ĐỊA CHÍNH TRỊ VÀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM TỪ 1991 - NAY
1. Vị trí địa lý Việt Nam
Về vị trí địa lí tự nhiên, Việt Nam nằm ở
rìa phía Đông, kéo dài suốt sườn Đông và sườn Nam của bán đảo Đông Dương; chiếm
phần lớn diện tích của bán đảo và ở vị trí trung tâm của khu vực Đông Nam Á (Vũ
Tự Lập, 2009). Việt Nam vừa gắn liền với lục địa Á - Âu vừa tiếp giáp với Biển
Đông và thông ra Thái Bình Dương. Việt Nam gồm hai bộ phận lãnh thổ trên đất liền
và vùng biển, thềm lục địa thuộc chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia. Trên
đất liền, Việt Nam có hệ tọa độ địa lí: Vĩ độ 23º23' Bắc - 8º34'
Bắc, kinh độ 102º09' Đông - 109º24' Đông. Ở ngoài khơi,
các đảo kéo dài dến vĩ độ 6º50' Bắc, và từ 101º Đông đến 117º20'
Đông.
Nhà nghiên cứu Lê Đức An (2012) đã chỉ ra
rằng vị trí địa lí của Việt Nam có 5 đặc điểm mà những đặc điểm này chi phối
toàn bộ các lợi ích và thách thức đối với sự hình thành vị thế của Việt Nam, cụ
thể:
-
Việt Nam nằm hoàn toàn trong vành
đai nhiệt đới, thuộc địa ô nhiệt đới gió mùa Đông Nam Á;
-
Việt Nam nằm trong các đai sinh
khoáng Tây Thái Bình Dương và Địa Trung Hải, nằm trong vùng chịu ảnh hưởng của
các vòng cung núi lửa và động đất, cũng là nơi chuyển tiếp của thế giới sinh vật
với nhiều khu hệ khác nhau;
-
Việt Nam có phần đất liền nằm ở
phía Đông bán đảo Trung Ấn, thuộc góc Đông Nam của lục địa Á - Âu; có phần biển
gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm ở trung tâm Biển Đông, nối liền Thái
Bình Dương với Ấn Độ Dương;
-
Việt Nam nằm sát Trung Quốc, là một
quốc gia cực lớn, đang phát triển kinh tế mạnh mẽ và có quan hệ văn hóa - lịch
sử rất lâu đời;
-
Việt Nam nằm ở trung tâm khu vực
Đông Nam Á, đồng thời ở trung tâm khu vực của các quốc gia phát triển năng động
và mới nổi, gồm có Đông Á, Nam Á và châu Úc.
Trong đó, 2 đặc điểm đầu tiên có thể là điểm
chung của nhiều quốc gia trong khu vực; nhưng 3 đặc điểm sau mang tính đặc thù
cho Việt Nam, có thể khái quát ngắn gọn thành 3 đặc điểm: vừa mang tính lục địa
vừa mang tính biển, tiếp giáp với Trung Quốc và nằm gần các trung tâm phát triển
lớn.
Về mặt tự nhiên, Việt Nam là quốc gia có sự
phân hóa đa dạng về tự nhiên, phân hóa Bắc - Nam, Đông - Tây, cao - thấp; nhưng
cũng có một số đặc điểm chung thể hiện tính thống nhất của môi trường địa lí tự
nhiên. Với vị trí nằm giữa nhiều hệ thống tự nhiên, Việt Nam có tài nguyên sinh
vật phong phú, đa dạng từ sinh vật nhiệt đới, á nhiệt đới và ôn đới. Là quốc
gia giáp biển, Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển; đồng thời ở vị trí tiếp giáp giữa lục
địa và đại dương, Việt Nam vừa mang tính lục địa, vừa mang tính biển.
Việt Nam cũng nằm trên vành đai sinh
khoáng Thái Bình Dương, có sự giao thoa với vành đai sinh khoáng Địa Trung Hải
nên có nhiều tài nguyên khoáng sản đa dạng. Tuy nhiên, vị trí tự nhiên này cũng
đem lại không ít khó khăn: Việt Nam nằm trong vùng có nhiều thiên tai như bão,
lũ lụt, hạn hán. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, tác động tiêu cực của những
hiện tượng thiên nhiên bất thường này ngày càng trầm trọng và gây ra thiệt hại
lớn cho con người, ảnh hưởng đến sự phát triển của quốc gia.
2. Vị trí địa lý tác động đến tư tưởng địa chính trị của Việt Nam
Trong lịch sử phát triển của Việt Nam, việc
dựa vào địa thế, địa hình của đất nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc luôn được
ông cha ta quan tâm, chú ý. Những chuyện lập kinh đô, dời đô nhằm tạo thế phát
triển cho đất nước, việc lập phòng tuyến bảo vệ Tổ quốc đều có tính đến các yếu
tố thiên thời địa lợi. Với việc kinh thành Thăng Long – kinh thành Huế, luôn được
thiết kế xoay mặt về hướng Nam, chúng ta có thể thấy tư tưởng địa chính trị cổ
điển của Việt Nam là hướng đất nước trông ra biển. Nhiều tướng lĩnh đã có những
công trình đúc kết kinh nghiệm về cách dụng binh, ví như Trần Quốc Tuấn với
Binh thư yếu lược có thể coi là một trong những nhà địa chiến lược cổ điển quan
trọng của Việt Nam. Có thể nói, trong lịch sử, ông cha ta đã biết khai thác các
lợi thế địa chính trị để phát triển đất nước. Đây chính là tiền đề cho tư duy địa
chính trị hiện đại của nước ta sau này.
Ngày nay, khi nói đến những lợi thế địa
chính trị của nước ta, có ý kiến dùng khái niệm “tài nguyên địa chính trị” của
Việt Nam. Trong tinh thần này, các nhà nghiên cứu đề cập đến vị trí của Việt Nam trong
khu vực Đông Nam Á, với tư cách là đầu mối trung chuyển giữa Ấn Độ Dương với
Thái Bình Dương. Việt Nam nằm tiếp giáp biển Đông - một "cầu nối" thương mại đặc
biệt quan trọng trên bản đồ hàng hải thế giới. Trong 39 tuyến đường hàng hải hiện
đang hoạt động trên thế giới thì có 29 tuyến đi qua địa phận biển Đông. Trong
10 tuyến hàng hải lớn nhất thế giới thì khu vực biển Đông có 1 tuyến đi qua và
5 tuyến có liên quan. Chiếm ¼ lưu lượng tàu hoạt động trên các vùng biển
của thế giới.
Đối
với VN, dọc theo 3.260km bờ biển Đông có nhiều khu vực xây dựng cảng biển,
trong đó, một số nơi có thể xây dựng cảng nước sâu như: Cái Lân và một số điểm
ở khu vực vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, Lạch Huyện, Đình Vũ, Cát Hải, Đồ Sơn,
Nghi Sơn, Cửa Lò, Hòn La, Vũng Áng, Chân Mây, Đà Nẵng, Dung Quất, Vân Phong,
Cam Ranh, Vũng Tàu, Thị Vải… Ngoài ra, cùng với sự hình thành mạng lưới cảng biển, các tuyến
đường bộ, đường sắt dọc ven biển và nối với các vùng sâu trong nội địa (đặc biệt
là các tuyến đường xuyên Á) cho phép vùng biển và ven biển VN có khả năng chuyển
tải hàng hóa nhập khẩu tới mọi miền đất nước một cách nhanh chóng và thuận lợi.
Hàng hóa xuất và nhập khẩu của VN sẽ không cần phải quá cảnh qua những nước
láng giềng. Ngược lại, hàng hóa của vùng Đông Bắc Thái Lan, Lào, Campuchia và tỉnh
Vân Nam (Trung Quốc) xuất khẩu sang những nước khác có tiềm năng quá cảnh và tạm
thời lưu kho trên lãnh thổ VN, Thái Lan, Myanmar và tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc).
Tuy nhiên, như tác giả Vũ Hồng Lâm phân tích, “tài nguyên địa
chính trị” này của Việt Nam không hoàn toàn tự nhiên mà có, nó là kết quả của một
quá trình nỗ lực phát triển đất nước. Đồng thời cũng không chỉ có mỗi Việt Nam
mới có thứ tài nguyên đó. Có nghĩa là trong khi tài nguyên địa chính trị có thể
tạo điều kiện cho đất nước phát triển, nhưng xét trong bối cảnh cạnh tranh gay
gắt hiện nay trong khu vực và trên phạm vi toàn cầu, nếu sự phát triển đất nước
không đủ cạnh tranh trên trường quốc tế, thì tài nguyên địa chính trị đó sẽ bị
giảm giá trị và bị các nước khác vượt qua. Ví dụ như vị trí trung chuyển của nước
ta khó mà cạnh tranh nổi với vị thế của Hồng Kông và Singapore[1].
Đó là một thực tế phù hợp với bản chất và đặc trưng của
lĩnh vực địa chính trị. Bởi vì, địa chính trị không phải là một tài sản cố định,
mà là kết quả của sự tương tác giữa không gian địa lý với quyền lực chính trị,
đồng thời nó còn là kết quả của mối tương tác giữa các mối quan hệ quốc tế
trong không gian địa lý giữa các quốc gia. Vì thế, tài nguyên địa chính trị
không phải là vĩnh viễn bất biến, mà có thể biến đổi và cũng ảnh hưởng đến các
lĩnh vực khác.
Nhận thức được tầm quan trọng của địa chính trị, Đảng và
Nhà nước Việt Nam luôn coi đó là một trong những động lực cho công cuộc xây dựng
và phát triển đất nước. Tư tưởng địa chính trị của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
dựa trên cơ sở tư tưởng địa chính trị của các bậc cha anh đó là hướng đất nước
trông ra biển. Qua các kỳ Đại hội, Đảng đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng của
công cuộc phát triển các vùng biên giới và hải đảo, coi đó là một phần của chiến
lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
Những bước đi đầu tiên phải kể đến Chỉ thị số 20-CT/TW ngày
22/9/1997 về đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010, Đại hội IX của Đảng
đã đặt ra những định hướng phát triển kinh tế, trong đó chú trọng đến các khu vực
biển và hải đảo. Đảng chỉ rõ: “Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế biển
và hải đảo, phát huy thế mạnh đặc thù của hơn 1 triệu km2 thềm lục địa. Tăng cường
điều tra cơ bản làm cơ sở cho các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế biển.
Đẩy mạnh nuôi trồng, khai thác, chế biến hải sản; thăm dò, khai thác và chế biến
dầu khí … tiến mạnh ra biển và làm chủ vùng biển. Phát triển tổng hợp kinh tế
biển và ven biển, khai thác lợi thế của các khu vực cửa biển, hải cảng để tạo
thành vùng phát triển cao, thúc đẩy các vùng khác. Xây dựng căn cứ hậu cần ở một
số đảo để tiến ra biển khơi. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với bảo vệ an
ninh trên biển”[2].
Đại hội X năm 2006, trong Báo cáo Chính trị, Đảng ta nhắc lại
nhiệm vụ phát triển kinh tế biển là “Xây dựng và thực hiện chiến lược phát
triển kinh tế biển toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm; sớm đưa nước ta trở
thành quốc gia mạnh về biển trong khu vực, gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh
và hợp tác quốc tế”[3].
Tuy nhiên, đây chưa phải là những lý thuyết địa chính trị thực sự, mà chỉ là những
định hướng mang tính chất địa chiến lược ở tầm vĩ mô.
Tiếp tục tư tưởng này, đến 9 tháng 2 năm 2007, Hội nghị
trung ương lần 4 khóa X của Đảng đã ra nghị quyết quan trọng đầu tiên về chiến
lược biển, đó là Nghị quyết 09-NQ/TW về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm
2020”. Trong nghị quyết này Đảng đã nhận định đúng rằng: Thế kỷ XXI được thế
giới xem là Thế kỷ của đại dương. Các quốc gia có biển đều quan tâm đến biển
và coi trọng việc xây dựng chiến lược biển, Đảng đã sử dụng thuật ngữ “địa
chính trị” theo nghĩa tích cực: “Khu vực Biển Đông, trong vùng biển Việt
Nam, có vị trí địa kinh tế và địa chính trị rất quan trọng. Lịch sử dựng nước
và giữ nước của dân tộc đã chứng minh rõ vị trí, vai trò đó”[4].
Cũng theo nghị quyết, đây là chiến lược biển toàn diện đầu tiên do yêu cầu của
tình hình mới của đất nước là “phát triển kinh tế phải gắn liền với bảo vệ
chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia đối với biển đảo và vùng trời Tổ quốc, (…)
nhằm phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ Quốc”[5]. Trong nghị quyết này, với
quan điểm chỉ đạo và mục tiêu tổng quát: “Đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta
trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền,
quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho đất nước giàu mạnh”[6].
Như vậy là Đảng ta đã đưa ra những định hướng chiến lược, nhiệm vụ và giải pháp
cụ thể để thực hiện thành công chiến lược quan trọng này.
Có thể nói, đây là một chuyển biến quan trọng trong nhận thức
về biển, phù hợp với quan điểm về biển hiện nay trên thế giới. Việc Đảng ra nghị
quyết về chiến lược biển là một tiến bộ rất lớn trong vấn đề nhận thức về biển.
Trên cơ sở này các nhà khoa học, các nhà chuyên môn sẽ có nhiệm vụ nghiên cứu để
vạch ra các chiến lược và chính sách cụ thể, chỉ ra các nhiệm vụ địa chiến lược
và địa chính trị liên quan đến biển để đảm bảo cho đất nước thực hiện được hai
mục tiêu chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó cũng chính là những cơ sở
lý luận để chúng ta phát triển lĩnh vực nghiên cứu địa chính trị.
3. Yếu tố Việt Nam trong khu vực địa chính trị Châu Á – Thái Bình Dương
Có thể nói, Việt Nam có một vị trí địa chiến lược cực kỳ quan
trọng, nằm ngay vị trí trung tâm của khu vực Đông Nam Á, là cầu nối quan trọng
giữa Nam Á – Đông Nam Á với Đông Bắc Á, chính vì thế Việt Nam đóng một vai trò
rất quan trọng trong việc xây dựng hệ thống an ninh khu vực, điều đó có nghĩa
là sẽ ảnh hưởng tất cả các chiến lược của các cường quốc. Trong thế kỷ XX, vai
trò đó đã được thể hiện rất nhiều lần thông qua Thế chiến thứ 2; cuộc Chiến
tranh Đông Dương lần 1 và lần 2; Cuộc chiến lật đổ chế độ diệt chủng của Khmer
Đỏ; Cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung 1979 hay hiện nay là các cuộc xung
đột tại Biển Đông.
Kể
từ năm 1949, sau khi Cách mạng Trung Hoa thành công với sự ra đời của nước Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa, chủ nghĩa xã hội đã trở thành một hệ thống mang tính
toàn cầu, là đối trọng của chủ nghĩa tư bản. Sau khi thực dân Pháp thất bại tại
Điện Biên Phủ 1954, thì Mỹ bắt đầu xây dựng chính sách của mình theo học thuyết
Domino. Người Mỹ cho rằng, nếu miền Nam Việt Nam được những người cộng sản miền
Bắc giải phóng hoàn toàn, thì có lẽ cả Đông Nam Á này sẽ rơi vào vòng ảnh hưởng
của Liên Xô và Trung Quốc.
Như vậy, vị thế của Việt Nam trong bối
cảnh của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng vô sản đã đặt
chúng ta đứng trước một thách thức to lớn, trở thành nơi giành giật của 2 siêu
cường, mà trong đó cả 2 siêu cường này đều đại diện cho một học thuyết địa
chính trị như “Sức mạnh trên biển” của Mahan đối với Hoa kỳ, hay “miền đất trái
tim” của Mackinder đối với Liên Xô. Và mục đích chính vẫn là giành ưu thế chính
trị tuyệt đối của mình nhằm xóa bỏ siêu cường đối lập.
Tình hình các phức tạp hơn khi khối Xã
hội chủ nghĩa mất đi sự đoàn kết, đặc biệt cuối những năm 70 thế kỷ XX, việc
Trung Quốc bắt tay với Mỹ để chống ảnh hưởng Liên Xô ở Đông Nam Châu Á. Vị trí
và vai trò của Trung Quốc có thể xem như là “miền đất trái tim” của châu Á.
Chính vị thế như vậy, khiến Trung Quốc tự cho mình là “quốc gia trung tâm” của
thiên hạ, có đầy đủ mọi nguồn lực để tồn tại và phát triển để mà thách thức vị
trí siêu cường của cả Mỹ và Liên Xô. Việt Nam một lần nữa, dưới tác động của
mâu thuẫn chiến tranh Lạnh, lại tiếp tục trở thành tâm điểm của cuộc tranh
giành ảnh hưởng của các cường quốc. Các cường quốc trong xuyên suốt thế kỷ XX
luôn muốn kiểm soát Việt Nam hoặc chí ít, xây dựng được một hệ thống các quốc
gia vệ tinh bao quanh, làm suy giảm tầm ảnh hưởng và sức mạnh của Việt Nam
trong khu vực.
Yếu tố Việt Nam càng đặc biệt trong bối cảnh
của những quan hệ kinh tế mới giữa Trung Quốc và khối ASEAN, trong cuộc cạnh
tranh ảnh hưởng mới giữa Trung – Mỹ. Cần phải hiểu rõ rằng, ảnh hưởng của Trung
Quốc đối với khu vực Đông Nam Á không thể xảy ra nếu họ không kiểm soát được Việt
Nam. Còn đối với Mỹ, lợi ích về tự do hàng hải ở Biển Đông đã trở thành lợi ích
then chốt, giúp đảm bảo chính sách về an ninh, kinh tế và quân sự của mình ở
Châu Á – Thái Bình Dương, cho nên Mỹ coi việc tranh giành ảnh hưởng Việt Nam với
Trung Quốc, đồng thời dùng Việt Nam để kìm chế thế lực Trung Quốc tại Đông Nam
Á. Chuyên gia nghiên cứu chính trị Mỹ, S. Huntington trong những năm 90, đã từng
soạn thảo kịch bản cho cuộc chiến tương lai giữa Mỹ và Trung Quốc. Theo ông, Mỹ
có nhiều lợi thế nếu xung đột này bắt đầu tại Việt Nam[7].
Những ví dụ trên đã chứng minh rằng Việt
Nam là một quốc gia chiếm vị trí rất quan trọng trong các chiến lược an ninh –
kinh tế của bất kỳ của các cường quốc nào. Chính vì thế các cường quốc như
Trung Quốc, Pháp, Nhật Bản, Mỹ , Liên Xô đều tìm cách tranh giành ảnh hưởng tại
Việt Nam, mỗi giai đoạn có một cách thức khác nhau, trong đó bao gồm có cả lập
chế độ bù nhìn (như Nhật, Pháp, Mỹ) hay can dự vào công việc nội bộ, hoặc tương
trợ liên minh với Việt Nam (trường hợp Liên Xô).
Kể từ sau khi Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa Đông Âu lâm vào cơn khủng hoảng về kinh tế - chính trị - xã hội trầm
trọng, rồi dẫn đến sụp đổ vào năm 1991. Đồng thời, chiến tranh Lạnh cũng đi đến
hồi kết, toàn cầu hóa ngày càng ảnh hưởng sâu rộng thì yếu tố kinh tế càng trở
nên quan trọng. Cho nên các hoạt động của các nước cường quốc cũng bắt đầu thay
đổi, chuyển từ hoạt động vũ lực sang hình thức tranh giành ảnh hưởng bằng các
chính sách kinh tế đối với Việt Nam.
Các nước Đông Bắc Á như Trung Quốc, Nhật
Bản, Hàn Quốc đều có trình độ phát triển cao, nhưng lại bị phụ thuộc về mặt tài
nguyên. Trong khi đấy khu vực Đông Nam Á lại là nơi giàu có về mặt tài nguyên,
nhưng lại có trình độ khoa học kỹ thuật tương đối kém hơn. Cho nên các nước Đông
Bắc Á tìm mọi cách liên kết về kinh tế Đông Nam Á. Đầu tàu ở đây là Trung Quốc,
nước vừa tiếp giáp với khu vực Đông Nam Á lại vừa có nhu cầu rất cao đối với
các nguồn tài nguyên của khu vực này.
Sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc
trong những năm qua, đã đưa Trung Quốc từ vị thế cường quốc quân sự khu vực
thành cường quốc kinh tế khu vực, biến Trung Quốc trở thành một thế lực kinh tế
- chính trị có thể gây ra những khả năng thay đổi về mặt an ninh của các quốc
gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Và sự tập trung hóa các nước có nguồn
nguyên liệu xung quanh Trung Quốc như thế, chắc chắn sẽ đi ngược với quyền lợi
của nước Mỹ[8].
Việt Nam với vị trí địa lý đắc địa, lại
tiếp tục trở thành yếu tố quan trọng trong việc tranh giành ảnh hưởng của các
cường quốc tại khu vực này. Việt Nam đã đứng giữa các cường quốc, và rõ ràng,
nước nào giành lấy được yếu tố Việt Nam, nước đó có thể ngăn cản sự bành trướng
chiến lược của đối phương trong khu vực Đông Nam Á. Trung quốc theo dõi rất chặt
chẽ các chính sách của Việt Nam để có thể có những phản ứng kịp thời nhằm đối
phó với một số hoạt động của chính phủ Việt Nam.
Còn các chuyên gia Mỹ thì đánh giá rằng,
mối quan hệ Việt Nam và Trung Quốc vẫn còn rất nhiều những bất đồng lớn, trong
đó là vấn đề chủ quyền đang tranh chấp tại Biển Đông, vì thế Việt Nam rất cần một
“liên minh” để cân bằng cán cân này, vì thế Việt Nam là một “liên minh” tự
nhiên với nước Mỹ. Tức, Mỹ cần thiết phải giành lấy sự ảnh hưởng của mình ở Việt
Nam. Tuy nhiên, giữa Việt Nam và Mỹ cũng còn nhiều bất cập trong mối quan hệ
bang giao, đặc biệt là sự khác biệt về ý thức hệ, áp lực về các chính sách can
thiệp của Mỹ thông qua các chiêu bài như “nhân quyền”, “tự do”. Do đó, đây cũng
là trở ngại để người Mỹ xích lại gần Việt Nam hơn. Mặc dù Mỹ vẫn xem Việt Nam
như yếu tố chính trong vấn đề ngăn cản sự bành trướng của Trung Quốc tại Đông
Nam Á, nhưng Việt Nam chưa bao giờ mong muốn mình trở thành một bộ phận trong
chiến lược chống Trung Quốc của Mỹ[9].
Mặc dù trọng tâm chiến lược của nước
Nga hiện nay là ở Châu Âu, nơi mà cuộc cạnh tranh ảnh hưởng giữa Nga và Nato
bao trùm lên toàn bộ các nước không gian hậu Xô viết. Đồng thời nước Nga cũng bị
ảnh hưởng nặng nề bởi các chính sách cấm vận của Mỹ kể từ khi Nga sáp nhập Cộng
hòa Crime. Cho nên chính sách hiện nay của Chính phủ Nga là hướng vào châu Á,
vào Đông Nam Á, nơi có các thị trường tiềm năng có thể giúp Nga hồi phục nền
kinh tế của mình. Nga đồng thời duy trì mối liên hệ của mình với cả Trung Quốc
và Việt Nam.
Nga với Việt Nam và ASEAN không phải
là láng giềng về mặt địa lý, trong quá khứ Nga cũng không để lại các “dấu tích”
của các cuộc xâm lược thuộc địa khu vực này. Và từ lâu, mối quan hệ giữa Việt
Nam và Liên bang Nga đã là những đối tác quen thuộc và đáng tin cậy. Chiến lược
kinh tế của Nga ở vùng này không chỉ nhắm vào các nguồn nguyên vật liệu, sản phẩm
nông nghiệp mà chủ yếu đó chính là xuất khẩu thiết bị quân sự - nguồn thu ngoại
tệ tương đối của nước Nga. Điều này, có những tác động tích cực đối với các chiến
lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam ở hướng biển. Điều này làm gia tăng sự ảnh hưởng của
Nga trong khu vực, và ít nhiều đụng chạm đến lợi ích của Mỹ, dù không gay gắt
như xung đột Mỹ - Trung.
Như vậy có thể thấy, Việt Nam là nhân
tố rất quan trọng trong bàn cờ địa chính trị Châu Á – Thái Bình Dương hiện nay.
Là địa bàn mà các cường quốc thế giới tranh giành sự ảnh hưởng của mình nhằm kiểm
soát một cách thực tế khu vực Đông Nam Á – nơi có nguồn tài nguyên dồi dào, đáp
ứng đầy đủ nhu cầu nguyên liệu của các nền kinh tế hiện đại, là thị trường khổng
lồ tập trung với hơn 700 triệu dân, là nợp tập trung của ¼ lưu lượng hàng hóa
được vận chuyển qua khu vực Bển Đông . Có thể nói, ai kiểm soát được Đông Nam
Á, có thể thách thức được vị thế của các cường quốc khác.
Điều này đặt ra vấn đề hết sức cấp
bách rằng, Chính phủ Việt Nam cần thiết phải có những chủ trương chính sách Ngoại
giao sao cho phù hợp, nhằm tiến tới hoàn thành được các mục tiêu phát triển
kinh tế biển, chiến lược phát triển biển trong tương lai để đảm bảo công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chúng ta ngày càng vững chắc.
4. Địa chính trị và chính sách đối ngoại của Việt Nam
Địa chính trị là một trong những cơ sở nền
tảng của chính sách đối ngoại của Việt Nam. Lĩnh vực địa chính trị ở đây được đề
cập dưới 2 vấn đề: yếu tố Việt Nam trong địa chính trị khu vực và tư tưởng địa
chính trị lấy phát triển biển làm mục tiêu.
-Tháo gỡ “nút thắt” yếu tố Việt Nam
trong địa chính trị khu vực thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Trước khi Đảng ta định hình đầy đủ một
cách toàn diện về tư tưởng địa chính trị của mình, thì lúc ban đầu chúng ta
nhìn theo chiến lược địa chính trị của các cường quốc. Xác định vai trò và vị
trí Việt Nam trên bản đồ khu vực là cơ sở, là nền tảng để Đảng đề ra những
chính sách đối ngoại phù hợp. Từng bước đổi mới để phục vụ mục tiêu, nhiệm vụ
cuối cùng của công tác đối ngoại là tạo điều kiện hết sức thuận lợi để đất nước
ta phát triển kinh tế - xã hội, nhằm mục đích xây dựng một xã hội dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Sau các sự kiện Liên Xô và khối Đông Âu
lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng cuối những năm 1980. Xuất phát
từ những yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới,
Đảng và Nhà nước ta đã có những sự thay đổi trong chính sách ngoại giao của
mình nhằm đưa đất nước thoát khỏi thế bị bao vây, cô lập, kìm hãm trong chiến
lược chống lại Liên Xô của Mỹ và Trung Quốc. Việt Nam cũng cần phải thoát khỏi
vị trí là yếu tố trong các chiến lược địa chính trị của các cường quốc nhằm
giành quyền kiểm soát khu vực Đông Nam Á.
Vấn đề cấp bách nhất của đường lối đối ngoại
ngay sau Đại hội VI của Đảng (1986) đó là đi đến đàm phán hòa bình với Trung Quốc
và Mỹ. Việt Nam sẵn sàng đàm phán với Trung Quốc vào bất kỳ lúc nào, bất cứ cấp
nào và bất cứ ở đâu nhằm bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, vì lợi ích của
nhân dân hai nước, và vì hòa bình ở khu vực Đông Á. Đồng thời chính phủ Việt
Nam cũng tiến hành xúc tiến, tiếp tục bàn bạc với Mỹ nhằm giải quyết các vấn đề
nhân đạo do chiến tranh để lại và sẵn sàng cải thiện quan hệ với Mỹ vì lợi ích
của hoà bình ổn định ở Đông Nam Á. Việt Nam cũng sẵn sàng đàm phán và giải quyết
triệt để tình hình ở Campuchia.
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh về tầm
quan trọng trong quan hệ đối ngoại với nước láng giềng là Trung Quốc, đặc biệt
là sau khi Hiệp định Paris đã được ký kết vào tháng 10/1991. Đại hội VII của Đảng
đã nhấn mạnh phải giải quyết triệt để vấn đề Campuchia, xem vấn đề Campuchia là
ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của mình trong giai đoạn này. Việt
Nam hy vọng rằng sau khi rút quân đội khỏi Campuchia, thì Mỹ, Trung Quốc và các
nước phương Tây sẽ dở bỏ lệnh cấm vận và bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.
Đồng thời giải quyết vấn đề Campuchia gắn liền với việc phát triển các mối quan
hệ hữu nghị với các nước ASEAN, nhằm làm giảm bớt sự cô lập về kinh tế của Việt
Nam, đồng thời tạo ra môi trường hòa bình, ổn định để tập trung phát triển kinh
tế. Sự kiện Việt Nam gia nhập khối ASEAN đã giải quyết được 2 mục tiêu cơ bản
khi đó là đảm bảo an ninh quốc gia khi đồng minh chủ yếu của Việt Nam là Liên
Xô và khối Đông Âu trước đây đã tan rã và phục vụ nhu cầu cải cách kinh tế
trong nước, đồng thời quyết định này cũng đáp ứng trước sự kiện Trung Quốc bắt
đầu can thiệp vào Biển Đông bằng các hành động quân sự khi Trung Quốc chiếm giữ
bãi đá ngầm Vành Khăn vào năm 1995.
Thành công chính sách đối ngoại của Việt
Nam biểu hiện cao nhất trong giai đoạn 1991-1996 đó là bình thường hóa quan hệ
với Mỹ, tức là chấm dứt sự thù địch đối với một siêu cường. Việc bình thường
hóa quan hệ này mang lại nhiều lợi ích chiến lược trong công tác đối ngoại của
Việt Nam. Trước mắt, thế bao vây và cô lập Việt Nam trên trường quốc tế đã bị
tháo gở, vị thế chiến lược của Việt Nam từ chỗ là trận địa đối đầu giữa 2 hệ thống
Tư bản chủ nghĩa và Xã hội chủ nghĩa đã trở thành nơi tranh giành lợi ích nhằm
kiểm soát khu vực Đông Nam Á; từ chỗ là nơi bị cô lập, bị tiến công, đã trở
thành nơi có thể đầu tư kinh tế, hợp tác về an ninh và quốc phòng. Các sự kiện
trên cho thấy vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được cải thiện,
nó đáp ứng được mục tiêu chiến lược của Việt Nam lúc này là phát triển kinh tế
- xã hội đất nước.
Bước vào thế kỷ thứ XXI, đặc điểm nổi bật
của tình hình thế giới đó là xu thế toàn cầu hóa, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu
hết lên các lĩnh vực, vừa thúc đẩy vừa hợp tác vừa đấu tranh. Bối cảnh tình
hình quốc tế đầu thế kỷ XXI diễn ra khá phức tạp, đặc biệt sự kiện ngày
11/9/2001 đã làm cho toàn thế giới cảm thấy bất an và chia rẽ sâu sắc. Lợi dụng
mối đe dọa mang tên chủ nghĩa nghĩa khủng bố, Mỹ đã phát động cuộc chiến mới,
phân định thế giới thành những nước theo Mỹ hoặc bị Mỹ coi là theo chủ nghĩa khủng
bố. Đồng thời tình hình bất ổn tại Biển Đông ngày càng gia tăng với việc sự trỗi
dậy của Trung Quốc ngày càng mạnh mẽ và có ý đồ thôn tính Biển Đông, nhằm thõa
mãn “cơn khát dầu” và chiến lược vươn ra thế giới, biến Trung Quốc thành một cường
quốc biển, là “miền đất trái tim” của châu Á, có thể đối trọng lại siêu cường Mỹ.
Thực tế một cuộc đua nhằm tranh giành ảnh
hưởng ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đã diễn ra với cường độ ngày một lớn,
cuộc đua đó diễn ra chủ yếu giữa một bên là Trung Quốc, một cường quốc đang trỗi
dậy và bên còn lại là Hoa Kỳ, siêu cường số một từ sau Chiến tranh Lạnh chấm dứt.
Một bên muốn xây dựng trật tự đa phương mới với ưu thế vượt trội và một bên muốn
củng cố quan hệ song phương đồng minh quân sự thông qua mô hình “trục và nan
hoa”. Đứng giữa cuộc cạnh tranh đó là ASEAN, trong đó có Việt Nam. Cuộc đua này
có ảnh hưởng sâu sắc đến hòa bình và hợp tác của khu vực, làm nóng lên các điểm
nóng tiềm ẩn, tác động tiêu cực đến sự thống nhất của ASEAN, gây chia rẽ và
nghi ngờ giữa các quốc gia trong khu vực.
Đứng trước tình hình đó, Hội nghị Trung
ương 8 khóa IX của Đảng đã được triệu tập và thông qua Nghị quyết về “Chiến lược
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Trong đấy nghị quyết 8 vẫn xác định độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cơ bản của cách mạng và cũng là lợi ích
căn bản của quốc gia. Để thực hiện mục tiêu này Việt Nam vẫn chủ trương “lấy
việc giữ vững môi trường hòa bình, ổ định để phát triển kinh tế xã hội, thực hiện
công nghiệp hóa hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa là lợi ích cao nhất
của Tổ Quốc”[10].
Nghị quyết xác định: “Những ai chủ
trương tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp
tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta; Bất kể thế
lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng cần đấu tranh”.
Có thể nói, từ khi Đổi mới, sau nghị quyết
của Bộ Chính trị năm 1988, nghị quyết 8 khóa IX là tài liệu thứ hai có tầm quan
trọng chiến lược trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, xác định nguyên tắc
và phương thức đối ngoại của Việt Nam với tất cả các nước trong khu vực và thế
giới, không phân biệt chế độ chính trị và trình độ phát triển. Trung tướng Nguyễn
Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng trả lòng phỏng vấn ngày 8/1/2011 khẳng định:
“Tôi tin đây là nghị quyết đi vào lịch sử bảo vệ Tổ Quốc trong hòa bình như
Nghị quyết trong chiến tranh chống Mỹ”[11].
Tính đến năm 2006, công cuộc Đổi mới do Đảng
Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã thu được những thành tựu hết sức to
lớn và có ý nghĩa lịch sử, làm thay đổi bộ mặt đất nước, tạo tiền đề và động lực
cho Việt Nam tiến bước nhanh hơn nữa, vững chắc hơn nữa trên con đường công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Ngành ngoại giao Việt Nam đã có những đóng
góp quan trọng và xứng đáng vào thắng lợi chung đó của đất nước.
Quán triệt đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc
tế, Ngoại giao đã trở thành mặt trận quan trọng trong thời bình và góp phần giữ
vững và củng cố môi trường hòa bình, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nâng ca vị thế và uy tín của Việt Nam ở khu vực
và thế giới.
Việt Nam đã thành công trong việc tháo gỡ
nút thắt yếu tố của mình trong địa chính trị khu vực trong thời kỳ chiến tranh
Lạnh. Từ chỗ bị cô lập về chính trị, bao vây cấm vận về kinh tế, Việt Nam đã chủ
động, nỗ lực mở rộng hơn bao giờ hết quan hệ đối ngoại của mình theo hướng đa dạng
hóa, đa phương hóa. Trong hơn 30 năm Đổi mới, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại
giao với 188 quốc gia, có quan hệ buôn bán với 224/255 thị trường của các nước
và vùng lãnh thổ. Đồng thời Việt Nam cũng đã tạo dựng được khuôn khổ quan hệ hợp
tác hữu nghị, ổn định lâu dài và ngày càng đi vào chiều sâu với các nước láng
giềng, khu vực; góp phần đáng kể vào việc duy trì môi trường hòa bình và ổn định
nhằm mục tiêu phát triển kinh tế đất nước.
-Ảnh hưởng tư tưởng địa
chính trị hướng biển đối với chính sách ngoại giao.
Tranh chấp Biển Đông đang ngày càng trở
nên căng thẳng trong những năm gần đây, nhất là giữa Việt Nam và Trung Quốc kể
từ khi Bắc Kinh đưa dàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt
Nam vào tháng 5/2014. Ngoài việc tiếp tục các hoạt động quân sự hóa trên vùng
biển có nhiều tranh chấp, Trung Quốc còn tiến hành các hoạt động gây sức ép đối
với Việt Nam để dừng các dự án khai thác dầu giữa Việt Nam và các đối tác nước
ngoài trên Biển Đông. Nhiều tàu cá của ngư dân Việt Nam đã bị Trung Quốc xua đuổi
trong các vùng biển này.
Nghị quyết về Chiến lược phát triển bền vững
kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030 do Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII
ban hành ngày 22/10/2018 cơ bản là chỉ đạo cơ bản hoàn chỉnh về tư tưởng địa
chính trị hướng biển của Đảng ta. Trong Nghị quyết, Ban chấp hành Trung ương Đảng
nhất trí cho rằng Việt Nam phải trở thành quốc gia “mạnh về biển, giàu từ biển”
và “phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh,
giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.”
Tư tưởng địa chính trị hướng biển Việt Nam được cụ thể hóa
qua hai vấn đề: phát triển kinh tế biển và xây dựng lực lượng
vũ trang trên biển. Do đó mục tiêu của công tác đối ngoại được Đảng và
Nhà nước Việt Nam đề ra là nhằm đảm bảo cho sự phát triển kinh tế đất nước,
trong đó trước mắt là phải giải quyết vấn đề tranh chấp trên Biển Đông bằng các
kênh ngoại giao, hợp tác song phương - đa phương để tạo môi trường hòa bình,
thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm mục tiêu
phát triển kinh tế biển có liên quan mật thiết đến chiến lược phát triển quốc
gia từ tiềm năng của Biển Đông. Việt Nam nằm ở bờ tây của Biển
Đông. Đối với Việt Nam, Biển Đông đóng vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng
và bảo vệ tổ quốc trong lịch sử, hiện tại và tương lai. Song, tình hình biển
Đông trong giai đoạn hiện nay là vô cùng phức tạp bởi các tranh chấp giữa các
nước trong khu vực, cũng như là sự tranh giành ảnh hưởng của các cường quốc lớn.
Trong chính sách đối ngoại của Đảng ở vấn
đề Biển Đông, nhiệm vụ ưu tiên và chủ yếu hàng đầu là giải quyết vấn đề tranh
chấp với Trung Quốc, thực thể có tiềm lực khổng lồ, và tranh chấp trực tiếp với
Việt Nam, có ảnh hưởng không nhỏ đối với chiến lược phát triển biển của Việt
Nam.
Đường lối đối ngoại của Việt Nam đối với Trung Quốc trong thời
gian hiện nay là vừa đấu tranh đàm phán để tạo dựng môi trường hòa bình để phát
triển kinh tế, đồng thời đấu tranh kiên quyết chống các hành vi lấn chiếm, tôn
tạo các đảo đang tranh chấp hay gây những bất ổn trong khu vực Biển Đông. Với
tư cách là hai quốc gia tranh chấp chủ yếu trong khu vực Biển Đông, Việt Nam và
Trung Quốc chịu ràng buộc của nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế
theo quy định của Hiến chương Liên hợp quốc và tập quán quốc tế. Không một nước
nào được phép sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp, trong đó có cả tranh
chấp trên Biển Đông.
Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp ở Biển Đông đã được
ghi nhận và nhắc lại nhiều lần trong các văn kiện song phương và khu vực. Năm
2002, ASEAN và Trung Quốc đã ký kết Tuyên bố về Ứng xử của các Bên ở Biển Đông
(Tuyên bố DOC)[12]. Các bên tái khẳng định
cam kết tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và “cam kết giải
quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực, thông
qua tham vấn, đàm phán hữu nghị giữa các quốc gia trực tiếp liên quan”[13].
Tuy nhiên, Tuyên bố DOC là một văn bản chính trị, không có giá trị ràng buộc,
do đó không tạo ra bất kỳ giá trị pháp lý nào.
Năm 2011, Việt Nam và Trung Quốc đã ký kết Thỏa thuận về các
nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa hai nước. Thỏa thuận
này yêu cầu hai nước trong quá trình đàm phán phải “thực hiện nghiêm túc nguyên
tắc và tinh thần” của Tuyên bố DOC[14]. Nếu
Thỏa thuận này được xem là một thỏa thuận có tính chất ràng buộc (một điều ước
quốc tế) giữa hai nước thì bằng cách dẫn chiếu đến Tuyên bố DOC, hai nước đã
trao giá trị ràng buộc cho Tuyên bố DOC.
Trong các tuyên bố chung giữa lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc
những năm gần đây, nghĩa vụ không làm phức tạp hay mở rộng tranh chấp được nhắc
lại nhiều lần.
Tuyên bố chung về chuyến thăm của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng
đến Trung Quốc (ngày 11 – 15/10/2011) ghi nhận: “Trước khi giải quyết dứt điểm
tranh chấp trên biển, hai bên cùng giữ gìn hòa bình, ổn định trên Biển Đông, giữ
thái độ bình tĩnh và kiềm chế, không áp dụng hành động làm phức tạp hóa hoặc mở
rộng thêm tranh chấp, không để các thế lực thù địch phá hoại quan hệ hai Đảng,
hai nước, xử lý các vấn đề nảy sinh với thái độ xây dựng, không để ảnh hưởng tới
quan hệ hai Đảng, hai nước và hòa bình, ổn định ở Biển Đông.”[15]
Tuyên bố chung về chuyến thăm của Chủ tịch nước Trương Tấn
Sang đến Trung Quốc (ngày 19 – 21/6/2013) bắt đầu ghi nhận Tuyên bố DOC: “Trước
khi tranh chấp trên biển được giải quyết dứt điểm, hai bên nhất trí giữ bình
tĩnh và kiềm chế, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, đồng thời
sử dụng tốt đường dây nóng quản lý, kiểm soát khủng hoảng trên biển giữa Bộ Ngoại
giao hai nước, xử lý thỏa đáng các vấn đề nảy sinh với thái độ xây dựng, không
để các vấn đề này ảnh hưởng đến đại cục quan hệ Việt-Trung cũng như hòa bình, ổn
định tại Biển Đông. Hai bên nhất trí thực hiện toàn diện, có hiệu quả “Tuyên bố
về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC), cùng nhau duy trì hòa bình và ổn
định ở Biển Đông.”[16]
Tuyên bố chung giữa Việt Nam và Trung Quốc trong chuyến thăm
của Thủ tướng Trung Quốc đến Việt Nam (ngày 13 – 15/10/2013) ghi nhận : “Hai
bên nhất trí kiểm soát tốt những bất đồng trên biển, không
có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp …, đồng thời tiếp tục
tích cực trao đổi và tìm kiếm các biện pháp có hiệu quả để kiểm soát tranh chấp,
duy trì đại cục quan hệ Việt - Trung và hòa bình, ổn định trên Biển Đông …. Hai
bên nhất trí thực hiện đầy đủ, hiệu quả “Tuyên bố về cách ứng xử của
các bên ở Biển Đông” (DOC), tăng cường tin cậy, thúc đẩy hợp tác, cùng nhau duy
trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông, theo tinh thần và nguyên tắc của “Tuyên bố về
cách ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC), trên cơ sở đồng thuận, nỗ lực hướng
tới thông qua “Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông” (COC).”[17]
Tuyên bố chung nhân chuyến thăm của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng
đến Trung Quốc (ngày 7 – 10/4/2015) nhất trí “cùng kiểm soát tốt bất đồng
trên biển, thực hiện đầy đủ có hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển
Đông (DOC) và sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) trên cơ sở hiệp
thương thống nhất, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp; xử lý kịp
thời, thỏa đáng vấn đề nảy sinh, duy trì đại cục quan hệ Việt - Trung và hòa
bình, ổn định ở Biển Đông.”[18] Trong
cùng năm, Tuyên bố chung nhân chuyến thăm của Tổng bí thư, Chủ tịch nước Trung
Quốc Tập Cận Bình đến Việt Nam (ngày 5 – 6/11/2015) nhắc lại nội dung trên.
Có thể thấy, từ năm 2011, các tuyên bố chung đã bắt đầu đề cập
đến việc không làm phức tạp, mở rộng tranh chấp trên Biển Đông giữa hai nước. Từ
năm 2013, các tuyên bố bắt đầu nhấn mạnh đến việc nghiêm túc tuân thủ một cách
toàn diện, đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố DOC và hướng đến xây dựng Tuyên bố COC.
Trong các tuyên bố trên, Việt Nam và Trung Quốc đã cam kết sẽ
giải quyết các tranh chấp thông qua biện pháp đàm phán trực tiếp giữa hai nước.
Thực tiễn cho thấy đàm phán là biện pháp duy nhất mà hai nước đã sử dụng để giải
quyết tất cả các tranh chấp từ trước đến nay, từ vấn đề Campuchia, bình thường
hóa quan hệ, phân định biên giới trên đất liền và ranh giới trên biển trong Vịnh
Bắc Bộ và nhiều vấn đề khác.
Bên cạnh đó, mối quan tâm của Trung Quốc đối với khối ASEAN
ngày càng tăng. Để tạo những điều kiện thuật lợi nhất để chống âm mưu thôn tính
Biển Đông của Trung Quốc thông qua chiều bài đường lưỡi bò, Việt Nam kiên trì đấu
tranh, kiến nghị để cùng với các nước ASEAN đang có tranh chấp với Trung Quốc
ra một thông cáo chung. Điều này chắc chắn sẽ làm Trung Quốc mất đi tính ưu thế
trong tranh chấp với Việt Nam, nhất là khi Trung Quốc muốn tranh thủ sự ủng hộ
của ASEAN để mà cạnh tranh với Mỹ. Ngày 20/7/2012, "Nguyên tắc 6 điểm của
ASEAN về vấn đề Biển Đông" của ASEAN được đưa ra sau khi Hội nghị Ngoại
trưởng ASEAN lần 45 kết thúc tại Phnom Penh đã một lần nữa khẳng định mong muốn,
quyết tâm của Việt Nam cũng như của các nước thành viên ASEAN khác tiếp tục duy
trì đoàn kết, phát huy vai trò trung tâm của mình trong các vấn đề của khu vực,
trong đó có vấn đề Biển Đông. Những hành động vào tháng 8/2010 trong việc cố tạo
ra những mâu thuẫn mới trong khu vực Biển Đông đã bị các nước ASEAN lên tiếng
gay gắt, chỉ trích.
Có thể nói các nước ASEAN chắc chắn sẽ không nhân nhượng
trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền đất nước, hải đảo và kiểm soát thềm lục địa.
Đặc biệt là các bên liên quan như Việt Nam, Philippin đã tuyên bố kiên quyết bảo
vệ chủ quyền của mình.
Bên cạnh các công tác đối ngoại song phương hay đa phương
trong lĩnh vực chính trị nhằm làm giải quyết vấn đề tranh chấp trên Biển Đông,
thì chính sách đối ngoại còn diễn ra trong cả lĩnh vực quân sự và quốc phòng. Đối
ngoại Quốc phòng là bộ phận, kênh đối ngoại quan trọng; tổng thể các hoạt
động, biện pháp hòa bình nhằm thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại,
chính sách quốc phòng trong quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế, góp
phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
tham gia gìn giữ hòa bình, ổn định của khu vực và trên thế giới.
Đối ngoại Quốc phòng không phải là công tác đối ngoại đơn
thuần của Bộ Quốc phòng, quân đội mà bao gồm các hoạt động đối ngoại trong
lĩnh vực quốc phòng với các nước, các tổ chức quốc tế, liên quan đến độc lập,
chủ quyền, lợi ích quốc gia-dân tộc của Việt Nam và an ninh, hòa bình của khu
vực, thế giới; đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Chính phủ, trực
tiếp, thường xuyên là Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng.
Đối ngoại Quốc phòng là một thành tố quan trọng của đối
ngoại quốc gia, với những đặc trưng: Một là, vừa hợp tác, vừa đấu tranh để
bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh, lợi ích quốc gia-dân tộc; hai
là, góp phần bảo vệ hòa bình, tạo môi trường thuận lợi, tranh thủ điều kiện
quốc tế để xây dựng, phát triển đất nước; ba là góp phần nâng cao vai
trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế; bốn là tranh thủ điều kiện từ bên
ngoài để xây dựng quân đội.
Trong điều kiện tranh chấp Biển Đông ngày càng căng thẳng,
thì để
thực hiện được mục tiêu đặt ra, đối ngoại quốc phòng cần phải “Chủ động tham
gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, trước hết là các cơ chế hợp tác quốc
phòng do ASEAN giữ vai trò chủ đạo, tham gia các cơ chế đa phương về kiểm soát
vũ khí hủy diệt hàng loạt, diễn tập chung và các hoạt động khác. Tại Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ XII (2016), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục chủ trương: Chủ
động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh, trong đó
có việc tham gia các hoạt động hợp tác ở mức cao hơn như hoạt động gìn giữ hòa
bình của Liên hợp quốc, diễn tập về an ninh phi truyền thống và các hoạt động
khác.
Việt Nam cũng tham gia các cơ chế hợp tác
quốc phòng như Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ
trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), ARF, Đối thoại Shangri-La...
và việc chính thức tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc... Đồng
thời, nghiên cứu tham gia các cơ chế hợp tác quốc phòng đa phương khác.
Sáng kiến về Diễn đàn “Hội nghị Bộ trưởng
Quốc phòng các nước ASEAN” được nhóm công tác về hợp tác an ninh đưa ra trong
cuộc họp ngày 09/5/2004 tại In-đô-nê-xi-a và được Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ
10 họp tại Lào tháng 12/2004 thông qua. Qua các lần Hội nghị (cho tới nay ADMM
đã trải qua hội nghị lần thứ 9), Việt Nam luôn tích cực tham gia và chia sẻ
quan điểm về những vấn đề an ninh nổi lên ở khu vực, tuyên truyền đường lối và
chính sách quốc phòng hòa bình và tự vệ của Việt Nam, qua đó xây dựng lòng tin,
tăng cường tình đoàn kết hữu nghị giữa quân đội các nước ASEAN. Liên quan đến
tình hình phức tạp ở Biển Đông, Việt Nam luôn đưa ra những quan điểm và đề xuất
các biện pháp giải quyết hòa bình.
Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước
ASEAN mở rộng (ADMM+) được tổ chức lần đầu tiên tại Việt Nam năm 2010, có sự
tham dự của 18 nhà Lãnh đạo quốc phòng 10 nước ASEAN và 8 nước Đối tác Đối thoại
là: Trung Quốc, Nga, Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân.
Như vậy, kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, ở khu vực châu Á - Thái
Bình Dương, ADMM+ lần thứ nhất là Hội nghị có số lượng Bộ trưởng Quốc phòng
tham dự lớn nhất. Sự thành công của hội nghị này có dấu ấn rất rõ nét của nước
chủ nhà Việt Nam; thể hiện rõ uy tín và vai trò của Việt Nam trong năm Chủ tịch
ADMM. Việt Nam thực sự đã tạo được sự gắn bó, đoàn kết trong ASEAN, khẳng định
được vai trò chủ động của ASEAN trong tiến trình ADMM+ và đã thực hiện rất tốt
công tác điều phối giữa các nước ASEAN và các nước đối tác, đối thoại; đặc biệt,
trong việc tạo đồng thuận đối với các nội dung của Hội nghị.
Hội nghị cấp cao An ninh châu Á-Thái Bình
Dương hay còn gọi là Đối thoại ShangriLa được tổ chức thường niên từ năm 2002 tại
khách sạn Shangri-La của Singapore theo sáng kiến của Viện Nghiên cứu Chiến lược
Quốc tế (IISS). Thành phần tham dự Đối thoại là các Bộ trưởng Quốc phòng, Tổng
Tham mưu trưởng, các quan chức chính trị, ngoại giao của các nước trong khu vực
châu Á-Thái Bình Dương. Việt Nam tham dự Đối thoại ShangriLa ngay từ đầu. Từ chỗ
tham gia ở cấp thấp, Việt Nam đã cử quan chức cấp cao hơn tham dự và gửi đi
thông điệp tới bạn bè quốc tế về khát vọng cũng như trách nhiệm của Việt Nam đối
với hòa bình, ổn định của khu vực và quốc tế, đồng thời, khẳng định sự cần thiết
phải có lòng tin chiến lược trong quan hệ quốc tế, cũng như thiện chí mong muốn
ngăn ngừa và giải quyết xung đột bằng biện pháp hòa bình.
Việc gia nhập vào các hệ thống và cơ chế
này không phải là mục đích của Đối ngoại Quốc phòng. Việt Nam gia nhập hệ thống
và tổ chức, cơ chế này nhằm thực hiện những lợi ích của mình trong đó, giành
quyền cho Việt Nam và cho các nước có cùng ý tưởng, từ đó cải cách và cải tạo
những yếu tố không công bằng, không hợp lý trong hệ thống quốc tế. Thảo luận và
làm rõ lợi ích khu vực và quốc tế của Việt Nam, thể hiện mục tiêu và nội dung
chiến lược của Việt Nam trong khu vực và quốc tế, làm cho Việt Nam có những mục
tiêu rõ ràng và lâu dài khi tham gia ĐNQPĐP, nắm vững và có đối sách rõ ràng đối
với các chương trình hoạt động ngoại giao, đồng thời chủ động thúc đẩy chương
trình đa phương có lợi cho hòa bình và phát triển của Việt Nam và thế giới.
Kết luận
Có thể nhận thấy vai trò địa lý có tác động rất to lớn đối với
các chiến lược của các quốc gia và trên thế giới, các
nước đều quan tâm đến địa chính trị và gắn nó với các chiến lược của đất nước
và quan hệ quốc tế. Việt Nam mặc dù là đất nước nằm trong “vành đai trong” theo
lý thuyết của Mackinder. Song, chính vị trí địa lý và sự vận động phát triển của
quan hệ chính trị trong khu vực trong thế kỷ XX đã đưa vai trò, vị thế của Việt
Nam trở thành mắc xích quan trọng trong địa chính trị khu vực.
Trong chiến lược phát triển của các cường
quốc, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc. Đối với Mỹ, mặc dù Liên Xô đã không còn tồn
tại, mâu thuẫn đối kháng giữa hai hệ thống tư tưởng chính trị đã không còn nữa,
song, nước Nga ngày nay vẫn án ngữ ở “miền đất trái tim” của lục địa Á – Âu, vẫn
trở thành nơi có thể thách thức sức mạnh của cả Hoa kỳ. Do đó, sự cần thiết phải
giành quyền ảnh hưởng trong khu vực và kiểm soát đối với Việt Nam hiện nay đã
trở thành yêu cầu bức thiết nếu Mỹ muốn ngăn chặn sự hùng mạnh trở lại của nước
Nga, nhất là sau khi cô lập Nga ở châu Âu và Trung Á. Đồng thời Mỹ cũng cần thiết
phải ngăn chặn sự trỗi dậy của các cường quốc khu vực, đặc biệt là Trung Quốc
và Nhật Bản, những nước rất cần thị trường tài nguyên giàu có của vùng Đông Nam
Á làm bàn đạp trỗi dậy. Do đó chính sách đối ngoại của Việt Nam là cần thiết phải
tranh thủ “đồng minh tự nhiên” là Mỹ để tạo ra những điều kiện thuận lợi để
phát triển đất nước, tạo điều kiện tốt hơn nữa để đưa đất nước hội nhập sâu vào
nền kinh tế quốc tế.
Còn đối với Trung Quốc, cũng là quốc gia “vành đai trong”
song, chính vị trí đặc biệt của mình ở Đông Á, cùng với việc dân số đông đảo.
Trung Quốc có khả năng và tiềm lực tạo nên sự trỗi dậy để thách thức vị trí
siêu cường của cường quốc biển là Mỹ và cường quốc lục địa là Nga. Nếu như
Trung Quốc kiểm soát được vùng Đông Nam Á thì đồng nghĩa khả năng và tiềm lực
đó của Trung Quốc ngày càng mạnh mẽ, có khả năng đưa Trung Quốc sẽ trở thành
siêu cường cả về lục địa và biển. Vì thế chính sách đối ngoại của Việt Nam đối
với Trung Quốc là tạo một bước đi trung lập, không đứng về Mỹ để chống Trung Quốc,
cũng không đứng về phía Trung Quốc để chống Mỹ. Vừa hợp tác toàn diện vừa đấu
tranh nhằm bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền hợp pháp và lợi ích cốt lõi của Việt
Nam trong vấn đề tranh chấp Biển Đông.
Ngày nay, ngoài sử dụng thuyết sức mạnh trên biển, trên không
thì các nước đang quan tâm nhiều đến thuyết địa chính trị tài nguyên, địa chính
trị biển đảo và các ưu thế của riêng mình để bảo vệ an ninh quốc gia và tăng vị
thế của mình trong các đàm phán song phương và đa phương. Theo đó Việt Nam, đã
và đang cố gắng sử dụng vị trí, vai trò của mình trong địa chính trị khu vực với
phương
châm "dĩ bất biến, ứng vạn biến", vận dụng sáng tạo những bài học
kinh nghiệm trong công tác ngoại giao của các thế hệ đi trước để góp phần duy
trì môi trường hoà bình ổn định để phát triển đất nước, giữ vững chủ quyền và bảo
vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
[1] Vũ
Hồng Lâm, “Tài nguyên địa chính trị của Việt Nam”, Thời báo kinh tế Sài Gòn, số
26-11-2005.
[2] Đảng
Cộng sản Việt Nam, Chiến lược phát triển kinh tế -xã hội 2001-2010, trong Đảng
Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị
Quốc gia, H, 2001, tr.181-182.
[3] Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát
huy sức mạnh dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kinh tế kém phát triển.
[4] Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa X Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, trong Đảng Cộng sản Việt Nam,
Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khóa X (lưu hành nội bộ),
Nxb Chính trị quốc gia, H, 2007, tr.70.
[5] Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa X…, bài đã dẫn, tr.71
[6] Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa X…, bài đã dẫn, tr.76
[7] S. Hungtington, The Clash of Civilization, New
York, Simon and Schuster, 1996, p.312-313
[8] V.
Kolotov, Main Trends of Russia’s Foreign Policy in Transforing East and
Southeast Asia.
[9]
Raymon F. Burghardt, Old Enemies Become Friends: U.S and Vietnam, Brookings
Northeast Asia Commentary, November 2006.
[10]
Ban tư tưởng – Văn hóa Trung ương, Tài liệu học tập nghị quyết Hội nghị lần Tám
Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003,
tr.46-47.
[11]
Nguyễn Chí Vịnh, Không để nước khác thỏa hiệp trên lưng mình, báo Vietnamnet
ngày 8.1.2011.
[12] Tuyên bố về Ứng xử của
các bên ở Biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc, 2002.
[13] Như trên, Điều 4.
[14] Thỏa thuận về những
nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc,
ký ngày 11/10/2011 tại Bắc Kinh, Điều 3
[15] Tuyên bố chung Việt Nam –
Trung Quốc trong chuyến thăm của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đến Trung Quốc
(11–15/10/2011), mục 5
[16] Tuyên bố chung Việt Nam –
Trung Quốc trong chuyến thăm của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đến Trung Quốc
(19–21/6/2013), mục 4
[17] Tuyên bố chung Việt Nam –
Trung Quốc trong chuyến thăm của Thủ tướng Trung Quốc đến Việt Nam (ngày 13 -
15/10/2013), đoạn 5.c và đoạn 8
[18] Tuyên bố chung Việt Nam –
Trung Quốc trong chuyến thăm của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đến Trung Quốc (7
– 10/4/2015), mục 5
