu của liên bang Nga sau khi Liên Xô sụp đổ, có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, cũng như là quan hệ đối ngoại của liên bang Nga là:

-                     Nền kinh tế chuyển đổi từ quản lý kế hoạch hóa, quan liêu với vai trò chủ đạo là Nhà nước sang quản lý theo cơ chế thị trường mô hình các nước phương Tây.
-                     Nhà nước chuyển sang thực hiện vai trò định hướng để khai thác các thế mạnh của quốc gia, còn thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mới là lực lượng năng động trên thị trường.
-                     Cơ cấu nền kinh tế có sự thay đổi cùng với sự thay đổi về chế độ sở hữu. Nền kinh tế chuyển sang tư nhân hóa, vai trò của kinh tế tư nhân được đề cao, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh được chủ động trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh xuất nhập khẩu – các lĩnh vực mà trước đây các doanh nghiệp nhà nước vẫn độc quyền quản lý.
-                     Từ chỗ nền kinh tế chỉ ưu tiên trung quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa trên nguyên tắc tương trợ lẫn nhau và lĩnh vực ngoại thương thuộc độc quyền nhà nước, nay thực hành kinh tế mở, đa phương hóa và đa dạng hóa trong quan hệ đối ngoại, nguyên tắc trong quan hệ đối ngoại với nước ngoài là đôi bên cùng có lợi và có ưu tiên theo từng chiến lược thời kỳ.
-                     Quan hệ chưa chú trọng nhiều hơn đến mối quan hệ mang lại lợi ích kinh tế.



CHƯƠNG II. QUAN HỆ VIỆT NAM – LIÊN BANG NGA, NHÌN TỪ HAI PHÍA

2.1 Quan điểm, chính sách đối ngoại của Liên bang Nga đối với Việt Nam.

2.1.1. Chính sách của Nga đối với Việt Nam (1991 - nay).
Từ năm 1991 đến năm nay, mặc dù chưa đầy ba thập niên, song chính sách của Nga đối với Việt Nam trải qua khá nhiều thăng trầm. Có thể khái quát chính sách của Nga đối với Việt Nam thời kỳ này qua hai giai đoạn: 1991 - 1993 , 1994 – 2012 , 2012 - nay.

-         Giai đoạn 1991 - 1993
Đây là giai đoạn chính sách đối ngoại của Nga chịu nhiều xáo trộn nhất trong thời kỳ chuyển tiếp từ xã hội cũ sang xã hội mới và in dấu ấn đậm nét trong chính sách của Nga đối với Việt Nam.

Mặc dù chính thức tuyên bố độc lập, tách ra khỏi Liên Xô vào ngày 24/8/1991, nhưng về cơ bản, đến cuối năm 1991, nước Nga vẫn thực hiện chính sách đối ngoại trong khuôn khổ Liên Xô. Đó là chính sách đối ngoại theo “tư duy chính trị mới” của Mikhail Gorbachev với đường lối “từ bỏ lợi ích giai cấp công nhân, hạ thấp giá trị giải phóng của chủ nghĩa xã hội để đề cao các lợi ích chung toàn nhân loại, thực hiện “phi tư tưởng hóa” các quan hệ quốc tế để đổi lấy sự hòa dịu với phương Tây, hy sinh đồng minh nhằm nhanh chóng đưa Liên Xô hòa nhập vào hệ thống “xã hội văn minh”[2].

Sau khi lên cầm quyền nước Nga với tư cách là quốc gia kế thừa Liên Xô (1992), với mục tiêu xóa bỏ toàn bộ cơ sở kinh tế - xã hội của hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN), hội nhập nhanh Liên bang Nga vào cộng đồng các nước tư bản chủ nghĩa (TBCN) châu Âu, cùng với tác động chuyển hóa hòa bình của Mỹ và phương Tây, B.N. Yeltsin đã thực hiện đường lối đối ngoại “Định hướng Đại Tây Dương”. Chính sách này dựa trên cơ sở những nguyên tắc của “tư duy chính trị mới” được Gorbachev nêu ra từ tháng 11/1990 nhưng được thúc đẩy ở mức độ cao, với quyết tâm biến Liên bang Nga thành nước TBCN trong thời gian ngắn nhất. Bộ trưởng Ngoại giao Nga Andrei Kozyrev đã thể hiện quyết tâm đoạn tuyệt cơ sở xã hội cũ với lý do: “Mỹ và các nền dân chủ phương Tây khác là những người bạn tự nhiên và những người đồng minh cuối cùng của nước Nga dân chủ vì họ là kẻ thù của chuyên chế Liên Xô[3].

Có nhiều lý do thúc đẩy chính quyền B.N. Yeltsin lựa chọn chính sách đối ngoại hướng Tây. Ngoài chủ trương từ bỏ ý thức hệ cộng sản với mong muốn hội nhập nhanh vào nền văn minh TBCN nhưng lý do lớn nhất, thực trạng nước Nga đầu những năm 1990 là yếu tố tác động trực tiếp đến định hướng đối ngoại này. “Nga có xu hướng tồn tại như một chính thể đa nguyên với nền dân chủ và pháp luật yếu kém, một xã hội dân sự mới phôi thai, một nền kinh tế dựa trên khai thác nguyên liệu thô và một dân số bần cùng hoá[4]. Hệ thống cơ quan lập pháp và hành pháp từ trung ương đến địa phương dưới thời Liên Xô vẫn đang hoạt động và chưa sẵn sàng hợp tác với chính quyền mới. Trong khi đó, sự ra đời của chủ nghĩa xã hội dân chủ ở Nga cần được củng cố để tránh nguy cơ bị đảo lộn chính trị.

Mặt khác, sau nhiều sự cố to lớn, nước Nga “đơn thương độc mã” không còn đủ sức khôi phục nền kinh tế, nên hơn lúc nào hết, Nga rất cần đến nguồn viện trợ, vốn đầu tư, khoa học - công nghệ, phương pháp quản lý hiện đại và các đối tác làm ăn mới. Điều đó, theo Nga chỉ có thể tìm kiếm từ các nước phương Tây, trước hết là các nước G7. Thực tế cho thấy, sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, để ngăn chặn Nga quay lại thể chế Liên Xô, chính quyền Bill Clinton và Tây Âu trên danh nghĩa “cải thiện quan hệ”, đã viện trợ ồ ạt (khoảng 60 tỷ USD tính đến năm 1993[5]) giúp Nga định ra “liệu pháp sốc” cải cách kinh tế, tăng tốc độ tư nhân hoá, nhanh chóng hoàn thành chuyển đổi “quỹ đạo kinh tế” để Nga sớm trở thành nhà nước phương Tây thực sự. Động thái trên của Mỹ càng làm Nga yên tâm với “chính sách đối ngoại đầy ảo tưởng”.

Do đó, từ năm 1991 đến năm 1993, Nga hoàn toàn hướng về châu Âu với xác định của B.Yeltsin: “Nhiệm vụ trung tâm bao trùm mọi hoạt động quốc tế của Nga là xây dựng quan hệ bạn bè ổn định với các nước dân chủ trên thế giới nhằm bảo đảm cho nước Nga gia nhập khối cộng đồng các quốc gia văn minh một cách hoàn toàn hợp pháp và hài hòa[6]. Định hướng đối ngoại này tác động sâu sắc đến chính sách của Nga đối với phương Đông và Việt Nam. Trong những năm 1991 - 1993, chính sách đối với Việt Nam hầu như bị bỏ ngỏ, quan hệ Nga - Việt rơi vào tình trạng “đóng băng”.

Nga từ bỏ các cuộc tiếp xúc cấp cao với Việt Nam nhằm phối hợp nỗ lực ngoại giao và tham vấn các vấn đề chính trị quan trọng dưới thời Liên Xô. Do đó, quan hệ ngoại giao hai nước trong thời gian này dừng lại ở tính hình thức và chủ động từ phía Việt Nam. Chuyến thăm Nga của Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Trần Đức Lương (7/1992) không thu được cam kết cụ thể nào ngoài việc nhất trí thành lập Ủy ban liên Chính phủ về hợp tác kinh tế, thương mại và khoa học - kỹ thuật. Năm 1993, trong chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Ngoại giao Y. Iarov (5/1993) và chuyến thăm Nga của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm (10/1993), hai bên khẳng định khắc phục quan hệ trì trệ, song về cơ bản, chưa có thay đổi thực tế.

Nga xúc tiến giảm hiện diện quân sự tại Việt Nam, rút các lực lượng quân sự, đội ngũ chuyên gia, kỹ thuật viên trên nhiều lĩnh vực về nước. Định hướng đối ngoại hướng Tây và sự suy yếu đáng kể sức mạnh quân sự khiến Nga quyết định triệt thoái hầu như toàn bộ lực lượng quân đội khỏi vịnh Cam Ranh.

Nhìn chung, Việt Nam trong giai đoạn này không nằm trong định hướng đối ngoại của Nga. Trọng tâm đối ngoại của Nga và Việt Nam những năm 1991 - 1993 đều thoát ra khỏi mối quan hệ truyền thống với cộng đồng XHCN, hướng đến các nước phát triển để phục vụ lợi ích quốc gia và không hướng về nhau. Do vậy, quan hệ Nga - Việt giai đoạn này ngưng trệ và mang tính hình thức.

-         Giai đoạn 1994 - 2012
Những năm 1994 - 2012, chính sách của Nga đối với Việt Nam được xây dựng trên định hướng đối ngoại mới, toàn diện hơn - chính sách đối ngoại cân bằng Đông - Tây. Với sự xác định lại đường hướng đối ngoại, chính sách với Việt Nam ngày càng được Nga chú trọng đúng mức và phát triển trong thời gian còn lại của chính quyền B. Yeltsin (1994 - 1999) và thời kỳ cầm quyền của Tổng thống V. Putin và Medvedev.

+ Từ năm 1994 đến năm 1999:
Sau hơn hai năm tìm kiếm “nền dân chủ” hiện đại từ các giá trị Âu - Mỹ với các cuộc cải cách kinh tế nóng vội, rập khuôn phương Tây, tình trạng khủng hoảng của Nga ngày càng nghiêm trọng. Nga phải đứng ngoài lề quá trình liên kết kinh tế sôi động ở cả phương Tây (EU) lẫn phương Đông (APEC). Mặc dù được gia nhập vào tổ chức IMF, WB, đặc biệt là thiết lập quan hệ với G.7, nhưng trên thực tế Nga bị phân biệt đối xử và có xu hướng tồn tại như một “quốc gia hạng hai” đối với chính giới Âu - Mỹ. Sự suy giảm vị thế của Nga ở châu Âu và trên thế giới càng khiến những khó khăn nội bộ phát triển mạnh mẽ hơn. Tình hình đó buộc Nga phải điều chỉnh định hướng đối ngoại.

Thật ra, ngay từ cuối năm 1992, dưới tác động của “những người theo chủ nghĩa Âu - Á” (Eurasianist) và sự xác định lại bản sắc dân tộc, chính sách đối ngoại Nga đã có sự điều chỉnh rất cơ bản, với việc thừa nhận nét đặc trưng nổi bật “bản sắc lưỡng thể” của nước Nga. Tuy nhiên, phải đến ngày 12/12/1993, khi kết quả bầu cử Quốc hội phản ánh tương quan so sánh lực lượng mới trong nội bộ nước Nga với ưu thế nghiêng về phía những người theo chủ nghĩa dân tộc và phái thực dụng; phái dân chủ thân phương Tây suy giảm thì sự điều chỉnh chính sách nêu trên mới thật sự định hình. Trên cơ sở đó, tháng 1/1994, Tổng thống B. Yeltsin phê chuẩn “Những nguyên tắc cơ bản trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga”, khẳng định “tăng cường chính sách đối ngoại Châu Á – Thái Bình Dương có thể cân bằng các mặt đối với phương Tây. Như thế càng thể hiện địa vị nước Âu - Á của Nga[7]. Định hướng này đánh dấu sự quay lại châu Á của Nga và tác động lớn đến chính sách đối với Việt Nam.

Nga xác định vai trò “cửa ngõ” của Việt Nam trong chiến lược Châu Á – Thái Bình Dương trước hết là Đông Nam Á, nỗ lực tạo dựng cơ sở pháp lý mới cho quan hệ Nga - Việt Nam (1994 - 1996) và xúc tiến phát triển quan hệ song phương lên tầm chiến lược lâu dài, ổn định (1997 - 1999). “Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ hữu nghị giữa Liên bang Nga và Việt Nam” được ký kết trong chuyến thăm Nga của Thủ tướng Võ Văn Kiệt ngày 16/6/1994 là văn kiện đánh dấu sự khởi đầu chính sách hợp tác của Nga đối với Việt Nam sau Chiến tranh Lạnh. Hiệp ước khẳng định hai nước tiếp tục duy trì và phát triển quan hệ hữu nghị trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Trong Tuyên bố chung Việt Nam – Liên bang Nga ngày 25/8/1998, Chủ tịch nước Trần Đức Lương và Tổng thống B.Yeltsin khẳng định tiếp tục phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước, đặc biệt coi trọng sự phối hợp hành động có hiệu quả trong khuôn khổ cuộc đối thoại của Nga với các nước ASEAN mà Việt Nam là điều phối viên[8]. Trong tuyên bố này, hai nước thỏa thuận “củng cố các cơ chế tiếp xúc của các nhà lãnh đạo hai nước, các cuộc gặp gỡ thường xuyên giữa hai Thủ tướng, các cuộc trao đổi ý kiến của hai Bộ trưởng Ngoại giao nhằm làm sâu sắc thêm sự hiểu biết lẫn nhau, tăng cường sự hợp tác toàn diện giữa hai nước, đẩy mạnh việc phối hợp lập trường về các vấn đề quốc tế then chốt...”[9] .

Bên cạnh đó, Nga còn đẩy mạnh chính sách hợp tác với Việt Nam trên nhiều lĩnh vực khác như an ninh - quốc phòng, văn hóa - giáo dục, khoa học - kỹ thuật... Nhìn chung, diễn biến trong quan hệ hai nước những năm 1994 - 1999 cho thấy Nga chuyển từ bỏ rơi sang chú trọng đúng mức với Việt Nam. Tuy vậy, với ưu tiên đối nội để giải quyết tình hình kinh tế, chính trị - xã hội còn khó khăn bộn bề, chính sách của Nga đối với Việt Nam dưới thời kỳ B. Yeltsin hầu như phát triển nhiều về lý thuyết mà chưa đạt được tiến triển đột phá trên thực tế.

+ Từ năm 2000 đến năm 2012:
Chính sách của Nga đối với Việt Nam trong những năm 2000 - 2012 được hoạch định bởi chính quyền Tổng thống V. Putin và người kế nhiệm là Tổng thống Medvedev. Đây là giai đoạn Nga thực hiện chính sách hợp tác mang tính chiến lược với Việt Nam, nâng quan hệ Nga - Việt từ đối tác lên đối tác chiến lược. Chính sách này thể hiện rõ rệt trên các lĩnh vực chủ yếu sau:

Nga thực hiện quyết tâm chính trị phát triển quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam. Trong kỳ họp thứ 7 Ủy ban liên Chính phủ Việt Nam - Liên bang Nga (12/2000), Nga khẳng định: “Việt Nam là đối tác chiến lược của Nga, có vị trí quan trọng ở Đông - Nam Á và Châu Á - Thái Bình Dương”[10]. Thực hiện định hướng này, trước khi cùng Chủ tịch nước Trần Đức Lương ký Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược Nga - Việt, Tổng thống V. Putin khẳng định: “Việc phát triển mối quan hệ trên tất cả các mặt với Việt Nam được chúng tôi coi là một trong những hướng ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga ở châu Á[11]. Tổng thống cũng xác định: “Cơ sở phối hợp hành động chặt chẽ của chúng ta là những cuộc tiếp xúc chính trị thường xuyên ở các cấp cao nhất... để trao đổi ý kiến về những vấn đề quan trọng nhất của tình hình quốc tế và quan hệ giữa các quốc gia. Ở đây cần củng cố những mối quan hệ ngay giữa các cơ quan lập pháp của chúng ta, cũng như giữa các cơ cấu của chính quyền hành pháp... Tôi cho rằng việc tiếp tục phối hợp những nỗ lực của chúng ta trong lĩnh vực chính sách đối ngoại là rất quan trọng. Trước hết sự phối hợp này liên quan những hoạt động trong khuôn khổ Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác[12].

Chính sách hợp tác chiến lược thể hiện rõ trong 17 nội dung của Tuyên bố chung Việt Nam - Liên bang Nga giữa Chủ tịch Trần Đức Lương và Tổng thống V. Putin ngày 2/3/2001. Tuyên bố nêu rõ: “Việt Nam và Liên bang Nga khẳng định quyết tâm tiếp tục củng cố và phát triển hơn quan hệ hữu nghị truyền thống sự hợp tác nhiều mặt trong thế kỷ trên cơ sở quan hệ đối tác chiến lược[13]. Nga cũng khẳng định lại cơ sở vững chắc để phát triển mạnh mẽ quan hệ hai nước là Hiệp ước được ký kết ngày 16/6/1994, trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.

Thực hiện chính sách này, từ năm 2000 đến năm 2012, Nga đã thực hiện 14 chuyến thăm cấp cao đến Việt Nam, đặc biệt là chuyến thăm đầu tiên của Tổng thống Nga V. Putin đến Việt Nam (28/2 - 2/3/2001), của Thủ tướng M.Kasiyanov (3/2002) và của Thủ tướng M.E.Phadkov (2/2006). Bên cạnh cơ chế đối thoại cấp cao song phương, Nga cũng thiết lập cơ chế đối thoại và hợp tác chính trị đa phương với Việt Nam thông qua phối hợp hoạt động và ủng hộ lẫn nhau trong các tổ chức quốc tế, nhất là Liên hợp quốc, ASEAN, ARF, APEC. Những cam kết chính trị - đối ngoại hai nước đạt được trong giai đoạn này là cơ sở nền tảng khẳng định chính sách hợp tác chiến lược của Nga đối với Việt Nam sau Chiến tranh Lạnh.

Thực hiện chính sách hợp tác toàn diện, Nga tăng cường các chuyến thăm và trao đổi trên lĩnh vực an ninh - quốc phòng, lĩnh vực kỹ thuật quân sự tiếp tục là mũi nhọn cho hợp tác hai nước trên lĩnh vực này. Ngoài ra, tất cả các lĩnh vực khác như văn hóa - giáo dục, khoa học - công nghệ đều có sự phát triển khởi sắc theo cơ chế đối tác chiến lược.

Với phân tích trên, có thể thấy, chính sách của Nga đối với Việt Nam sau Chiến tranh Lạnh (1991 - 2012) được khôi phục vào cuối thời kỳ cầm quyền của B. Yeltsin nhưng chỉ thật sự tái sinh dưới thời kỳ cầm quyền của Tổng thống V. Putin và Medvedev. Mục tiêu khôi phục vị thế cường quốc thế giới, đặc biệt là định hướng đối ngoại Châu Á - Thái Bình Dương (CA - TBD) dưới thời Tổng thống V. Putin đã góp phần thúc đẩy và làm nên những thay đổi thật sự trong chính sách của Nga đối với Việt Nam.

- Giai đoạn 2012 đến 2018.
Trong giai đoạn năm 2012 đến nay, chính sách của Nga đối với Việt Nam được xây dựng trong bối cảnh mới, Tổng thống Nga V. Putin tái đắc cử nhiệm kỳ thứ ba. Khi tuyên thệ nhậm chức ngày 7/5/2012, tổng thống Nga V. Putin đã phân tích tình hình quốc tế của thế giới, đồng thời đề ra chính sách đối ngoại của nước Nga trong giai đoạn mới. Chính sách đối ngoại của Liên bang Nga đối với Việt Nam trong giai đoạn này được gọi là : hợp tác chiến lược toàn diện.

Mở đầu giai đoạn mới trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước Việt Nam – Liên bang Nga đó là sự kiện vô cùng đặc biệt. Chuyến thăm Liên bang Nga của chủ tịch nước Trương Tấn Sang vào tháng 7/2012 đã đánh dấu một mốc mới trong lịch sử phát triển quan hệ song phương, nâng quan hệ đối tác chiến lược Việt – Nga lên một tầm cao mới, mang tính toàn diện hơn. Đây là kết quả của việc sau 10 năm triển khai thực hiện những nhiệm vụ của quan hệ đối tác chiến lược, quan hệ Việt – Nga đã phát triển mạnh mẽ, bao gồm ngày càng nhiều lĩnh vực hợp tác, từ nông nghiệp đến công nghiệp, từ điện lực đến dầu khí, từ đầu tư chủ yếu ở địa bàn Việt Nam bắt đầu chuyển sang và mở rộng địa bàn tại Nga.

Chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng Nga Sergei Shoigu tháng 3/2013, đã thu hút rất nhiều sự quan tâm của thế giới. Đài tiếng nói nước Nga nhận định chuyến thăm này góp phần củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống, phát triển sự hợp tác lâu dài và bền vững trong lĩnh vực quân sự cũng như kỹ thuật giữa hai quốc gia. Báo Prava đã gọi chuyến thăm là “Sự trở lại Việt Nam của Nga”, trong đó nhấn mạnh sự hiện diện của Sergei Shoigu ở quân cảng Cam Ranh.

          Có thể thấy trong giai đoạn này, nước Nga tiếp đục theo đuổi chính sách đối ngoại “cân bằng Đông – Tây”. Đặc biệt, khi bối cảnh quốc tế diễn ra ngày càng phức tạp, phương Tây tiến hành bao vây cấm vận nước Nga sau các sự kiện Crime 2014, chính sách đối ngoại của nước Nga càng phải xoay trục về châu Á – Thái Bình Dương, tham gia các quá trình liên kết của khu vực, xúc tiến thương mại và đầu tư, thiết lập một cơ cấu an ninh tập thể của khu vực, … Hết thảy những hoạt động trên nhằm mục đích khôi phục lại nền kinh tế của nước Nga sau khi bị Mỹ và phương Tây bao vây cấm vận.

          Khuôn khổ hợp tác đối tác chiến lược toàn diện đã đem đến một luồng sinh khí mới, nhất là trong bối cảnh Nga đặt Việt Nam trong nhóm 3 nước đối tác chiến lược quan trọng nhất ở châu Á – Thái Bình Dương. Thủ tướng Medvedev đã từng khẳng định Việt Nam là đối tác chiến lược có tư cách đặc biệt khi họ đồng ý để Việt Nam cùng tham gia khai thác khu mỏ Tây Khosedayuskove, điều này cho thấy vai trò quan trọng của Việt Nam trong chính sách hướng về phía Đông của Nga.

          Kết quả của các cuộc bầu cử vào Duma Quốc gia (tháng 12-2017) và bầu cử Tổng thống Liên bang Nga (tháng 3-2018) đã tạo lập tiền đề cho sự tiến lên phía trước trên nền tảng đổi mới trong khi vẫn giữ được các nhiệm vụ căn bản. Tháng 5/2018, Tổng thống V. Putin đã ký Sắc lệnh “Về các mục tiêu và nhiệm vụ chiến lược cấp quốc gia trong việc phát triển LB Nga trong giai đoạn đến năm 2024”. Trong đó, Tổng Thống V. Putin nêu rõ chính sách đối ngoại của Liên Bang Nga đối với khu vực châu Á-Thái Bình Dương có một ý nghĩa quan trọng và ngày càng lớn mạnh. Việc thúc đẩy sự hợp tác toàn diện với các nước ASEAN nằm trong các ưu tiên đối ngoại chính của Nga trên hướng đi châu Á. Trong bình diện này, vị trí đặc biệt thuộc về Việt Nam-người bạn lâu năm và tin cậy.

          Chuyến thăm cấp Nhà nước của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đến Nga vào tháng 9/2018 có một ý nghĩa quan trọng. Như ông Alexei Gromov đánh giá đây là một sự thành công trong chiến lược “Tháng Hướng Đông” của Nga.

Ông Alexei Gromov, nhấn mạnh rằng: “Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã trở thành nhà lãnh đạo đầu tiên trong số lãnh đạo các quốc gia Đông Nam Á, đến thăm và hội đàm với Tổng thống Nga Vladimir Putin, kể từ khi ông tái đắc cử hồi trung tuần tháng 3 vừa qua[14]. Tác giả cho rằng, việc Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trở thành nhà lãnh đạo đầu tiên trong số 4 quốc gia chủ chốt ở Đông Nam Á thăm Nga, theo lời mời chính thức của Tổng thống V. Putin, kể từ khi ông tái đắc cử nhiệm kỳ mới, cho thấy Nga thực sự coi Việt Nam là “cầu nối” giữa Moscow với Đông Nam Á, nơi mà trong những năm gần đây, Việt Nam đã vượt lên trở thành một trong những quốc gia phát triển kinh tế hàng đầu, và hơn thế, đang ngày càng khẳng định uy tín của mình trên phương diện chính trị, trước hết là trong khuôn khổ Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Có thể thấy rõ, trong bối cảnh chưa thể hóa giải áp lực trừng phạt từ phương Tây, chính sách “hướng Đông”, phát triển quan hệ với các quốc gia Đông Nam Á đang thực sự là một trong những hướng chính trong chính sách đối ngoại của Nga.

Có thể thấy trong giai đoạn 2012 – đến nay, chính sách đối ngoại của Liên bang Nga với Việt Nam càng tiến triển theo chiều sâu, trên nhiều lĩnh vực. Liên bang Nga đã nhìn nhận Việt Nam từ vai trò vị trí quan trọng – trở thành rất quan trọng, trong chính sách đối ngoại “Hướng Đông” của mình ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Đồng thời qua hai lần Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đến thăm Nga vào năm 2014 và 2018, thì mối quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện giữa Nga và Việt Nam đều được nâng lên một tầm cao hơn, trước hết là nhờ vào sự đồng thuận nhất trí cao từ hai nhà lãnh đạo của 2 quốc gia.

2.2 Quan điểm, chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với Liên bang Nga


Thế kỷ 21 đang mở ra những cơ hội to lớn nhưng cũng chưa đựng rất nhiều thách thức. Sau gần hai thập kỷ tiến hành công cuộc Đổi mới đất nước, thế và lực của nước ta đã lớn mạnh lên nhiều. Chúng ta có lợi thế rất lớn là tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định. Môi trường hoà bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế và những xu thế tích cực trên thế giới tiếp tục tạo điều kiện để Việt Nam phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực.

Nhằm phát huy những thành tựu to lớn đã đạt được trong gần hai thập kỷ tiến hành công cuộc Đổi mới và vươn tới mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển."

Trên cơ sở đường lối đối ngoại đó, Việt Nam chủ trương mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ, trong đó đặc biệt là Liên bang Nga – quốc gia có mối quan hệ bạn bè truyền thống với Việt Nam.

Tuy nhiên, khác với Liên bang Nga chủ yếu thiên về chiến lược chính trị nhằm thoát ra khỏi sự bao vây cấm vận của Mỹ và phương Tây. Việt Nam chủ yếu thiên về hợp tác kinh tế, hợp tác khoa học kỹ thuật, hợp tác quân sự quốc phòng nhằm duy trì nền hòa bình an ninh khu vực để phục vụ cho công cuộc xây dựng kinh tế. Cho nên, chính sách đối ngoại của Việt Nam với Liên bang Nga kể từ 1992 cho đến nay tương đối thống nhất về mục tiêu này.

Tháng 8 năm 1998 Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã có chuyến thăm chính thức Liên bang Nga. Việt Nam đã bày tỏ sự mong muốn phát triển quan hệ song phương và đã ký Tuyên bố chung Nga-Việt. Mở ra những cơ sở đầu tiên cho việc phục hồi và phát triển mối quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga.

Tháng 9 năm 2000 Thủ tướng Phan Văn Khải đã thăm chính thức Nga, ký các hiệp định liên Chính phủ về giải quyết nợ của Việt Nam vay trước đây trước Nga, về hợp tác liên khu vực, v.v... Năm 2000, chính phủ Nga quyết định xóa 85% khoản nợ trị giá 11 tỷ USD mà Việt Nam còn nợ Liên Xô. 15% còn lại (1,65 tỷ USD) được Nga ưu đãi, cho chi trả dần trong 23 năm, dưới hình thức các khoản đầu tư.

Trong chuyến thăm đến Việt Nam của Tổng thống Nga V. Putin vào tháng 3/2001. Việt Nam và LB Nga đã xác lập mối quan hệ song phương lên tầm đối tác chiến lược, và Liên bang Nga cũng là nước đầu tiên Việt Nam thiết lập quan hệ đối tác chiến lược. Nó cho thấy sự chú trọng trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam đối với Liên bang Nga, khi xác định vẫn chú trọng vào các mối quan hệ bè bạn truyền thống.

Tháng 10/2002, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh thăm chính thức Nga theo lời mời của Tổng thống Pu-tin. Đây là chuyến thăm Nga đầu tiên của Tổng Bí thư ĐCS ta kể từ khi Liên Xô tan rã; là sự kiện có tầm quan trọng đặc biệt, tạo động lực nâng quan hệ song phương lên tầm cao mới phù hợp với khuôn khổ đối tác chiến lược đã được xác lập.

Từ năm 2008 Việt Nam và Nga thiết lập cơ chế Đối thoại chiến lược ngoại giao - an ninh - quốc phòng thường niên cấp Thứ trưởng thường trực Ngoại giao (đến nay đã tiến hành 4 lần). Ngoài ra, hai bên tiến hành tham vấn chính trị thường kỳ cấp Thứ trưởng Ngoại giao và cấp Cục, Vụ trong khuôn khổ hợp tác giữa hai Bộ Ngoại giao.

Hai Bên đồng quan điểm về nhiều vấn đề quốc tế và khu vực, phối hợp chặt chẽ và ủng hộ nhau trên các diễn đàn quốc tế như Liên hợp quốc, APEC, ARF...; đẩy mạnh hợp tác trong khuôn khổ ASEAN - Nga. Cấp cao ASEAN - Nga lần hai đã diễn ra thành công tại Hà Nội tháng 10/2010. Việt Nam đã hỗ trợ tích cực để Nga chính thức được kết nạp vào ASEM tháng 10/2010 và tham gia Cấp cao Đông Á từ năm 2011.

Chuyến thăm lần đầu tiên của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đến Liên bang Nga vào năm 2014 đã có những tính tích cực rõ rệt. Chuyến thăm của Tổng bí thư năm 2014 là nhằm thúc đẩy sự triển khai đồng bộ, toàn diện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình và hợp tác phát triển. Qua chuyến đi này, Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ trương nhất quán của Việt Nam là gìn giữ và tăng cường mối quan hệ thủy chung đối với bạn bè truyền thống, đó là Liên bang Nga. Điều này đã giúp thúc đẩy, củng cố hơn nữa sự hợp tác nhiều mặt của hai quốc gia trong tình hình mới.

Chuyến thăm lần thứ hai của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đến Liên bang Nga vào năm 2018 càng có ý nghĩa đặc biệt hơn nữa. Tổng bí thư đã nhấn mạnh rằng, Việt Nam luôn coi Liên bang Nga là đối tác ưu tiên hàng đầu trong chính sách của mình. Chuyến thăm lần hai của Tổng bí thư làm sâu sắc hơn mối quan hệ toàn diện giữa Việt Nam – Liên bang Nga nói chung, giữa lãnh đạo của Việt Nam với người đứng đầu nước Nga nói riêng, khi Tổng thống V. Putin vừa tái đắc cử nhiệm kỳ mới của mình vào tháng 3/2018.

Chiều ngày 19/11/2018, Thủ tướng Liên bang Nga Medvedev trong chuyến thăm của mình đến Việt Nam đã có dịp hội kiến Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân. Chủ tịch Quốc hội Việt Nam, Nguyễn Thị Kim Ngân tiếp tục khẳng định Việt Nam luôn đánh giá cao vai trò của Liên bang Nga đối với khu vực và quốc tế. Và đặc biệt, Việt Nam tiếp tục coi quan hệ với Liên bang Nga là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của mình. Đây là sự ủng hộ chính trị to lớn đối với nước Nga trong chiến lược “Hướng Đông” của mình khi tăng cường sự ảnh hưởng của mình tại khu vực Đông Nam Á.

Ngoài ra, hướng ưu tiên của Việt Nam trong quan hệ với đối tác chiến lược Nga còn có hợp tác quân sự, kỹ thuật quân sự quốc phòng và an ninh. Nga và Việt Nam có mục đích cao nhất trong chính sách đối ngoại là bảo đảm chủ quyền và độc lập, hai nước cũng hết sức quan tâm tăng cường hợp tác chặt chẽ và cùng có lợi trong lĩnh vực này. hai bên tích cực hợp tác trong việc hiện đại hoá tiềm lực quốc phòng của Việt Nam, trang bị cho Quân đội nhân dân Việt Nam những thiết bị kỹ thuật và vũ khí hiện đại.

Việt Nam và Nga duy trì Ủy ban liên Chính phủ về hợp tác kỹ thuật quân sự cấp Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, đã tiến hành được 13 khoá họp kể từ năm 1999 (Khóa họp thứ 13 diễn ra tháng 11/2011 tại Việt Nam). Hợp tác khoa học – kỹ thuật tiếp tục được duy trì. Hai nước đã thực hiện gần 60 dự án nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. Hợp tác nghiên cứu khoa học trong khuôn khổ Trung tâm Nhiệt đới tại Việt Nam mang lại nhiều kết quả tích cực.


Chương III. Quan hệ hợp tác trên lĩnh vực kinh tế giữa Việt Nam – Liên bang Nga.

3.1 Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh kinh tế Á – Âu (EAEU FTA)


Hiệp định VN - EAEU FTA (bao gồm: Nga, Belarus, Kazakhstan, Armenia và Kyrgyzstan) được chính thức tuyên bố khởi động đàm phán vào tháng 3 năm 2013 tại Hà Nội. Được sự phê duyệt của Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ của Việt Nam và 5 nước thành viên Liên minh Kinh tế Á - Âu đã được ký chính thức Hiệp định VN - EAEU FTA vào ngày 29 tháng 5 năm 2015 tại Cộng hòa Kazakhstan.

Ngày 27 tháng 7 năm 2016, Ủy ban kinh tế Á - Âu đã có Công thư gửi phía Việt Nam thông báo về việc các nước thành viên của Liên minh kinh tế Á - Âu đã hoàn tất thủ tục trong nước cần thiết để Hiệp định VN - EAEU FTA chính thức có hiệu lực từ ngày 05 tháng 10 năm 2016.

Theo cam kết tại Hiệp định VN - EAEU FTA, về tổng thể hai Bên sẽ dành cho nhau mức mở cửa thị trường hàng hóa chiếm khoảng 90% số dòng thuế, tương đương trên 90% kim ngạch thương mại song phương hiện tại, đây cũng là cơ sở để thương mại song phương Việt Nam - LB Nga có thể tăng trưởng mạnh mẽ hơn thời gian tới hướng tới năm 2020. Ngoài ra, hai Bên cam kết gia tăng hợp tác trong nhiều lĩnh vực như phòng vệ thương mại, quy tắc xuất xứ, quản lý hải quan, các rào cản kỹ thuật (TBT), các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS), mua sắm Chính phủ, sở hữu trí tuệ, phát triển bền vững,... nhằm thuận lợi hóa tối đa thương mại giữa hai Bên.

Ngày 29 tháng 6 năm 2017, Bộ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam và Bộ trưởng phụ trách thương mại Ủy ban Kinh tế Á - Âu đã chủ trì phiên họp đầu tiên của Ủy ban hỗn hợp về thực thi Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á - Âu (UBHH về thực thi VN - EAEU FTA). Trước đó, phiên họp cấp kỹ thuật UBHH về thực thi VN - EAEU FTA đã diễn ra từ ngày 19 - 22 tháng 6 năm 2017 tại Hà Nội.

Hai Bộ trưởng đã đánh giá các kết quả tích cực VN - EAEU FTA đã mang lại trong 7 tháng đầu tiên từ khi có hiệu lực. Theo số liệu của phía Liên minh Kinh tế Á - Âu (EAEU), thương mại hai chiều đã tăng khoảng 27% so với cùng kỳ trong giai đoạn này. Điều đáng chú ý là kim ngạch xuất nhập khẩu đã tăng đối với không chỉ các mặt hàng đã được cắt giảm thuế quan ngay về 0% từ khi Hiệp định có hiệu lực mà ngay cả mặt hàng đang được cắt giảm thuế quan theo lộ trình.

Phía Việt Nam thông báo thống kê về việc cộng đồng doanh nghiệp đã tận dụng các ưu đãi của VNEAEU FTA. Cụ thể, để tận dụng các ưu đãi nêu trên của Hiệp định, từ khi VN - EAEU FTA có hiệu lực cho đến cuối tháng 7 năm 2017, Việt Nam đã cấp 9.908 bộ Giấy chứng nhận xuất xứ mẫu EAV (C/O EAV) cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang EAEU với tổng kim ngạch đạt 354,3 triệu USD, chủ yếu là dệt may, giày dép, thủy sản, nông sản, điện thoại và linh kiện. Tuy nhiên, nói chung tỷ lệ sử dụng C/O EAV không cao (khoảng 20%). Các mặt hàng có tỷ lệ tận dụng C/O EAV cao để xuất khẩu sang EAEU bao gồm: giày dép (54,3%), rau quả (59,2%), thủy sản (69,1%), gạo (69,3%), hạt tiêu (75,5%) và dệt may (76,1%). Về phía EAEU, theo số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam, từ khi VN - EAEU FTA có hiệu lực cho cuối tháng 7 năm 2017, các dòng hàng nhập khẩu áp dụng mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam có xu hướng tăng. Cụ thể, trong 3 tháng cuối năm 2016, có 25 dòng hàng có kim ngạch nhập khẩu theo Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) mẫu EAV với tổng kim ngạch khoảng 44 triệu USD, tương đương khoảng 12% của tổng kim ngạch nhập khẩu từ EAEU. Trong khi đó, trong 7 tháng đầu năm 2017 các con số này đã tăng vọt lên 65 dòng hàng với tổng kim ngạch nhập khẩu khoảng 305 triệu USD, tương đương trên 23%. Các mặt hàng được hưởng lợi chủ yếu là: lúa mỳ (100%), ngô (88%), phân bón các loại (25%), nhựa và các sản phẩm nhựa (29,2%); giấy và các sản phẩm giấy (23,6%), hợp kim nhôm (40,3%); ô tô chở hàng (46,7%);….

Ngoài ra, hai Bên đã thống nhất phương hướng và các hoạt động hợp tác cụ thể cần được thực hiện trong thời gian tới trong các lĩnh vực: thương mại hàng hóa, xuất xứ hàng hóa, cạnh tranh, phòng vệ thương mại, vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật, …. Hai Bên cũng thống nhất sẽ phối hợp xây dựng hệ thống chứng nhận và xác minh xuất xứ điện tử và hoàn thành trước cuối năm 2018.

Nga vốn là thị trường chính trong Liên minh kinh tế Á – Âu và đồng thời cũng là thị trường truyền thống của hàng hóa Việt Nam, thị trường này cũng tương đối “dễ tính” trong khâu tuyển chọn mẫu mã, chất lượng so với nhiều nước châu Âu và một số doanh nghiệp Việt Nam đang hưởng lợi từ ưu thế này. Hiện thị trường Nga đang rất cần các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu như thủy hải sản, bánh kẹo, cà phê, rau củ quả và các mặt hàng như dụng cụ y tế, quần áo, giày dép, chăn màn, đồ gỗ… Mặc dù kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Nga hàng năm không ngừng tăng nhưng nhu cầu từ phía Nga đối với hàng hóa của Việt Nam vẫn còn rất lớn.

Theo ông Ivan Gumnikov, đại diện Thương vụ Liên bang Nga tại Việt Nam, sau khi hiệp định này có hiệu lực, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm dệt may Việt Nam vào Liên minh kinh tế Á – Âu sẽ tăng 50%.

Ngoài ra, FTA này cũng xem xét vấn đề đầu tiên là giảm rào cản thuế quan cho hàng dệt may của Việt Nam, nên nhóm hàng này sẽ đến được người tiêu dùng tại thị trường Nga nhờ lợi thế lớn về ưu đãi thuế quan so với các nước không tham gia FTA này khi xuất khẩu sang Nga.

Theo số liệu của Hải quan Việt Nam, năm 2016, thương mại hai chiều giữa Việt Nam và EAEU đạt 3,04 tỷ USD, tăng 23% so với năm 2015. Năm 2017, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EAEU đạt 3,9 tỷ USD, tăng 28,3% so với năm 2016. Trong đó, LB Nga chiếm hơn 90% tổng kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và EAEU.

Hiệp định thương mại tự do song phương Việt Nam- Liên minh kinh tế Á-Âu đã có hiệu lực đã tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp hai nước tăng cường hợp tác thương mại và đầu tư. Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh khẳng định, việc FTA giữa Việt Nam - EAEU có hiệu lực đánh dấu một bước ngoặt lớn trong tiến trình hội nhập sâu rộng của Việt Nam với các nước lớn trên thế giới.

            Tháng 10/2018, sau hai năm ký kết Hiệp định Thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á - Âu (EAEU), đã diễn ra một cuộc Hội thảo với chủ đề “Hai năm thực hiện Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á - Âu: Kết quả và triển vọng” do Đại sứ quán Việt Nam tại LB Nga và Viện Kinh tế, Viện Hàn lâm Khoa học LB Nga, đã phối hợp tổ chức. Bà Lê Thị Thanh Lý, Trưởng phòng Kinh tế, Đại sứ quán Việt Nam tại LB Nga, nhận định “FTA Việt Nam - EAEU là một văn kiện có ý nghĩa chiến lược, mở ra trang mới trong quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và EAEU nói chung và với từng nước thành viên nói riêng[15].

Phó Giáo sư A. Pylin, Viện Kinh tế, Viện Hàn lâm Khoa học LB Nga, cũng đồng ý với nhận định này và đánh giá “nhìn chung việc thực hiện FTA giữa EAEU và Việt Nam đã mang lại những kết quả tích cực cần ghi nhận, tạo sự khác biệt trong cán cân thương mại giữa các quốc gia tham gia hiệp định, trước hết là mối quan hệ kinh tế thương mại song phương giữa Việt Nam với Kazakhstan, LB Nga và Belarus[16].

            Tại hội thảo, các đại biểu cũng nêu rõ, mặc dù EAEU nói chung và LB Nga nói riêng mong muốn thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế thương mại đầu tư với Việt Nam nhưng giữa hai bên còn một số tồn tại cản trở hợp tác kinh tế thương mại song phương.

Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Việt Nam và ASEAN của Viện Viễn Đông, Viện Hàn lâm khoa học Nga Vladimir Mazyrin nhận định: "Vấn đề thanh toán bằng đồng nội tệ, bởi việc thanh toán bằng đồng đô-la Mỹ gây khó khăn cho cả hai phía, nhất là trong bối cảnh Nga đang phải chịu áp lực trừng phạt cấm vận từ Phương Tây. Bên cạnh đó, vấn đề vận chuyển hàng hoá do vị trí địa lý xa xôi khiến chi phí tăng cao và chất lượng sản phẩm giảm sút. Ngoài ra, việc doanh nghiệp hai nước thiếu thông tin về chính sách đầu tư, kinh doanh, thị trường, cũng như chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ còn chưa được quan tâm đúng mức là những tồn tại từ lâu ảnh hưởng đến hiệu quả hợp tác song phương[17].

Một thực tế khác cũng được nhắc tới trong hội thảo là doanh nghiệp Nga hiện quan tâm nhiều hơn đến thị trường phương Tây (như EU, Mỹ), trong khi ở châu Á mới chỉ hướng đến các thị trường lớn như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc…

Có thể nói, Hội thảo là cơ hội để giới chuyên môn đánh giá quá trình triển khai thực hiện Hiệp định trong hai năm qua, chỉ ra những tồn tại, hạn chế cần khắc phục, cũng như đề ra giải pháp, góp phần để Hiệp định thật sự mang lại lợi ích kinh tế - thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và EAEU.

3.2 Quan hệ hợp tác trên lĩnh vực thương mại


-                     Giai đoạn 1991 - 2000
Tình hình hoạt động xuất khẩu hàng hóa giai đoạn này có nhiều thăng trầm. Trong 3 năm 1992 đến 1994, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Nga có xu hướng tăng dần, nhịp độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân trong năm đạt 36%/năm. Năm 1995, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước lại giảm xuống, chỉ bằng xấp xỉ 60% kim ngạch của năm 1994. Nhưng đến năm 1996, thì kim ngạch xuất nhập khẩu giữa 2 nước lại tăng lên 20% so với năm trước.

Nhịp độ tăng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam và liên bang Nga trong cả giai đoạn 1991-1996 là rất thấp, nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm chỉ đạt 6,4%. Đây là mức tăng thấp nhất trong suốt những năm hai nước có quan hệ thương mại với nhau.

Nguyên nhân là do:
+        Trong những năm 1991-1993, quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước bị ngưng trệ chủ yếu là do chính sách đối ngoại của liên bang Nga, theo đó, mọi quan hệ kinh tế của liên bang Nga ưu tiên tập trung tới quan hệ với các nước châu Âu – Đại Tây Dương và các nước phương Tây, những nước mà trước đây liên bang Nga chưa chú trọng quan hệ thương mại.

+       Việt Nam vẫn còn nợ Nga, vì thế Nga chưa coi là đối tác để làm ăn.

+       Các điều kiện buôn bán giữa hai nước đã thay đổi một cách căn bản: Phương thức thanh toán thay đổi từ nhờ thu tiền thành mở tín dụng bằng Rub chuyển nhượng. Trong khi đó Rub chuyển nhượng là một khái niệm quy ước giữa 2 nước từ 1990, bị các công ty Nga tùy tiện tính theo tỷ giá riêng khi họ tham gia đấu thầu để nhận hàng trả nợ. Những công ty Nga thắng thầu, theo quy định phải mở tính dụng thư và vay vốn lãi suất cao, nhưng họ không đủ khả năng hoặc không chịu vay, nếu có mở tín dụng thư bằng Rub chuyển nhượng thì lại ép các nhà xuất khẩu Việt Nam phải hạ từ 30 – 50% giá đã xuất trước đây để bù lại lãi suất ngân hàng và các rủi ro khác.

          +       Tình hình kinh tế liên bang Nga biến động và sa sút, không ổn định, lạm phát cao, đồng Rub mất giá, nhiều rủi ro cao.

Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam Liên bang Nga giai đoạn 1997 đến 2000 thì có xu hướng tăng liên tục qua các năm, tuy nhiên mức độ tăng không đồng đều, cá biệt có năm 1999 kim ngạch xuất nhập khẩu lại giảm đi so với năm trước. Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam và Nga giai đoạn này tăng lên là nhờ sự tăng nhanh của kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam, trong khi kim ngạch nhập khẩu cũng có xu hướng tăng nhưng tăng chậm và thiếu ổn định hơn.

Nhịp tăng bình quân của kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam – Nga trong giai đoạn 1997-2000 là 8%, cao hơn so với giai đoạn 1991-1996. Như vậy, cả về kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa hay về kim ngạch ngoại thương cũng đã có bước phát triển. Tuy nhiên trong cán cân thương mại giữa hai nước Việt Nam vẫn là nước nhập siêu với tỷ lệ kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ Nga, tỷ lệ là 69,2% so với tỷ lệ xuất là 30,8%.

Những kết quả đạt được chủ yếu là do:
+       Kinh tế Nga đã tương đối ổn định, lạm phát bị đẩy lùi kể từ sau khi Tổng thống Nga Putin trở thành quyền Tổng thống, đồng Rub đã kìm được đà mất giá và phục hồi, môi trường kinh doanh được cải thiện. Doanh nghiệp Việt Nam sau một thời gian cũng thích nghi với điều kiện kinh doanh của nước Nga mới.
+       Đồng thời cuộc khủng hoảng tài chính châu Á tháng 7/1997 đã khiến cho Việt Nam cần xem xét lại chiến lược thị trường của mình theo hướng đa dạng hóa và đa phương hóa có chú trọng đến các thị trường truyền thống và quen thuộc thay vì chỉ các nước láng giềng.

-                     Giai đoạn 2001 - 2012
Về quan hệ thương mại, kim ngạch thương mại hai chiều giữa 2 nước trong giai đoạn này tăng trung bình 15%/ năm, trong đó thời kỳ 2001-2005 tăng bình quân 12%, thời kỳ 2006-2012 tăng 17%. Số liệu thống kê của Bộ Công thương Việt Nam cho thấy, nếu năm 2000 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước chỉ đạt 367,1 triệu USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu sang Nga là 122,5 triệu USD, nhập khẩu từ Nga là 244,6 triệu USD, thì đến năm 2004 thì con số tương ứng là 887,3 triệu USD (tăng 142%), 216,1 triệu USD (tăng 77%) và 671,2 triệu USD (tăng 174%). Năm 2005, tương ứng là 1,02 tỷ USD (tăng 15,4%), xuất khẩu 252 triệu USD (tăng 17%), nhập khẩu 766 triệu USD (tăng 14,1%) so với năm 2004.

Năm 2009, mặc dù chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu song kim ngạch thương mại hai chiều vẫn đạt hơn 1,82 tỷ USD (tăng 80%), xuất khẩu đạt 414,9 triệu USD (tăng 64,7%) và nhập khẩu đạt 1,41 tỷ USD (tăng 84,6%) so với năm 2005. Năm 2010, tổng kim ngạch thương mại hai chiều đạt 2,32 tỷ USD (tăng 28%), xuất khẩu đạt 755 triệu USD (tăng 82,3%) và nhập khẩu đạt 1,75 tỷ USD (tăng 24,1%) so với năm 2009.

Cơ cấu hàng hóa trao đổi giữa hai nước nhìn chung trong hơn 10 năm khá ổn định và đều theo chiều hướng phát huy được các lợi thế so sánh của mỗi nước. Nga đã xuất sang Việt Nam chủ yếu là thép cán, các máy móc thiết bị công nghiệp, ô tô và phụ tùng ô tô, phân bón … Việt Nam đã xuất lại sang Nga chủ yếu là hàng tiêu dùng, may mặc, giày dép, thủ công mỹ nghệ, các loại nông sản, hải sản, … Tuy nhiên, thì cán cân nhập siêu vẫn nghiên về phía Việt Nam. Mức nhập siêu 2005 là 515 triệu USD, năm 2008 là 297 triệu USD, năm 2009, 2010 là 1 tỷ USD.

Mặc dù quan hệ thương mại song phương Việt Nam – Nga tiến triển rất khả quan như vậy, song nếu so với nhu cầu và tiềm năng phát triển của hai nước thì vẫn còn chưa tương xứng. Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước chỉ mới chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng kim ngạch ngoại thương của mỗi nước. Đối với Nga là 0,3% và của Việt Nam là 1,5%. So sánh với quan hệ thương mại Nga – Trung Quốc, Việt Nam – EU, Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam – Mỹ thì tốc độ tăng trưởng thương mại hai chiều Nga – Việt vẫn còn quá thấp.

Năm 2009, tổng kim ngạch buôn bán song phương giữa Việt Nam – EU là 14,8 tỷ USD, Việt Nam – Mỹ là trên 14 tỷ USD, Việt Nam – Trung Quốc là trên 21 tỷ USD. Với kết quả này cho thấy, mục tiêu đề ra theo Nghị quyết của khóa họp thứ 13 Ủy ban Liên chính phủ Việt – Nga về hợp tác kinh tế, thương mại và khoa học kỹ thuật (10/2009) nhằm nâng kim ngạch thượng mại 2 chiều lên 3 tỷ USD năm 2010 đã thất bại, và triển vọng đạt 10 tỷ USD vào năm 2020 là rất khó khăn. Thực tế thì theo báo cáo của hải quan Việt Nam thì kim ngạch xuất nhập khẩu song phương Việt – Nga 2018 chỉ đạt 4,57 tỷ USD.

Nguyên nhân là do hai nước vẫn còn rào cản do trình độ phát triển kinh tế thị trường theo xu hướng tự do hóa thương mại còn thấp ở cả tầm vĩ mô (nhà nước) và cả tầm vi mô (các doanh nghiệp).

Tuy đạt được sự tiến bộ trong hợp tác kinh tế từ 2 phía, song những kết quả đạt được còn rất khiêm tốn so với tiềm năng và thế mạnh của mỗi nước và chưa tương xứng với quan hệ đối tác chiến lược. Nguyên nhân là mặc dù phía Việt Nam luôn tìm kiếm cơ hội, đề xuất hợp tác liên doanh sản xuất tại Việt Nam và chuyển giao công nghệ trong các lĩnh vực công nghiệp mà Nga có thế mạnh: chế tạo máy, thiết bị vận chuyển, thiết bị năng lượng, luyện kim, khai thác mỏ, nhưng hợp tác Việt – Nga lúc này về cơ bản chỉ kế thừa các dự án, những định hướng và hình thức đã có từ thời Liên Xô, chưa hình thành các dự án mới có tầm cỡ quốc gia. Bên cạnh đó, doanh nghiệp hai nước tham gia đầu tư chủ yếu vẫn là doanh nghiệp nhỏ và vừa, quy mô nguồn vốn có hạn, dè chừng quá mức rủi ro, chưa mạnh dạn đi sâu tìm hiểu nhu cầu hợp tác, tận dụng cơ hội, vượt qua rào cản địa lý để hợp tác.

-         Giai đoạn 2012 – nay.
Kim ngạch thương mại Việt Nam – Liên bang Nga trong giai đoạn này phát triển một cách vượt bậc. Có thể thấy sự phát triển kim ngạch thương mại song phương giữa hai quốc gia kể từ sau khi nâng đối tác chiến lược toàn diện, hợp tác được phát triển theo chiều sâu, ngày càng toàn diện. Có thể nói, đây cũng là kết quả của một quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế của Liên bang Nga nói riêng và Liên minh kinh tế Á – Âu.

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Nga trong giai đoạn 2012-2015 đạt bình quân 2,48 tỷ USD/năm, với tốc độ tăng trưởng chậm, điều này chưa xứng tầm với tiềm năng của cả hai bên.

Cụ thể năm 2012, giao thương hàng hóa giữa hai nước đạt được sự tăng trưởng cao nhất trong cả giai đoạn, với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 2,45 tỷ USD, tăng 23% so với năm 2011.

Năm 2013, thương mại hàng hóa giữa hai nước vẫn đạt được sự tăng trưởng dương nhưng tốc độ tăng trưởng thấp hơn năm 2012, chỉ tăng 12,6%, với kim ngạch đạt 2,76 tỷ USD.

Năm 2014 và năm 2015 là hai năm gặp khó khăn của nhiều mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu chủ lực nên kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam – Nga bị suy giảm, không đạt được tốc độ tăng trưởng dương. Về xuất khẩu, khó khăn ở các nhóm mặt hàng: máy vi tính, sản phẩm điện tử, điện thoại & linh kiện; hàng dệt may; giày dép các loại. Ở chiều ngược lại, nhập khẩu các nhóm hàng xăng dầu các loại, sắt thép các loại, máy móc thiết bị dụng cụ & phụ tùng đều bị suy giảm. Như vậy, tính chung tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2014 là 2,55 tỷ USD, giảm 7,6% so với một năm trước đó. Năm 2015, giá dầu thô trên thị trường thế giới giảm mạnh làm cho kim ngạch buôn bán 2 chiều giữa Việt Nam và Nga tiếp tục giảm sâu, giảm 14,2% so với năm 2014 và chỉ đạt 2,18 tỷ USD.

Kể từ năm 2010 trở về trước, Việt Nam luôn nhập siêu từ thị trường Nga. Từ năm 2011 đến nay, cán cân thương mại giữa hai thị trường đã đổi chiều. Việt Nam xuất siêu sang thị trường Nga, nguyên nhân chủ yếu do tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu nhanh hơn và giảm thì giảm chậm hơn tốc độ tăng nhập khẩu. Tính chung từ năm 2011 đến năm 2015, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân đạt 11,6%/năm, trong khi nhập khẩu giảm bình quân 5,7% /năm. Năm 2015, cán cân thương mại Việt Nam với Nga thặng dự gần 700 triệu USD.

Kim ngạch thương mại Việt – Nga đã đạt 3,55 tỷ USD năm 2017, tăng 31% so với năm 2016. Số liệu thống kê của hải quan Việt Nam, kim ngạch xuất nhập khẩu song phương Việt Nam - LB Nga năm 2018 ước đạt 4,57 tỷ USD, tăng 28,6% so với năm 2017.

Hiệp định EAEU có hiệu lực từ ngày 5/10/2017 là "chất xúc tác" để tạo bước đột phá cho quan hệ thương mại giữa hai nước. Hiện hai bên đang tiếp tục phối hợp chặt chẽ, triển khai hiệu quả hơn nữa FTA này, phấn đấu tạo bước đột phá trong thương mại, đầu tư, nâng kim ngạch thương mại song phương lên 10 tỷ USD trong năm 2020. Hiện LB Nga, cũng như EAEU đang tích cực mở rộng quan hệ thương mại, đầu tư với Cộng đồng ASEAN trong chiến lược tăng cường quan hệ với khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Trong khi đó, Việt Nam đang tích cực phát triển các chuỗi cung ứng hàng hóa sản xuất và tiêu dùng trong khu vực này.


3.3 Hợp tác trên lĩnh vực đầu tư


Về hợp tác đầu tư: Hợp tác giữa hai nước trong giai đoạn 2001-2012 có bước phát triển tích cực hơn so với giai đoạn trước những năm 2000.

Trong giai đoạn 2001 – 2007, số dự án vốn FDI của Nga tại Việt Nam khá là ít. Số vốn đăng ký 2004 chỉ có 38,3 triệu USD, năm 2006 là 14,5 triệu USD, năm 2007 giảm còn 12 triệu USD. Nhưng từ 2008, Nga có 59 dự án với tổng vốn đăng ký là 376,36 triệu USD, đứng thứ 25 trong tổng số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Năm 2009, mặc dù bị tác động bởi suy thoái kinh tế nhưng Nga vẫn đầu tư 2 dự án vào Việt Nam với vốn là 329,8 triệu USD, đứng thứ 5 trong số 35 nước đầu tư trực tiếp vào Việt Nam 2009. Các dự án FDI của Nga chủ yếu hợp tác trong các lĩnh vực: dầu khí, thủy điện, nhiệt điện, than – khoáng sản, khai thác mỏ bô-xít, …

Còn về phần Việt Nam, thì từ năm 2008 thì bắt đầu tăng dần những dự án đầu tư vào nước Nga, từ chỗ có 12 dự án với vốn 100 triệu USD thì 2010 đã tăng lên 18 dự án với tổng vốn là 1,7 tỷ USD, chủ yếu là dầu khí, ngân hàng và dịch vụ.

Tính đến năm 2012, tổng vốn đầu tư của Nga vào Việt Nam, chưa kể Xí nghiệp Liên doanh “Vietsovpetro”, đạt trên 900 triệu USD với việc triển khai 78 dự án. Về số lượng đầu tư của Việt Nam tại Nga thì hiện còn rất khiêm tốn, mới chỉ có 14 dự án, chủ yếu là các cơ sở sản xuất thực phẩm, may mặc và dịch vụ với 77,8 triệu USD.

Tính lũy kế đến tháng 8/2016, Liên bang Nga có 111 dự án đầu tư vào Việt Nam, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng 1,05 tỷ USD và xếp thứ 23/112 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam

Tính đến nay, các nhà đầu tư Liên bang Nga đã đầu tư vào 13/18 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế của Việt Nam, trong đó vốn đầu tư tập trung chủ yếu vào ngành khai khoáng. Liên bang Nga có 7 dự án trong lĩnh vực này với tổng vốn đầu tư là 581,2 triệu USD (chiếm 55% tổng vốn đầu tư của Liên bang Nga tại Việt Nam).

Thống kê cho thấy, khi đầu tư vào Việt Nam, vốn đầu tư của Liên bang Nga đa số tập trung vào hình thức liên doanh với gần 500 triệu USD trên tổng số 39 dự án (chiếm 44,6% tổng vốn đầu tư của Liên bang Nga tại Việt Nam).

          Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh có 4 dự án với 381,2 triệu USD vốn đăng ký (chiếm 36,2% tổng vốn đăng ký của Liên bang Nga tại Việt Nam). Hình thức 100% vốn nước ngoài có 68 dự án với tổng vốn đầu tư là 201,5 triệu USD (chiếm 19% tổng vốn đăng ký của Liên bang Nga tại Việt Nam).  

Số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài cho thấy, năm 2018, LB Nga có 8 dự án đầu tư mới, 1 dự án tăng vốn và 40 dự án góp vốn mua cổ phần của doanh nghiệp trong nước với tổng vốn đăng ký đạt 42,63 triệu USD, đứng thứ 28 trong tổng số 112 quốc gia và lãnh thổ có vốn cam kết đầu tư nhiều vào Việt Nam. Tính lũy kế đến nay, LB Nga có 123 dự án đầu tư vào Việt Nam còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký hơn 932 triệu USD, cao thứ 24 trong số 130 quốc gia và vùng lãnh thổ có vốn đầu tư vào Việt Nam.

Tại LB Nga đã có 23 dự án của Việt Nam đăng ký hoạt động với tổng vốn đầu tư khoảng 2,9 tỷ USD, trong đó chủ yếu là đầu tư của các dự án của Liên doanh Rusvietpetro, Công ty cổ phần Đầu tư Trung tâm thương mại Hà Nội – Mátxcơva và Tổ hợp chăn nuôi bò sữa và chế biến tại Mátxcơva của TH True Milk. 

Tóm lại, trong mối quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga, cả hai quốc gia chủ yếu hướng đến mối quan hệ hợp tác một công bằng, bình đẳng và tôn trọng lợi ích của nhau. Trên cơ sở đó, cả doanh nghiệp của hai quốc gia đều đầu tư vào các thế mạnh hiện có của mình, ví dụ như Liên bang Nga tập trung vào việc khai thác dầu khí, thăm dò dầu khí, địa chất, đóng giàn khoan, đóng tàu, làm dịch vụ cảng. Hiện tại, trong các dự án đầu tư của Nga tại Việt Nam, Liên doanh Dầu khí Vietsopevtro được nhắc tới nhiều nhất như là một điển hình thành công trong hợp tác đầu tư Việt Nam - Liên bang Nga.

Thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài, hầu hết các dự án của Liên bang Nga tập trung trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, với 37 dự án có tổng vốn đầu tư đăng ký 1,13 tỷ USD, chiếm 32,7% về số dự án và 57,4% tổng vốn đầu tư đăng ký. lĩnh vực khai khoáng đứng thứ 2, chiếm 29,5% tổng vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh vực kinh doanh bất động sản đứng thứ ba với tổng số vốn đầu tư, chiếm 3,7% tổng vốn đầu tư.


Chương IV. Thành Tựu, Hạn chế và triển vọng cho quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên bang Nga.

4.1 Thách tựu và Hạn chế


4.1.1 Thành tựu

- Khôi phục quan hệ thương mại giữa hai nước.
Sau khi Liên Xô sụp đổ, quan hệ Việt Nam – liên bang Nga nói chung, quan hệ thương mại nói riêng, đứng trước những khó khăn nghiêm trọng. Quan hệ kinh tế, thương mại bị thu hẹp một cách nhanh chóng, hầu hết các hợp tác truyền thống theo Nghị định thư trước đó đều bị phá vỡ.

Ngay từ năm 1991, Việt Nam và liên bang Nga đã thống nhất quyết định việc buôn bán giữa hai nước được thực hiện trên cơ sở giá cả thế giới và bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi thay cho những nguyên tắc hợp tác trước đây. Liên bang Nga tiếp tục nhập khẩu nông sản và một số hàng tiêu dùng của Việt Nam, đồng thời cung cấp cho Việt Nam xăng dầu, thép, bông và một số sản phẩm đặc biệt, giúp Việt Nam hoàn chỉnh nhà máy thủy điện Hòa Bình và một số công trình khác.

Trên thực tế, các dự định gặp rất nhiều khó khăn. Tổng khối lượng trao đổi hàng hóa năm 1991 bị sụt giảm nghiêm trọng, chỉ bằng 7% mức 1990. Có thể thấy, những nỗ lực không ngừng của cả hai quốc gia trong việc tái lập lại kênh thương mại, trao đổi hàng hóa là những nỗ lực không ngừng từ cả hai phía chính phủ, thông qua việc tạo nên một khuôn khổ pháp lý mới, thích hợp cho sự hợp tác và phát triển của doanh nghiệp và nhân dân hai nước trong điều kiện hoàn cảnh mới.

-                     Phát triển hoạt động ngoại thương, tăng trưởng cả về kim ngạch, cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hóa.
Trong bối cảnh mới – chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở cả hai nước, quan hệ thương mại giữa hai nước đã dần hồi phục và phát triển. Nhìn vào cơ cấu ngoại thương và cơ cấu mặt hàng nhập khẩu giai đoạn 1992 – 1996, trong hai năm 1992, 1993, tỷ trọng xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa giữa hai nước tương đối cân bằng, đây là hai năm duy nhất Việt Nam có tỷ trọng xuất khẩu sang liên bang Nga tương đương với tỷ trọng nhập khẩu hàng hóa từ Nga.

Trong giai đoạn 1997-2000, hoạt động trao đổi hàng hóa giữa Việt Nam – Nga có bắt đầu chiều hướng tăng nhanh lên với mức 8%/năm, còn giai đoạn 2001-2012 là phát triển nhanh chóng rõ rệt với tỷ lệ tăng bình quân là trên 30%/năm. Điều này cho thấy những nỗ lực không nhỏ của hai phía, đặc biệt đối với Việt Nam trong việc khôi phục và phát triển quan hệ thương mại với Nga, mặt khác chứng tỏ doanh nghiệp cả hai nước đã thích nghi và từng bước tiến tới phát triển sâu rộng với trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường.

Nhìn chung trong giai đoạn này, xuất nhập khẩu hàng hóa sang liên bang Nga đã tăng dần về số lượng lẫn kim ngạch, nhiều mặt hàng có kim ngạch cao như gạo, cà phê, rau quả, chè, … Chủng loại hàng hóa xuất khẩu ngày càng phong phú hơn và được tiêu thụ trên nhiều vùng khác nhau của nước Nga, không chỉ còn ở mỗi khu vực trung tâm.

Mối quan hệ hai nước ngày càng phát triển, điều này được minh chứng qua những chuyến thăm lẫn nhau giữa các nguyên thủ quốc gia, nhiều Hiệp định thương mại được ký kết. Sự hợp tác nhiều mặt giữa hai nước về các lĩnh vực năng lượng, hóa chất, nông nghiệp, y tế, giáo dục, … Mối quan hệ giữa các chính quyền địa phương hai nước cũng được cải thiện đáng kể nhờ đó các khó khăn trong việc giao dịch kinh tế, thương mại dần được tháo gỡ, có thể dành thêm nhiều ưu đãi cho nhau.

-                     Việt Nam phát huy được những đặc điểm nền sản xuất hàng hóa của mình.
Thông qua việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa những mặt hàng có thế mạnh vào thị trường Nga với kim ngạch ngày càng tăng và đa chủng loại, Việt Nam đã và đang tiếp cận ngày một sâu rộng vào thị trường với đa dạng nhu cầu về hàng hóa tiêu dùng và có thế mạnh chế tạo tư liệu sản xuất. Xuất phát từ cơ cấu sản xuất của mỗi quốc gia, Việt Nam đã nhập từ Nga những hàng hóa phục vụ cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng, đặc biệt là những hàng hóa mà Việt Nam chưa có khả năng chế tạo như các nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị cho các ngành công nghiệp và năng lượng. Đồng thời, Việt Nam xuất khẩu sang liên bang Nga những hàng hóa có khả năng sản xuất và xuất khẩu hiệu quả.

-                     Khôi phục và phát triển hợp tác thương mại với Nga đã góp phần tác động tích cực đến phát triển cơ sở vật chất và năng lực một số ngành công, nông nghiệp Việt Nam.
Phát triển xuất khẩu đối với các mặt hàng nông nghiệp như cà phê, chè, cao su, tiêu, điều, hoa quả tươi khô, … cũng như hàng thủ công mỹ nghệ; hàng công nghệ phẩm như dệt may, giày dép, đồ chơi, … đã tạo ra sức ép đổi mới không ngừng về mẫu mã lẫn chất lượng, đồng thời đẩy nhanh tốc độ cải tiến thiết bị, công nghệ, công tác quản lý, tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu khá sôi động trong những ngành nghề đó cũng đã góp phần không nhỏ giải quyết công ăn việc làm, tạo cơ hội nâng cao kỹ thuật và năng lực làm việc của người lao động.

Cũng chính nhờ đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp, chế biến gia công, mà tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta ngày một nhanh hơn, tạo ra sự thay đổi trong công – nông nghiệp và dịch vụ.

Việc tham gia vào kinh doanh ở thị trường ngoài nước đặc biệt là thị trường có sự tham gia của nhiều quốc gia đã giúp các doanh nghiệp Việt Nam học hỏi, tích lũy được nhiều kinh nghiệm để tiếp tục phát triển thương mại quốc tế.

Như vậy, để đạt được những thành tựu trên đây trong hoạt động thương mại giữa hai nước, một mặt là do chính phủ hai nước đã có những nỗ lực hợp tác chung, tạo điều kiện thuận lợi để cùng nhau phát triển, hai là sự cố gắng không ngừng của các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh đã có những chuyển biến vô cùng tích cực.

4.1.2 Hạn chế

- Quy mô và kim ngạch xuất khẩu hàng hóa giữa hai nước vẫn còn thấp.
Quy mô xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam và liên bang Nga còn quá nhỏ bé so với khả năng và nhu cầu của hai nước. Sau các sự kiện Liên Xô tan rã, đã thay đổi đột ngột một cách căn bản cả về quy mô, tính chất và hình thức của một đối tác, bạn hàng vô cùng lớn của Việt Nam đã làm cho quan hệ thương mại giữa hai nước sụt giảm nghiêm trọng.

Mặc dù kim ngạch hàng năm đều có tăng lên, song vẫn còn thấp và tăng tương đối chậm. Từ năm 1992 đến nay, các hai nước đều đã có những cố gắng nỗ lực cải thiện quan hệ thương mại, song vẫn còn ở mức độ hạn chế và chưa tương xứng tiềm năng kinh tế của mỗi nước.

-                     Có sự chuyển dịch lớn trong cơ cấu trong xuất nhập khẩu, nhưng vẫn còn chậm.
Trong quan hệ ngoại thương, trước đây Việt Nam vẫn luôn là nước nhập siêu , tuy nhiên, những năm gần đây Việt Nam đã chuyển sang xuất siêu, nhưng vẫn còn khá chậm.

Trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam cũng đã có những thay đổi theo chiều hướng tích cực, nhưng quy mô còn nhỏ. Việt Nam cũng đã xuất khẩu đến Nga một số mặt hàng có hàm lượng công nghệ cao như máy tính, linh kiện, xe đạp, đồ gỗ mỹ nghệ, hàng dệt may cao cấp … tuy nhiên nhìn chung sản phẩm nông, lâm, thủy sản, hàng tiểu thủ công nghiệp là chiếm đa số.

-                     Hình thức xuất nhập khẩu còn đơn giản.
Việc trao đổi hàng hóa với liên bang Nga phần nhiều là do các tư thương, doanh nghiệp tư nhân của người Việt định cư tại Nga thực hiện bằng con đường buôn bán nhỏ lẻ, thiếu tổ chức và liên kết với nhau theo một chiến lược hay định hướng kinh doanh nhất định. Làm ăn vẫn mang tính “phi vụ”, “đánh nhanh thắng nhanh”.

Hình thức hợp tác kinh tế Việt – Nga chưa gắn với các hợp tác kinh tế khác, đặc biệt là dạng đầu tư, liên doanh, liên kết … Do đó, doanh nghiệp và hàng hóa Việt Nam chưa có điều kiện đứng vững ở thị trường Nga.

4.2 Triển vọng


Nước Nga có vị trí đặc biệt đã được thử thách cả trong lịch sử phát triển đất nước và trong trái tim mỗi người Việt Nam. Nước Nga đã mở ra con đường và hỗ trợ những nguồn lực mạnh mẽ và vô giá cho công cuộc đấu tranh giành độc lập và phát triển, khẳng định vị thế cho Việt Nam có được ngày hôm nay.

67 năm qua, Việt Nam nhất quán coi Liên bang Nga là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại. Hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1950, trở thành Đối tác chiến lược năm 2001 và nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện tháng 7.2012. Quan hệ quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Nga đã không ngừng phát triển mạnh mẽ và ngày càng đi vào chiều sâu. Trong thời gian tới với sự nỗ lực, tin cậy và nền tảng quan hệ đối tác toàn diện quan hệ hai nước sẽ tiếp tục phát trẻn sâu sắc, chất lượng và tin cậy hơn nữa.

Các lĩnh vực hợp tác ngày càng mở rộng và củng cố, sâu sắc hơn, cả về chính trị, kinh tế, quốc phòng - an ninh, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, văn hóa và du lịch…Cơ chế trao đổi đoàn và thăm viếng, tiếp xúc song phương và cơ chế tham vấn, đối thoại chiến lược thường xuyên ở các cấp, đặc biệt là cấp cao, đang được duy trì hiệu quả. Lãnh đạo cao nhất của hai nước đã thường xuyên sang thăm và được chào đón nồng nhiệt ở mỗi nước. 

Hai bên không có bất đồng quan điểm về bất kỳ vấn đề nào; đồng thời, luôn hợp tác và ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn đa phương như Liên hợp quốc, APEC, ASEM, ASEAN-Nga… Ủy ban liên chính phủ Việt-Nga về hợp tác kinh tế-thương mại và khoa học-kỹ thuật đã được thành lập và đã trải qua Khóa họp lần thứ 19 (tháng 9.2016) với trọng tâm là tiếp tục triển khai Danh mục các nhiệm vụ ưu tiên; trong đó không chỉ duy trì hiệu quả hợp tác về dầu khí, mà còn mở rộng sang lĩnh vực lắp ráp, sản xuất ôtô.

Chính quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại giữa hai quốc gia chính là mục tiêu, lợi ích trong mối quan hệ hợp tác giữa hai quốc gia. Nga cần những lợi ích trong trao đổi, hợp tác kinh tế với Việt Nam để thực hiện mục tiêu chiến lược “Hướng Đông” của mình tại khu vực Đông Nam Á và châu Á- Thái Bình Dương. Còn đối với Việt Nam thúc đẩy quan hệ hợp tác với Nga chính là tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế xã hội, thúc đẩy quá trình hội nhập, giao lưu kinh tế quốc tế giữa Việt Nam với các quốc  gia, tổ chức kinh tế trên thế giới. Nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.

Kim ngạch thương mại hai bên đạt 2,7 tỉ USD năm 2016, tăng 25% so với năm 2015; bốn tháng đầu năm 2017 tiếp tục tăng 30% và đạt 1,1 tỉ USD. Nga là thị trường lớn đứng thứ 15 về nguồn FDI và thứ 10 về nguồn khách du lịch nước ngoài vào Việt Nam. Du khách Nga đến Việt Nam đạt hơn 430.000 lượt người năm 2016, tăng 12,8% so với năm 2015.

Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và các Cty dầu khí hàng đầu của Nga như Zarubezneft, Gazprom, Rosneft đã và đang thực hiện các hoạt động liên doanh dầu khí hai nước trên lãnh thổ của nhau. Hai bên đã ký kết và phê chuẩn Hiệp định và Nghị định thư về hợp tác trong lĩnh vực dầu khí trong khuôn khổ các liên doanh Rusvietpetro và Vietsovpetro nhằm tạo điều kiện cho các liên doanh này tiếp tục hoạt động hiệu quả trong thời gian tới.

Số lượng học bổng Chính phủ Liên bang Nga trao cho Việt Nam đã đạt gần 1.000 suất/năm. Hải sản, hoa quả, cà phê, chè, hạt điều của Việt Nam rất được mong đợi ở Nga. Ngược lại, lúa mì, dầu thực vật, sản phẩm thịt, đồ ngọt, đồ uống có cồn… cũng được ưa chuộng tại Việt Nam.

Đặc biệt, FTA giữa Liên minh Kinh tế Á-Âu (EAEU) gồm 5 nước (Nga, Armenia, Belarus, Kazakhstan và Kirgizia, với tổng GDP là 2.200 tỉ USD và 183 triệu dân) với Việt Nam đã có hiệu lực triển khai từ tháng 10.2016. Đây là Hiệp định đầu tiên mà EAEU ký với một nước ngoài khối và cũng là hiệp định đầu tiên Việt Nam ký với một khối, một thị trường chung, góp phần tăng cường trao đổi thương mại, dịch vụ, đầu tư song phương và mở rộng quan hệ hợp tác trong khu vực, làm đa dạng hóa thị trường và đặt nền tảng hiện thực hóa mục tiêu kim ngạch thương mại Việt Nam-Liên bang Nga tăng bình quân 18-20%/năm, đạt 10-12 tỉ USD vào năm 2020. Thông qua Việt Nam, Nga và EAEU có thêm cơ hội mở rộng quan hệ hợp tác với Cộng đồng ASEAN - một thị trường thống nhất, phát triển năng động với dân số trên 600 triệu người, GDP đạt khoảng 2.500 tỉ USD.

Chính những tiềm năng to lớn trong nền kinh tế của hai nước, trong thời gian tới chắc chắn quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và Nga sẽ tiếp tục phát triển trong thời gian tới trên tất các các lĩnh vực trong quan hệ kinh  tế giữa hai nước về đầu tư, thương mại, hợp tác trao đổi.


KẾT LUẬN


Quan hệ thương mại Việt Nam – Nga là sản phẩm kế thừa của mối quan hệ truyền thống và hữu nghị giữa Việt Nam – Liên Xô được xây dựng trong suốt hơn 30 năm của thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Ngày nay mối quan hệ thương mại này phát triển trong điều kiện mỗi nước đều xây dựng mô hình kinh tế của mình theo hướng thị trường, tự do hóa kinh tế, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng trên phạm vi thế giới.

Việc nhìn lại chặng đường phát triển của mối quan hệ Việt – Nga từ 1991 đến 2012 sẽ giúp chúng ta thấy rõ được những thành tựu cũng như là hạn chế trong việc hợp tác thương mại giữa hai nước. Để từ đấy, rút ra được:

          Trước hết là những nhận thức, sự hiểu biết về vị trí, vai trò của thị trường của nước Nga trong hoạt động thương mại quốc tế, và cả trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, để từ đấy có thể đi đến kết luận rằng thị trường của liên bang Nga vẫn là một thị trường đầy tiềm năng, và là đối tác chiến lược trong chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa hợp tác của Đảng và Nhà nước ta.

          Việc nhận thức được những điểm yếu kém của quan hệ hợp tác thời kỳ trước năm 1992, khi quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Liên Xô chủ yếu chỉ được điều tiết bằng các Hiệp định thương mại và Nghị định thư ký kết hàng năm đã rút ra cho chúng ta những bài học kinh nghiệm quý báu về quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế, là cơ sở, là nền tảng cho công cuộc đổi mới quan hệ hợp tác thương mại quốc tế về sau.

          Từ việc nhận thức đúng mối quan hệ hợp tác thương mại giai đoạn 1991 – 2012 đã chỉ ra được những thành tựu và hạn chế cũng như những nguyên nhân của nó, đã giúp chúng ta có thêm được những bài học kinh nghiệm về hợp tác kinh tế quốc tế, đặc biệt là các thị trường truyền thống của Việt Nam đối với các bạn bè của mình tại khu vực không gian hậu Xô viết hay các quốc gia Đông Âu.

          Đồng thời, cũng có thể rút ra được những phương hướng cần thiết cho công cuộc hợp tác, phấn đấu thúc đẩy phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước theo phương hướng đến năm 2020. Để từ đây, có khả năng đối chiếu, so sánh, nhìn nhận rằng con đường tăng cường hợp tác thương mại hiện nay mà hai quốc gia đang theo đuổi đã đạt được chưa, đạt được tới đâu.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Quốc Hùng – Nguyễn Thị Thư, Lược sử Liên bang Nga 1917-1991, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr.278.
2. Anderei P. Tsygankov (2010), Russia, s Foreign Policy - Change and Continuity in National Identity (second edition), Rowman & Littlefield Publishers Inc., UK, tr.55.
3. Hà Mỹ Hương (2000), “Nước Nga trên trường quốc tế: hôm qua, hôm nay và ngày mai”, Nghiên cứu Quốc tế, tr.24.
4. Hồ Châu (1997), Sự điều chỉnh chính sách của các nước lớn đối với Châu Á - Thái Bình Dương từ sau Chiến tranh Lạnh và vấn đề đặt ra với Việt Nam, Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr.67.
5. Cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), “Tuyên bố chung giữa Việt Nam - Liên bang Nga ngày 25/8/1998”, Nhân dân ngày 26/8/1998.
6. Cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), “Tuyên bố về quan hệ đối tác chiến lược giữa nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga”, Nhân dân ngày 02/3/2001.
7. Ngô Tất Tố (2001), “Quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga phát triển mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực”, Nhân dân, ngày 28/2/2001.
8. Ngô Quế Anh, Việt Nam – Thành công đầu tiên của Nga trong “Tháng Hướng Đông, Tạp chí Cộng sản, số 13/9/2018
9. NAM ĐÔNG - QUẾ ANH, FTA giữa EAEU và Việt Nam tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế song phương, Báo Nhân dân, ngày 20/10/2018






[1] Số liệu thống kê kinh tế - xã hội của Việt Nam 1985-1995.
[2] Nguyễn Quốc Hùng – Nguyễn Thị Thư, Lược sử Liên bang Nga 1917-1991, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr.278.
[3] Anderei P. Tsygankov (2010), Russia, s Foreign Policy - Change and Continuity in National Identity (second edition), Rowman & Littlefield Publishers Inc., UK, tr.55.
[4] Hà Mỹ Hương (2000), “Nước Nga trên trường quốc tế: hôm qua, hôm nay và ngày mai”, Nghiên cứu Quốc tế, tr.24.
[5] Anderei P. Tsygankov (2010), Russia, s Foreign Policy - Change and Continuity in National Identity (second edition), Rowman & Littlefield Publishers Inc., UK, tr.9
[6] Hồ Châu (1997), Sự điều chỉnh chính sách của các nước lớn đối với Châu Á - Thái Bình Dương từ sau Chiến tranh Lạnh và vấn đề đặt ra với Việt Nam, Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr.67.
[7] Hồ Châu (1997), Sự điều chỉnh chính sách của các nước lớn đối với Châu Á - Thái Bình Dương từ sau Chiến tranh Lạnh và vấn đề đặt ra với Việt Nam, Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr.69.
[8] Cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), “Tuyên bố chung giữa Việt Nam - Liên bang Nga ngày 25/8/1998”, Nhân dân ngày 26/8/1998, tr.7
[9] Như trên.
[10] Ngô Tất Tố (2001), “Quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga phát triển mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực”, Nhân dân, ngày 28/2/2001, tr. 5
[11] Cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), “Phát triển quan hệ nhiều mặt với Việt Nam là một trong những hướng ưu tiên của Liên bang Nga”, Nhân dân, ngày 28/2/2001, tr.5
[12] Như trên.
[13] Cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), “Tuyên bố về quan hệ đối tác chiến lược giữa nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga”, Nhân dân ngày 02/3/2001, tr.7.
[14] Ngô Quế Anh, Việt Nam – Thành công đầu tiên của Nga trong “Tháng Hướng Đông, Tạp chí Cộng sản, số 13/9/2018.

[15] NAM ĐÔNG - QUẾ ANH, FTA giữa EAEU và Việt Nam tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế song phương, Báo Nhân dân, ngày 20/10/2018

[16] Như trên.
[17] Như trên.